Nguyễn Văn Lục
Passage to Freedom
Khi người di cư miền Bắc bồng bế nhau bước lên tàu há mồm để đi vào miền Nam thì đều nhìn thấy được tấm biểu ngữ viết sau đây dăng ngang trước lối lên"tầu há mồm": Passage to Freedom.Đường đến Tự Do.
Nhiều người nay đã hẳn vẫn chưa quên được tấm
biểu ngữ đó
Phải chăng đó là mục đích tối thượng của việc bỏ
nhà, bỏ cửa, bỏ ruộng vườn để đi vào miền Nam. Chọn lựa không phải
dễ cho mọi người.
Nhưng đó lại là biểu tượng ý nghĩa nhất cho cuộc
di cư 1 triêu người miền Bắc vào miền Nam, năm 1954-1955. Đó là ra
đi để tìm tự do.
Đó cũng là cuộc Nam Tiến lớn nhất vì lý do chính
trị trong lịch sử Việt Nam.
Cuộc di cư đó cũng mở ra đường ranh giới phân
chia Quốc Cộng ở vĩ tuyến 17. Bên này là Quốc Gia, bên kia là Cộng
Sản. Quốc gia đồng nghĩa với tự do.Cộng sản đồng nghĩa với độc tài.
Người viết bài này, xin được nhắc lại một vài
hôi ức về quang cảnh cuối cùng của cuộc di cư xảy ra tại Hà nội của
quân đội Pháp và tâm tình của người dân Hà nội cũng như hình ảnh Hà
nội sau khi bộ đội Việt Minh cộng sản tiếp thu miền Bắc.
Ký ức hơn 50 năm nay đã có phần mịt mù, phần nhớ,
phần quên. Xin được ghi lại được phần nào hay phần ấy.
Một điều rất rõ nét là quý vị đọc những dòng hồi
ức này xin liên tưởng tới những dòng hồi ức sau ngày 30 tháng tư của
chính tác giả. Một cuộc đời mà
hai lần phải bỏ quê hương xứ sở mà đi.
Biết bao nhiêu là mất mát.
Hà nội 54-55 và Sài gòn 75 có có gì giống và
khác? Giống ở một số hoàn cảnh , một số tâm tình. Nhưng lại khác
hoàn toàn, vì 75 là một bi kịch chính trị với đổ vỡ hoàn toàn về mọi
phương diện không còn một hy vọng gì nữa.
Hà nội ngày 9 tháng 5 năm 1954
Đây là ngày đáng ghi nhớ cho quân đội Pháp ở Hà
nội. Một hào quang cuối cùng ghi nhớ lại chiến thắng người Đức trước
khi phải cuốn gói rời bỏ VN sau một thế kỷ chế độ thuộc địa.
Ngày hôm ấy, người Pháp vẫn không quên tổ chức
một buổi diễn binh tại Hà Nội để kỷ niệm ngày quân đội Pháp và đồng
minh đã thắng Đức trong thế chiến thứ hai. Đối diện tượng đài chiến
sĩ, người ta vẫn dựng một khán đài bằng gỗ như dự định do các" cu ly
"Việt Nam dựng lên mà chung quanh chăng rất nhiều lá cờ ba sọc xanh
trắng đỏ. Tuy nhiên, không khí buổi lễ năm nay không còn cái vẻ tưng
bừng của ngày lễ ăn mừng chiến thắng nữa. Có cái vẻ gượng gạo, mặc
dầu mọi người vẫn muốn tỏ ra mọi chuyện vẫn như bình thường.
Người viết đặc biệt ghi lại buổi lễ này và giúp
hiểu được tại sao người Pháp đã làm như vậy.
Phải nhìn nhận rằng người Pháp quả thực có truyền
thống "quân tử". Nhờ đó họ mới có đủ can đảm tiếp tục tổ chức một
buổi lễ như thế trong tình cảnh thua cuộc. Chúng ta cũng sẽ nhận
thấy người Pháp đã tổ chức buổi duyệt binh cuối cùng với đầy đủ lễ
nghi quân cách, uy nghi, oai vệ của họ.
Họ muốn chứng tỏ họ là những chiến binh chuyên
nghiệp, có tác phong của một quân đội có truyền thống lâu đời.
Họ đã thua trong danh dự, thua "đàng hoàng", thua
mà không mất mặt.
Thật ra, không ai trong số những quan chức Pháp
và Việt đang được dẫn lên khán đài ngạc nhiên về việc mất Điện Biên
Phủ. Người ta chờ cái tin nó đến như thể một điều không thể khác
được. Mỗi ngày lại thêm những tin xấu được gửi về từ cái lòng chảo
đó. Người ta thậm chí đã chờ nó đến.
Mặc dầu vậy, người ta chỉ thấy có một vài ghế
trống dành cho quan chức thuộc địa và bản xứ trong buổi lễ. Họ vẫn
đủ mặt.
Buổi lễ vẫn tiến hành như thể trước đó đã không
có gì xảy ra.
Vẫn bình thường. Đó là cung cách ứng xử hay nhất
của người Pháp sau Điện Biên Phủ.
Lối ứng xử của người quân tử, có truyền thống văn
hóa lâu đời.
Tướng Cogny là tư lệnh Bắc Kỳ với vóc dáng cao
lớn, nghiêm trang và lạnh lùng. Vào những giờ phút cuối cùng này
đây, ông vẫn tỏ ra uy quyền, chống gậy ba toong, trịnh trọng nhưng
chậm chạp trong cung cách một vị tướng, đến bên tượng đài chiến sĩ
đặt một ít cỏ và một vòng hoa nhỏ. Xong đâu đấy, ông gắn huy chương
và dây huân chương cho một số sĩ quan và hạ sĩ quan. Những dây này
đã đặt sẵn trên chiếc khay nhung mầu tím đỏ, do các sĩ quan tùy viên
của ông bưng tới. Ông quàng dây huân chương chéo qua ngực những
người sĩ quan ấy và ôm chúc mừng họ.
Đây là lần cuối ông làm công việc khó khăn này.
Xong, ông phất tay một cái ra hiệu, buổi diễn
binh bắt đầu.Có một đại tá lén lấy chiếc mùi xoa trong túi áo lau
nước mắt. Nỗi buồn thảm như đọc thấy trên khuôn mặt những người tham
dự buổi lễ.
Người ta nhận thấy đội quân nhạc bắt đầu cử những
bài hát thường lệ, trong đó có bài Hồn tử sĩ để tưởng nhớ đến các
đồng đội đã hy sinh trong thế chiến thứ hai. Thường khi nghe những
bài hát như thế, người ta cúi đầu, các mệnh phụ kín đáo lấy chiếc
khăn nhỏ lau nhẹ khóe mắt. Song hôm đó, sự im lặng cùng nghi thức
nghiêm chỉnh dường như chứa đựng một ý nghĩa nào đó khác thường.
Những chiến binh nhảy dù trong khi duyệt binh,
phần đông kéo lê đôi chân vì những vết thương cũ, cố nhịp bước theo
đoàn trong tiếng nhạc quân hành, nghếch mặt về phía khán đài đang
rầm rộ tiếng vỗ tay. Nhiều người trong số họ là những kẻ may mắn
cuối cùng vì đã không bị gửi lên Điện Biên Phủ chỉ vì lý do giản dị
là họ bị thương hoặc thuộc thành phần trù bị. Họ đi như những bóng
ma, mặt đanh lại, lạnh lùng tiến bước.
Họ là đại diện cuối cùng cho một đoàn quân chiến
bại.
Cách đó không xa, đồng đội của họ còn nằm la liệt
trên cáng dọc hành lang tại nhà thương Lanessan.
Sau này cũng chính nơi đây, mỗi ngày nhận đều đều
đám tù binh được bộ đội Việt Minh thả ra từ Việt Trì. Đám tù binh
Pháp được thả ra chẳng khác gì như những thây ma, da bọc xương vì
thiếu ăn, bệnh tật. Họ gồm tất cả 11721 người vừa bị thương, hoặc bị
bắt làm tù binh.
Trong số hơn 10 ngàn người bị bắt làm tù binh
lúc thất trận Điện Biên Phủ. Chỉ có 3290 trở về. Còn lại 7801 người
kia số phận ra sao, không ai hay biết.? Có thể họ chết vì thiếu ăn
và bệnh tật trong các trại giam của cộng sản.?
Nào ai biết được? Ai còn nghĩ đến số phận của họ?
Kẻ thua trận một cách nào đó cũng là kẻ đã chết, bị chôn vùi và bị
quên lãng.
Buổi lễ mừng chiến thắng, nhưng hôm nay nó mang
một ý nghĩa tang chế. Tưởng nhớ những người đã bỏ mình và
thương tiếc cho những kẻ thua trân. Không một ai trong số quan chức
có mặt ngày hôm nay có thể quên được chỉ cách đây hai hôm, vào ngày
mồng 7 tháng 5 năm 1954, cách Hà Nội chừng 300 cây số đường chim
bay. Tin thất trận bay về như một tin dữ. Họ làm sao quên được trước
đó, ngày 3 tháng 4 vừa qua. Tin tức chiến sự tới tấp gửi về cho biết,
sau 90 giờ liên tục chiến đấu, Eliane 2 vẫn đứng vững. Buổi chiều
đến lượt Huguette 6 bị tấn công. Tảng sáng mồng 4 tháng Tư, Việt
Minh rút lui. Trận đánh ở Eliane tạm ngưng. Lúc đó Eliane đã cầm cự
được 107 giờ. Buổi chiều, đến lượt Huguette 6 lại bị tấn công. Có 5
tiểu đoàn Việt Minh tấn đánh Huguette.Tiểu đoàn Clédic 2-1 được gửi
đến tiếp viện. Họ bị chặn lại nhưng đã cố gắng vượt qua được phi đạo,
đẩy lui cánh quân Việt Minh đang ở phía đó. Sáng mồng 5, Clédic
chiếm lại được Huguette 6. Sau đó, hai đại đội đã tìm cách chiếm lại
Eliane 1. Charles và Minaud đến tiếp tay. Vào lúc 23 giờ Bigeard
quăng thêm vào hai đại đội. Họ bị phản công mạnh bởi binh đội Việt
Minh. Bigeard quăng tiếp thêm hai đại đội nữa của Tiểu đoàn 5 dù
Việt Nam, BPVN (bataillon de parachutistes Viet Nam) do Guilleminot
và trung úy Phạm Văn Phú chỉ huy. Sau này, người ta ghi nhận gương
can đảm của binh sĩ nhảy dù đến tiếp viện của Guilleminot và trung
úy Phú. Trung úy Phú sau lên cấp tướng trong Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa. Nhưng đến 30 tháng 4, 1975 một lần nữa ông nếm mùi thất bại,
đầu hàng Việt Minh. Sau đó ông đã tuẫn tiết.
Lòng chảo Điên Biên Phủ nhắc nhở tới An Lộc trước
1975 của quân đội VNCH. Trận chiến ác liệt với mưa pháo. Vẫn cố thủ.
Vẫn can trường. Cũng bị tấn công ngày đêm, cũng bị tràn ngập. Nhưng
những chiến sĩ trong binh đội Pháp cũng như binh sĩ VNCH vẫn kiên
trì giữ tới cùng.
Về phía bắc Điện Biên Phủ, trung úy Allaire vào
giờ phút chót nhận được lệnh của trung tá Bigeard phải buông súng.
Allaire bàng hoàng không biết phải làm gì? Anh
chưa bao giờ nghĩ đến chuyện phải đầu hàng.Tại sao có thể như thế
được? Làm sao anh có thể nói với đồng đội điều đó? Anh gọi cho
Bigeard thông báo đã nhận được lệnh nhưng yêu cầu trung tá gửi cho
một lệnh viết tay. Bigeard bực mình song cũng chiều lòng cấp dưới.
Ông trả lời. Được rồi, nhưng anh cho người của anh đến bộ chỉ huy.
15 phút sau, người lính nhảy dù do Allaire phái đi, quần áo nhếch
nhác, lấm bùn đất quay trở lại với mảnh giấy nguệch ngoạc mấy dòng
chữ viết vội của Bigeard: Gửi Allaire, ngừng chiến đấu vào lúc 17
giờ ba mươi. Hãy ngừng bắn. Không treo cờ trắng. Hẹn gặp lại.
Ở bên dưới ghi thêm mấy chữ không phải là lệnh mà là sự tỏ bày
thương xót: Tội nghiệp đơn vị 6. Tội nghiệp những thằng con nhảy
dù. Allaire nhét mảnh giấy vào túi mệt mỏi, chán nản văng tục:
Mẹ kiếp!.
Tại cứ điểm Eliane 3, Allaire vén tay áo nhìn
đồng hồ. Lúc ấy là 17 giờ. Cứ điểm sẽ bị chiếm lúc 17 h 30.
Trong chiến trận Điện Biên Phủ, ít ai để ý đến
chi tiết mà tôi vừa trích dẫn ở trên. Trung tá Bigeard biết rằng
không đủ sức cầm cư với binh đội Việt Minh nữa. Nhưng ông còn dặn
Trung Úy Allaire là nhớ không được trưng cờ trắng để đầu hàng. Trung
úy Allaire đã làm theo lệnh cấp chỉ huy của mình. Sau đó, Allaire bị
bắt làm tù binh. Mặc dầu bị khám xét rất kỹ càng, trung úy Allaire
vẫn cất dấu được mảnh giấy với vài dòng ghi chú của Bigeard. Sau này,
cộng sản làm phim về ĐBP cũng không dám trưng cờ trắng lên .
Nay thì người ta có dịp được đọc mấy dòng chữ ghi
có tính cách lịch sử đó của trung tá Bigeard.do Allaire còn giữ lại
được. Ít lắm, người Pháp cũng không chịi kéo cờ trắng lên đầu hàng.
Sự thực là như vậy.
Những chi tiết nhỏ xem ra không quan trọng này
lại cho thấy việc đào luyện sĩ quan Pháp có truyền thống tôn trọng
danh dự, lý tưởng, sự hy sinh cũng như kỷ luật quân đội của họ..như
lời nhận định của tướng Giáp sau này.
Tinh thần đó cũng có thể tìm thấy nơi tướng De
Lattre khi sang chỉ huy quân đội ở Việt Nam. De Lattre có mặt ở Việt
Nam, vào tháng 12, năm 1950. Ông có tham vọng và mong muốn
đào tạo một lớp sĩ quan trẻ VN như ông đã nói với Bảo Đại: "
Pour vous prouver ma bonne foi, Sire, Je vais vous bâtir une armée
Vietnamienne digne de vous, digne du Viet Nam, une armée moderne il
n'y en a aucune dans tout l'Extrême_Orient et vous en serez le chef
suprême. L'armée Viet Nammienne doit représenter la volonté du
peuple de vaincre le communisme."{ Trích trong Le Dragon d'
Annam, Bảo Đại, trang, 272 Lược tóm: Thưa Hoàng Thượng, để chứng tỏ
thiện chí với Ngài, tôi sẽ xây dựng một quân đội Việt Nam xứng đáng
một quân đội VN hiện đại mà trên toàn thể Viễn Đông không đâu có.
Và Ngài sẽ là vị tư lệnh tối cao. Quân đội VN sẽ thể hiên ý chí của
người dân để thắng cộng sản}.
Con trai ông,
trung úy Bernard de Lattre đã hy sinh vào ngày 30/4/1951 tại mặt
trận ở Ninh Bình. Đã có con trai của ngót nghét gần 200 trăm tướng
lãnh VNCH nào đã phải hy sinh ở ngoài chiến trường chưa?{Tôi chỉ
biết có một trường hợp là con riêng của vợ tướng NQT đã hy sinh
ngoài mặt trận mà thôi}.
Tinh thần binh
đội Pháp cũng khác hẳn cái cảnh tháo chạy hốt hoảng, bỏ rơi đồng
minh VNCH của một cường quốc vốn thiếu truyền thống văn hóa. Vì
thế, nhiều nhân vật trong chính quyền miền Nam sau này cảm thấy như
bị lừa, bị phản bội vì cái cung cách của người Mỹ.
Họ có thừa cơ
hội và sức mạnh và điều kiện để bắt bộ đội Cộng Sản phải "án binh
bắt động" để người của họ ra đi đàng hoàng trong trật tự.
Kissinger cuối
cùng chỉ là môt tên tay chơi cờ bạc bịp không hơn không kém. Y biến
cuộc tháo chạy thành một sự thua cuộc bỉ ổi, mất mặt.
Sau 1975, các
nước bạn và đồng minh của Mỹ cảm thấy không an tâm trong mối giao
thiệp ngọai giao và hợp tác quân sự với Mỹ.
Tệ hại hơn cả
là nó đã biến quân đội quốc gia miền Nam sau 20 năm chiến đấu dũng
cảm vào những giờ phút cuối cùng trở thành những tên lính đánh thuê
và một đám tướng lãnh hèn nhát, đua nhau bỏ trốn như loài chuột. Mà
đáng nhẽ số phận quân đội ấy phải được hưởng những giờ phút cuối
cùng xứng đáng hơn sau 20 năm chiến đấu .
Cho nên, sau
này, người ta không thể nào hiểu được cuộc tháo chạy nhục nhã, vô lý
đến như thế, vì không đáng thua mà thua. Và chẳng may nếu có thua
thì đã hẳn cũng cần có một cách khác để thua.
Nhìn lại ngày
30 tháng tư, lúc 10 giờ sáng, tướng Dương Văn Minh ra lệnh quân đội
VNCH ngưng bắn để sẵn sàng trao quyền lại cho quân đội Bắc Việt. Chỉ
nửa giờ sau, ông đã sửa lại bản tuyên bố lúc 10 giờ và ra lệnh cho
quân đội VNCH phải đầu hàng.
Có thể mọi truyện
sẽ vẫn diễn ra bình thường, dù là trao quyền hay đầu hàng thì cũng
sẽ không thay đổi được gì,
Nhưng đã hẳn
chỉ có điều khác biệt là danh dự của người làm tướng được giữ nguyên
vẹn. Mạng sống của người làm tướng, dù từ chối đầu hàng cũng không
vì thế mà bị lâm nguy. Ngược lại sau này còn được hậu thế kính nể.
Kết luận về
trận chiến ĐBP
Nói chung, ít
ai ra mặt ủng hộ kế hoạch của Navarre. Cũng không có sĩ quan Pháp
nào lưu tâm và nhấn mạnh đến sự tiếp viện võ khí, quân nhu, quân
dụng, quân đội, huấn luyện của Mao Trạch Đông trong trận chiến Điện
Biên Phủ. Phải nói thẳng, không có sự tiếp viện ồ ạt ấy từ 1950,
không ai có thể tiên đoán được điều gì sẽ xảy ra?
Trong khi đó
sau khi ĐBP bị mất, Mendes France là người lên thay thế ông Laniel
trong vai trò Thủ Tướng Pháp.Ông quyết định trong vòng một tháng, hội
đàm Genève phải được kết thúc.Vì thế, ông tránh né đề cập đến hiện
trạng tù binh Pháp còn nằm trong tay Việt Minh Ông mặc xác số phận họ,
cũng không nhắc đến họ với phía bên kia sợ gây trở ngại cho tiến
trình đàm phán.
Nhưng ngược lại,
một số tù binh Việt Minh được Pháp thả về thì mạnh khỏe, to béo, mặc
đồ của Sở Hành chính tài chính của người Pháp phát. Trên xe trở về,
đám tù binh Việt Minh cởi quần áo vứt trả lại, chỉ mặc một cái quần
đùi, ném trả lại đồ ăn như bánh mì. Một trong những tù binh Việt
Minh đó có tướng Nguyễn Chuông, nguyên tiểu đoàn trưởng thuộc đại
đoàn 312, Trong cuộc phỏng vấn của đài BBC cho biết ông là cấp chỉ
huy Việt Minh cao cấp nhất bị Pháp bắt. Ông được một linh mục Tuyên
úy Pháp giúp đỡ và ủy lạo và được người Pháp đối xử tử tế.
Nhưng ông nói,
khi ông trở về thì gặp vất vả từ phía đồng đội của ông..Ông bị ngưng
chức, ngưng sinh hoạt đảng..Mãi sau này, ông mới được phục họat chức
vụ. Sau này ông là sư trưởng quân đội miền Bắc đánh Sư đoàn 5 Quân lực
Việt Nam cộng hòa.
Hà nội chuyển
mình
Trong lúc đó ở
Hà Nội, có nhiều dấu hiệu lạ. Pháp chưa thua trận Điện Biên Phủ mà
người ta đã thấy đâu đó những tờ báo in lén ra ngày 2-5-1954 với
măng sét cố chạy dài khẩu hiệu Cương quyết chống văn hóa dâm ô trụy
lạc. Một cái khẩu hiệu như thế có vẻ như lạc điệu và buồn cười
trong tình thế hiện nay. Ai còn có tâm trí đâu để nghĩ đến những
chiêu bài cải tiến xã hội như vậy. Người ta tự hỏi như thế có sớm
quá chăng? Người Pháp vẫn còn đó. Mất Điện Biên Phủ nhưng chưa mất
Hà Nội. Vì thế mà vào ngày 2-7-1954, tờ báo bị người Pháp bắt đình bản.
Thật ra, y hệt
như Sài gòn trước 1975, Việt Minh đã cài được người trong bộ máy
hành chánh, quân đội của chính quyền Quốc Gia do Bảo Đại cầm đầu.
Thời ấy, chưa có một Phạm Ngọc Ẩn thì cũng đã có một Nguyễn Bắc Nguyễn
Bắc, bề ngoài là một giáo sư Trung học lịch thiệp, xã giao, gặp ai
cũng có sẵn một nụ cười. Trong khi đó, vợ Nguyễn Bắc là giáo viên
ngoài khu. Cuộc sống của Nguyễn Bắc coi bộ dễ dãi, nhàn tản. Nguyễn
Bắc lại sống dưới một cái dù che an toàn. Ông ở dưới sous-sol căn biệt
thự của một người Pháp giàu có là Charles Henri de Montpezat, một
viên chức kỳ cựu nổi tiếng của dân Pháp có máu mặt tại Hà nội. Ra
vào như thể một người giúp việc tin cẩn. Đấy là tấm thẻ căn cước có
giá trị nhất cho người làm gián điệp.{ tài liêu trích trong Histoire
de Hà noi của Philippe Papin, trang 298, nxb Fayard}
Nguyễn Bắc tìm
cách rải truyền đơn, tuyền truyền chống đối lại lệnh của tướng De
Lattre kêu gọi thanh niên từ 18-20 tuổi tòng quân. Một hình thức
Việt Nam hóa chiến tranh như thời thập niên 1979. Nguyễn Bắc động
viên, thúc dục các bà mẹ biểu tình chống đối tổng động viên trước
rạp cine Majestic, Hà nội.
Việt Minh cũng
có một hệ thống giao liên, thông tin và rải truyền đơn hữu hiệu, do
các người bán hàng rong, một nghề vốn rất phổ biến ở Hà nội cho đến
hiện bây giờ. Nghề bán hàng rong là một bộ mặt rất đặc trưng của Hà
nội cùng với 36 phố phường buôn bán tấp nập.Vì thế, thủ đô Thăng
Long vào thế kỷ 17, đời Trần được gọi là Kẻ chợ { le
marché}. Hai phố Hàng Ngang và Hàng Đào được coi là hai phố buôn bán
sầm uất nhất. Nghề bán hàng rong ở Hà nội trở thành hệ thống thông
tin và giao liên hữu hiệu của quân đội Bắc Việt. Nhưng hiện nay thì
họ đang bị chính quyền Hà nội xua đuổi như đuổi gà, vì làm mất trật
tự và thẩm mỹ của thành phố.
Cạnh đó, người
ta còn nhận thấy có hiệu sách do ông Nguyễn Mạnh Hà làm chủ.( Ông
Nguyễn Mạnh Hà, một trí thức công giáo học ở Pháp, quốc tịch Pháp, lấy
vợ đầm, ngả theo Việt Minh, cựu bộ trưởng kinh tế chính phủ do Hồ
Chí Minh cầm đầu}. Hiệu sách này là trung tâm liên lạc giữa vùng tề
và kháng chiến. Người ta có thể mua bất cứ sách vở, báo chí gì từ
bên Pháp gửi qua như l'Express, L'Observateur, L'Humanité, Paris-
Match hoặc các sách vở ít chính thống thuộc nhà xuất bản Xã Hội {
Éditions sociales}. Tài liêu trích trong Histoire de Hà noi của
Philippe Papin, trang 298, nxb Fayard}
Hà nội đi
hay ở.
Bên cạnh sự ra
đi của quân đội Pháp, một số không nhỏ lên đến cả triệu người cũng
ùn ùn ra đi theo quân đội viễn chinh Pháp. Trong đó, đa số là người
Thiên Chúa giáo gồm 5 vị Giám mục, 700 linh mục cùng di cư vào miền
Nam với hơn 600 ngàn người Thiên Chúa giáo. Nhưng đến 1975, đa số
hàng lãnh đạo TCG như các giám mục đều chấp nhận ở lạ.
Ai đi, ai ở
Đối với người
dân thành thị hay những công chức từng làm việc cho Pháp thì sự ra
đi của họ là điều không tránh được. Song vô số những người dân quê,
những nông dân thì vì lý do gì cũng ra đi bỏ theo vào Nam? Họ bị
tuyên truyền chăng? Họ sợ cái gì? Họ là đám người cùng khổ, thứ cùng
đinh của xã hội mà tại sao phải sợ? Họ nằm rải rác, vạ vật ở ga Hàng
Cỏ, ở khu Nhà Hát Lớn. Phụ nữ, người già, trẻ con, họ nằm, ngồi chồm
hỗm, nét mặt sợ hãi ngơ ngác. Họ nằm duỗi dài trên các vỉa hè, gối đầu
lên các đồ đạc lỉnh kỉnh, nào nồi niêu, bát đĩa với trăm thứ linh
tinh không đáng giá vài chục bạc. Tình trạng Hà Nội đầy căng thẳng...
kẻ ra đi, người ở lại... Có một bầu không khí kinh hoàng với nhiều
tin đồn. Người từ các vùng quê xa xôi từ Ninh Bình, Phát Diệm, bồng
bế nhau, lỉnh kỉnh đồ đạc, tay xách nách mang hay quảy quang thúng tụ
tập đông đảo ở ga Hàng Cỏ. Có người bàn bạc đi, có người ở lại. Có
gia đình đành chia ra, con cái còn trẻ ra đi vào Nam, còn bố mẹ ở lại
để giữ nhà .Tiếc của mà ở lại.
Cả đời gom góp
có được mấy căn nhà, ai nỡ đành đoạn bỏ đi. Nhưng chẳng bao lâu sau,
những gia đình này sẽ thất vọng, vì nhà của của họ bị tich thu và chỉ
có quyền trú ngụ trong một phòng cho mỗi hộ gia đình.
Cuối cùng chỉ
những người dân quê tưởng rằng cả đời không rời khỏi lũy tre làng
thì lại thảnh thơi nhẹ nhàng ra đi,
Gia đình tôi
theo quân đội nên lúc đầu đóng ở làng Ngọc Hà, gần vườn bách
thảo.Một làng chuyên trồng hoa để phân phối cho Hà nôi..Không biết
Khái Hưng khi viết gánh Hàng hoa, phải chăng ông đã nhắc đển một
thiếu nữ thùy mị, xinh đẹp xưa của làng Ngoc Hà vào trong truyện
chăng ?
Sau khi nghe
ĐBP mất, những trí thức thành thị, công chức, tiểu tư sản cũng nhốn
nháo cả lên. Họ bàn tán, hội họp, kẻ rục rịch bán nhà, kẻ chuẩn bị
vào Nam. Đi hay ở là câu hỏi được đặt ra trong bọn họ.Phần đông họ
tình nguyện rút theo người Pháp. Nhưng trong lúc này thì hãy chờ và
xem theo cái sự khôn ngoan bình thường của những kẻ có chút chữ
nghĩa. .Hà Nội sống trong cơn sốt đi hay ở. Nhiều gia đình có con
cái đi theo bộ đội, nay thật không dễ cho họ để bỏ đi. Họ sống trong
thái độ lo âu, khắc khoải và trông chờ.
Đó cũng là trường
hợp ông Trần Văn Lai, thị trưởng thành phố Hà nội có con trai đi bộ
đội thời kháng chiến. Ông quyết định cửa đóng then gài, không tiếp
ai, khắc khoải chờ tin tức đứa con trai trở về, không biết sống hay
chết.
Có những người
có cơ sở làm ăn như tiệm trồng răng Minh Sinh, bờ Hồ. Xe đòn đám ma
Đức Bảo, hiêu thuốc Cam , Hàng Bạc và nhiều tiểu thương khác đã chọn
ở lại
Có nhiều sứt mẻ
tình ruột thịt giữa cha mẹ con cái, tranh cãi đau lòng. Giữa hai
phía. Giữa kẻ chiến thắng và kẻ chiến bại. Giữa đi và ở. Giữa thị
dân và kẻ "quê mùa" mới tới, giữa cựu công chức thời Pháp thuộc chịu
ở lại và cán bộ ngoài khu trở về.
Và càng đến
cái hẹn cuối cùng theo hiệp định Genève thì bầu không khí hoảng loạn
càng gia tăng.
Ngày 30/6/1954,
Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra Hà nội để xem xét tổng quát kế hoạch rút
quân đội Quốc Gia ra khỏi Bắc Việt, đồng thời giải quyết vấn đề người
di cư.
Nhiều tin đồn tốt
đẹp chung quanh cá nhân ông Diệm, gây thêm tin tưởng cho những người
đi tìm tự do vào miền Nam .
Hìnn ảnh ông Diệm
lúc ấy được coi như bản mệnh tương lai của người di cư miền Bắc
vào miền Nam.
Cũng trong một
buổi họp tại một biệt thự ở đường Hàm Long với bác sĩ Phạm Hữu
Chương cùng với các sinh viên Lương Trọng Cửu, Tôn Thất Cần và Tữ
Uyên, thủ tướng Diệm đã nhờ bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay
DC4 để chở 1200 sinh viên vào Sài gòn vào các ngày 12 và 13/8/
1954 {Tài liêu của bs Từ Uyên }
Bắc Kỳ di cư
1954-1955
Trong số những
người trẻ quyết định tương lai mình ở bên kia vĩ tuyến 17, người ta
thấy những thanh niên, sinh viên như Vũ Khắc Khoan, Trần Thanh Hiệp,
Vương Văn Bắc, Doãn Quốc Sĩ, Mai Thảo, Quách Đàm, Hoàng Cơ Long, Tạ
Tỵ, Lưu Trung Khảo, Lý Quốc Sỉnh, Nguyễn Khắc Ngữ, Lữ Hồ, họa sĩ
Ngym Cao Nguyên, Bùi Đình Nam, Tô Đồng, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng,
Trần Kim Tuyến, Phạm Việt Tuyền, Mặc Đỗ, Hiếu Chân, Như Phọng
Và những người
trẻ hơn, có khi còn ngồi ghế trung học như Đỗ Quý Toàn, Lê Đình Điểu,
Duyên Anh, Nhật Tiến, Vương Đức Lê.. Và hàng vạn thanh niên Nam nữ
khác.
Phía quân đội
có các sĩ quan trẻ cấp úy như Lê Nguyên Khang, Nguyễn Cao Kỳ, Phó Quốc
Trụ, Phạm Văn Phú, Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Bảo Tri, Hoàng Cơ Minh.
Tất cả đều lên
đường.
Và mỗi người
trẻ ấy sau này vào miền Nam mang theo họ một mảnh Hà nội qua hội họa,
thi ca, tiểu thuyết, kiến thức và âm nhạc. Không kể hơn 1000
sinh viên các trường Đại học Y, Nha Dược, khoa học, luât khoa và văn
khoa.
Sài gòn giàu
thêm về tài sản trí tuệ và Hà nội nghèo đi vì thiếu họ.
Từ nay, họ có một
danh xưng mới: Bắc Kỳ di cư 1954. Nhờ có giới trẻ, thanh
niên trí thức Hànội mà cần nói thêm là: Bên cạnh cuốc di cư người,
có môt cuộc di cư chữ nghĩa từ miền Bắc lên tầu há mồm đi vào miền
Nam. Nay thì chẳng còn biết chữ nghĩa di cư ấy, chữ nào còn, chữ
nào mất.
Chợ trời Hà
nội
Thành phố Hà
Nội lúc này tự nhiên có rất nhiều chợ trời bỏ túi mọc ra khắp nơi.
Chỉ cần một cái bàn nhỏ hoặc một chiếc khăn trải xuống đất, thế là
một cửa hàng nhỏ đã chớp nhoáng ra đời. Người bán hàng là những mệnh
phụ phu nhân, vợ các quan chức thầy thợ làm cho Tây, hay các thương
gia. Họ thường ăn mặc sang trọng hơn kẻ đi mua hàng. Người ta bán đủ
thứ: từ những thứ kềnh càng không mang đi được như tủ chè, sập gụ
đến tủ gương, giường lò xo Hồng Kông. Người ta bán đủ thứ và mua đủ
thứ từ đồ dùng đến quần áo, bút máy, đồng hồ, xe đạp.
Người ta bán đổ,
bán tháo để rũ áo ra đi. Tất cả những gì không mang đi được thì buộc
lòng phải bán. Các chợ trời tụ họp đông đảo trên các vỉa hè thành phố,
nhất là vỉa hè đường Quang Trung bây giờ. Những người đã từng phải
chạy theo chính sách tiêu thổ kháng chiến thì họ không lạ gì những
chợ trời như thế mọc lên chung quanh các vùng Phát Diệm, Bùi Chu, Hà
Đông, Chợ Gạo, Cống Thần. Đó là những nơi giáp ranh giữa vùng Tề và
vùng Giải phóng. Những đối với dân Hà Nội hồi cư chính cống thì đây
là chuyện khác thường.
Nó báo hiệu những
thay đổi lớn sắp xảy ra.
Hà Nội ngày
9 tháng 10 năm 1954
Phần người
Pháp, họ đã có chương trình triệt thoái binh lính Pháp ngay từ đầu
tháng 6. Phần quân đội Quốc gia lần lượt được rút khỏi Phát Diệm,
Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình vào đầu tháng bảy, sau đó rút khỏi Nam
Định và Phủ Lý.
Ngày 9 tháng
10, ngày định mệnh cho sự ra đi vĩnh viễn của người Pháp. Đây là
ngày hạn chót của cuộc triệt thoái binh đội Pháp ra khỏi Việt Nam.
Vì thế mà chiều
mồng 8 tháng Mười, một hạ sĩ người Pháp trong bộ binh phục đẹp nhất
từ từ kéo lá cờ Pháp xuống, gấp lại và hôn nó một cách kính cẩn. Cực
kỳ đơn giản, nhưng cũng đầy trang nghiêm. Một điệu nhạc buồn bã được
tấu lên. Sự im lặng trải rộng. Một cơn dông từ đâu đến, gió thổi mạnh.
Gió cộng với mưa tạt ào ào xuống sân đá banh Mangin - một sân vận động
nghèo nàn với đường chạy đua bằng đất nhão nhoẹt, chỉ còn trơ lại
cái cột cờ ở giữa sân. Có tiếng hô vang các khẩu lệnh nhà binh, chừng
ba trăm người lính, súng trên tay làm theo lệnh.
Vẫn bóng tướng
Cogny ở đó, chững chặc, uy nghi. Dù trong thế của người bại trận,
ông vẫn muốn thể hiện phong cách của một tay sĩ quan nhà nghề. Không
ai có thể suy đoán được ông đang nghĩ gì. Có thể ông nhớ lại cái
ngày 25 tháng 4 năm 1954, ông nhận được một Nghị định thông qua Bộ
trưởng Chiến tranh P. De Chevigné với đầy đủ danh sách các đơn vị,
các tiểu đoàn trú đóng ở Điện Biên Phủ được vinh danh [3]. Cái nghị
định đó đến không đúng lúc. Quân đội dưới quyền ông kể như thua trận
rồi.
Những bằng
khen, những huân chương đó làm sao cứu vãn được tình thế. Ông cần
thêm binh lính, cần thêm viện trợ súng ống thì không được.
Nghĩ tới đó,
ông không khỏi ngao ngán.
Vậy mà hôm nay,
ông phải cử hành cái nghi thức cuối cùng của đời binh nghiệp, đại diện
cho hơn 600 ngàn đồng đội của ông, những chiến binh đủ loại: Tây trắng,
Tây Lê Dương, Tây rạch mặt, lính Bảo An Đoàn và toàn thể các binh chủng
khác.{ Vào năm 1889, chỉ có khoảng 500 người Pháp sống ở Hà nội,. Đến
năm 1908, con số lên đến 4000, Họ sống tập trung chung quanh cổ
thành. Người ta nhận thấy một số lính trong binh đoàn số 3, binh
đoàn đã thảm bại trong trận chiến Cao Bằng vào những năm 1950 gồm những
binh sĩ đầy can đảm đã cố thủ cứ điểm có cái tên con gái rất đẹp là
Isabelle đến phút cuối cùng. [4]
Thật ra cuộc
chiến trong bốn năm đầu còn trong vòng tay của người Pháp, khi mà
người Việt Minh chưa được trang bị, chưa có nổi một khẩu súng. Súng
của họ, đạn của họ được cung cấp và nuôi dưỡng từ những cuộc đánh úp,
công đồn. Khi mà đại tướng De Lattre chết vì ung thư vào trung tuần
tháng 2 năm 1952, lúc mà trận chiến Hoà Bình còn đang tiếp diễn, số
phận binh đội Pháp đã hầu như được quyết định rồi. Bảo Đại đã cay đắng
viết: Sau cái chết của Đại tướng De Lattre, tôi có cảm tưởng hòa
bình chỉ là một hy vọng hão huyền [7]. Chính phủ Pháp ở Paris, bộ
tham mưu, tướng lãnh Pháp [8] tiếp tục cuộc phiêu lưu ở Việt Nam mà
thực sự bị động không biết phải tiến lui làm sao.
Chỉ còn một
cách là kéo dài nó, đến đâu hay đến đó, tiến dần đến chỗ thảm bại.
Lời bào chữa
nào cũng vô ích. Đối với người Pháp thì họ phải thừa nhận rằng:
Không có cứ điểm nào có thể cầm cự mãi được mà không bị mất, nếu nó
thiếu sự yểm trợ từ bên ngoài. Về chiến thuật, họ đã tự chọn một cái
lòng chảo để chôn mình vì ở cách xa cơ sở tiếp vận chính là Hà Nội
300 cây số và cách xa phi trường Uông Bí 400 cây số.
Nhưng cái việc
mà Cogny phải làm là đã ký những sự vụ lệnh truyền cho tất cả các
công chức người Việt phải rời bỏ Hà Nội đi vào Nam, mọi phí tổn sẽ
do nước Pháp và đồng minh của họ đài thọ. Hạm đội thứ bảy của Mỹ sẽ
cung cấp máy bay và tàu thủy, thay vì dùng cho nhu cầu chiến tranh,
nay dùng để chuyên chở những người di cư vào miền Nam đúng như tinh
thần của bản tuyên cáo do tổng thống Eisenhower đã tuyên bố ngày 30
tháng 6 năm 1954 qua thông tấn xã AFP: Nếu có hiệp định đình chiến
thì Mỹ có một cuộc di tản để đưa dân miền Bắc vào Nam.
Và điều đó đã xảy
ra rất trật tự sau này. Di cư và di tản khác nhau ở chỗ này.
54-54 khác 75 ở chỗ này.
Bốn giờ sáng
ngày 9 tháng 10 năm 1954 [5], Hà Nội đổi
chủ
Đoàn lính Pháp
trên những xe nhà binh chậm rãi nối đuôi nhau như một đàn rắn khổng
lồ tiến về phía Bắc thành phố, hướng cầu P. Doumer. Kẻ ra, người vào.
Tướng Cogny đứng đằng sau một chiếc xe Jeep bỏ mui giơ tay vẫy chào
đám dân chúng hiếu kỳ bên đường. Ông duyệt một đám quân lính Lê
Dương, ăn mặc chỉnh tề, huy chương, mề đai đeo đầy người. Không ai bảo
đó là một đoàn binh thua trận. Hình như họ muốn dành cho ông một cái
vinh dự chót của người làm tướng. Người ta nói rằng khi đến Hải
Phòng, ông đã thỉnh cầu giám mục Hải Phòng cho kéo chuông nhà thờ
Chính tòa để đón tiếp đoàn quân Pháp trên đường về nước. Chẳng hiểu
ông có đòi hỏi giám mục phải kéo chuông Te Deum (Kinh tạ ơn) hay là
De Profundis (Kinh cầu hồn) hay không?
Nhiều người
Pháp ra đi mà vẫn còn tự hỏi cái bọn nhà quê đang tấp nập trên phố,
túi gạo đeo chéo trên lưng thay cho dây quàng chiến thắng, làm cách
nào mà thắng được họ. Lùi lại tám năm về trước, những người lính Lê
Dương trên chiến xa bốn bánh cao su trấn giữ cửa ra vào sở Hành
chánh, Tài chánh{ Đây vốn là thành Hà nội cũ, nơi trấn đóng của Tổng
đốc Hoàng Diệu bị mất vào tay người Pháp vào năm 1873, sau vài giờ
cố thủ } vào cái đêm 19 tháng 12 năm 1946, bọn họ còn thấy bộ đội Việt
Minh như các chú con nít, vứt lại những khẩu súng gỗ trên con đường
đôi chạy dọc trước sở Hành chính Tài chính. Thật sự họ không tài nào
hiểu được những chú con nít đó nay đang thay thế họ làm chủ Hà Nội.
Một tổ chức phá
hoại nào đó, có hệ thống đã làm hỏng kho dầu của hãng xe buýt, phá hủy
các máy móc và đánh sập chùa Một cột, ngôi chùa đầy giá trị lịch sử
và tôn giáo hàng trăm năm. Theo lời những người di cư, hàng ngàn người
khác thuộc địa phận Bùi Chu và Phát Diệm đang tìm cách chạy trốn, có
khi phải trả 5000 quan Pháp cho một chỗ trên các thứ thuyền hoặc bè.
Nhiều thuyền đã bị lật và đắm luôn trong các cơn bão đang làm dữ mấy
ngày này. [6]
Và hàng trăm
người di cư đã bị chết đuối trong tai nạn đó. Những nhận định ở trên
của tác giả, giáo sư Trần Tam Tỉnh, nguyên giáo sư khảo cổ Đại Học
Laval, Quebec thật có nhiều điều cần được kiểm chứng lại. Hà Nội vào
thời điểm đó làm gì đã có xe buýt để có kho xăng dầu. Những người
nông dân nghèo hèn, bữa no bữa đói ở Bùi Chu, Phát Diệm lấy tiền đâu
ra đóng 5000 quan cho một chỗ đi? Mà tại sao không là tiền Đông
Dương thay vì tiền quan Pháp? Tác giả Thập giá và lưỡi gươm có thể
nào dùng những số liệu và tài liệu hoàn toàn xuyên tạc như thế được
chăng? Cuốn sách của ông sau này đã được rất nhiều người xử dụng như
một thứ bảo chứng nhằm biện minh cho quan điểm của họ mặc dù đó là một
sự thật được ông bịa đặt ra.
Trước khi rút
lui, quân đội viễn chinh Pháp cướp bóc, phá phách nhiều cửa hàng lớn
ở các phố Hàng Ngang, Phố Huế, Hàng Đào, Hàng Khay, Hàng Bài. Các
hàng phở đều đóng cửa thin thít ngay từ chập tối vì sợ hãi. Những
lính Lê Dương, tây đen rạch mặt say rượu la cà trên các con đường
đôi, gần sở Hành chánh, tài chánh mà nay đổi là đường Hoàng Diệu.
Đường Hoàng Diệu hiệu nay là chỗ ở của các quan lớn trong bộ chính
tri.
Những kẻ
chiến thắng vào Hà nội
Có những đoàn
xe nhà binh Pháp nối đuôi nhau ra khỏi thành phố cùng với binh đội
Pháp và dân chúng. Ngược lại, có những binh đội Việt Minh xếp hàng
một đi bộ ngược chiều vào thành phố. Bọn người này không có cái vẻ
gì là người chiến thắng, nhiều người còn tỏ ra rụt rè, ngượng ngập,
vừa đi vừa hát vài câu để lên tinh thần, che lấp cái nhút nhát đó:
Một đoàn
người trai hiên ngang, đeo trên vai nợ máu xương, vui ra đi không
buồn nhớ thương hay Ra đi ra đi bảo tồn sông núi. Ra đi ra đi
thà chết chớ lui.
Hà Nội: một
rừng cờ đỏ
Rừng cờ, rừng
người, một rừng cánh tay giơ lên. Thật khó diễn tả cho hết những gì
người ta nhìn thấy. Trong rừng người tiến vào thành phố, thật khó để
biết ai là sĩ quan chỉ huy.Chẳng ai có thể nhận ra những đồng chí
như Bùi Quang Tạo, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái, Võ Nguyên Giáp,
Lê Liêm. Người ta nhốn nhác tìm bóng dáng ông Giáp hay ông Hồ nhưng
không thấy. Vài ngày sau, qua báo chí, người dân Hà Nội được biết
các ông ấy đã về tới Hà Nội, nhưng ở đâu thì không ai hay.
Hà Nội đã thay
đổi diện mạo. Với rừng cờ đỏ. Ở đâu ra mà sãn vậy?
Đâu đây, người
ta thấy một tấm biểu ngữ lớn với hàng chữ thô kệch văn chương lắm::
Cùng nhau múa hát mấy bài
Khải hoàn ngợi khúc xây đài vinh
quang
Người ta nhận
thức ngay được phải ứng xử thế nào trong hoàn cảnh mới. Có một chút
nhạy bén và sức lan truyền đến lạ lùng trong đám thị dân năm thành
phần được cách mạng công nhận là thợ thuyền, nông dân, binh sĩ, tiểu
tư sản và tiểu tư sản yêu nước. Các cô gái con nhà, yểu điệu thục nữ,
mượt mà, quần lụa trắng, áo dài mà mỗi bước đi cố gắng vắt xéo đôi
chân từ bên này qua bên kia nay áo cánh nâu, quần đen, tay cầm lá cờ
đỏ.
Đôi guốc son thời
con gái nay đổi ra đôi dép cao su, hiệu con hổ mầu trắng. Phải chăng
đó là sự thay đổi tận gốc rễ của người Hà nội?
Các bà mệnh phụ
trước đây cứ một bước lại ngồi xe tay nay lạch bà lạch bạch ráng
theo đoàn người đi tới. Mọi người hình như bằng mọi cách khuôn ép,
tự sắp xếp mình vào năm thành phần trên. Đường phố vốn nhỏ hẹp nay
chật cứng người như nêm cối. Như tự phát, từng đám người như thế lũ
lượt như những đám rước trên đường phố hết đám này đến đám khác.
Trong đám đông ai đó hô Hồ chủ tịch muôn năm!, thế là cả cái cỗ xe
người đồng lượt vung cánh tay hô theo. Họ ùn ùn kéo đến Nhà Hát Lớn,
đi qua rạp chiếu bóng Eden, nhà in Viễn Đông, còn được gọi là nhà in
Ideo, hướng về phía vườn hoa Con Cóc rồi Bắc Bộ phủ. Nổi bật là
những đám thanh thiếu niên, không biết bằng cách nào và từ bao giờ,
ăn mặc như hướng đạo mà mỗi em đều quàng một chiếc khăn quàng đỏ.
Hình như cả
thành phố chỉ có dân chúng chứ chưa có bóng dáng người lãnh đạo.
Vậy mà cái
guồng máy đó chạy đều, nhịp nhàng hăm mươi bốn trên hai mươi bốn.
Thành phố như vô chủ, chỉ có đám đông, chỉ có người gặp người, người
nhìn người, đi ngược, đi xuôi. Gặp nhau có lối chào mới: giơ nắm tay
đồng loạt hô to. Muôn năm, muôn năm!. Chẳng có gì có thể tả hết được
cái ngày như thế, cái khung cảnh như thế, cái vận hành, cái chuyển
đổi, lột xác như thế.
Những đoàn người
cuồn cuộn như dòng nước lớn không dứt, hết đám này đến đám khác cho
mãi đến nửa khuya và bắt đầu lại vào sáng sớm ngày mai. Chính quyền
mới trong một tích tắc đồng hồ đã biến đổi đám người trước đây có
thể là tiểu thương, viên chức của Pháp, nếu không nói là theo Tây,
Việt gian của Tây trở thành một đám quần chúng hăng say mà không mất
một ngày tập huấn.
Tất cả những điều
mô tả và nhận xét trên đây, nó khác xa với những ngày 30-4- 1975.
!975. Không có cánh tay nào dơ lên sau 75..Sài gòn 75, núp mặt
trong nhà , sợ hãi dòm qua khe cửa bộ đội chiến thắng đi vào.Không
có rừng người, không có những tiếng hoan hô. Chỉ có tiếng bánh xe
thiết giáp xiết trên đường phố tiến vào dinh Độc Lập.
Có điều gì
khác biệt giữa thái độ của dân chúng thủ đô Hà nội và dân chúng thủ
đô của VNCH Sàigòn sau ngày 30-4 ?
Thứ nhất ý
nghĩa và mục đích cuộc chiến tranh Việt-Pháp 1954 thì khác với cuộc
chiến 1975.
Thứ hai, đã có
một triệu người rời khỏi miền Bắc di cư vào miền Nam. Những người
còn ở lại ít hay nhiều đã chọn lựa gián tiếp chế độ cộng sản, Trong
khi đó, chỉ có khoảng 100000 người được di tản vội vã trước 30-4. Những
người còn ở lại đều bị kẹt không đi được. Nếu được phép đi thì không
phải 1 triêu người như 1954 và 5 triêu người đến 10 triệu người sẽ sẵn
sàng rời bỏ miền Nam. Và nếu cho phép cả những kẻ chiếng thắng từ miền
Bắc cũng được di tản thì con số sẽ là bao nhiêu ?
Không ai tiên
đoán được.
Cho nên thái độ
thờ ơ, dè dặt đến sợ hãi khi bộ đội cộng sản vào miền Nam là hiểu được.
Hà nội với
những chú bộ đội nhảy son đố mi`
Nay thì nhiều
người mới có dịp được biết những chú bộ đội của những ngày đầu cuộc
chiến 19 tháng 12 năm 1946. Cũng chính những chiến sĩ này, sau này
thành binh đoàn 308, binh đoàn mà mỗi khi lính Pháp nghe thấy đều nể
sợ, đã khai tử binh sĩ Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Họ đi lộn xộn,
không phải một cuộc diễn binh mà một đám rước quanh bờ hồ Hoàn Kiếm.
Dễ cũng đến hai lượt đi quanh hồ hay đi một vòng rồi trở ngược lại.
Mỗi lúc một phấn khích qua những bài hát, tiếng vỗ tay. Từng phút,
đám thị dân Hà Nội lại hòa nhịp vào đám rước đó.
Cũng vỗ tay,
cũng hát to, nhảy múa, có người chơi đàn măng đô lin, có tiếng người
thổi ác mô ni ca.
Tiếng hát kèm
theo điệu nhảy: son mì son là son đố mì ..Người ta nhảy mùa " quê
mùa tự nhiên" như người Hà nội.
Nhưng cái phấn
khích đó đã được ai đó điều động kín đáo, dàn dựng tính toán và điều
khiển nhịp nhàng. Hàng trăm cánh tay, trăm cử chỉ, trăm lời nói nhân
lên thành ngàn những cử chỉ tự động, máy móc, đồng loạt. Hình như
đông như thế, nhưng thu tóm lại vẫn chỉ là một người.
Đó là cái biểu
tượng cao và kỳ lạ, mê hoặc đã lôi cuốn cả thành phố. Đó là sức thôi
miên đã biến cả thành phố tự đồng hóa mình vào chế độ. Hà Nội từ nay
là hình ảnh của chế độ mới. Trong một thoáng giây, quá khứ cả
trăm năm dưới sự đô hộ của người Pháp như những bọt xà bông tan biến
mất.
Nhưng đấy vẫn
chỉ là cái bề ngoài thấy được.Vẫn chưa phải là cái thực lòng của mỗi
người, mỗi gia đình. Những cái không thấy đựợc, không nghe được, phải
chờ bóng đêm về, trong sâu thẳm lòng người mới lộ ra những khắc khoải,
trằn trọc.
Ai có qua câu
mới hay. Thật ra, trong chế độ xã hội cộng sản, ít ai có tin tưởng
vào chế độ ấy. Sau chiến thắng ĐBP, chiến thắng 30/ 4/1975, vậy mà
khi vào đến Sài gòn, Đào Duy Anh thố lộ với Nguyễn Hiến Lê: Ông
ngại rằng, hai ba chục năm nữa, kinh tế vẫn chưa tiến được và xã hội
chủ nghĩa vài trăm năm nữa cũng chưa xây dựng xong, mình sẽ bị
phương Tây bỏ lùi lại sau rất xa, nếu không có sự thay đổi mạnh mẽ{
Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 521}
Tâm trạng đó
cũng là tâm trạng người Hà nội. Ưu tư và lo lắng. Thái độ không
phải là chống đối, mà nhẫn nại Trông chờ { Attentistes}. Thụ động và
bất nhẫn .
Hà nội nay có
thêm cả triệu người mới tới, không nói cùng một thứ ngôn ngữ. Lớp
người
Hà nôi thuộc
thành phần có ăn học, trí thức thành thị không bảo nhau mà cứ thế bỏ
đi.
Đó là những
người Hà nội chính hiệu.{ Hanoiens}, có thứ ngôn ngữ của họ cách
sống, cách ăn mặc của họ.
Từ đó có sự
xung đột giữa kẻ chiến thắng và kẻ thua trận, giữa lớp thị dân và lớp
người ở thôn quê, giữa tầng lớp công chức từng làm việc cho Pháp có
học và chuyên môn so với cán bộ từ bưng biền ra. Người ta kể rằng, lớp
cán bộ về tiếp thu Đài phát thanh Hà nội rụt rè khi bước chân vào
tòa nhà đài phát thanh đồ sộ, máy móc tối tân, bực cầu thang trải thảm
đỏ. Không ai bảo ai, họ đã tự động bỏ đôi dép râu cầm trên tay bước
lên cầu thang.
Thế là nhà quê
lắm.
Dân Hà nội
chính thống nay trở thành thứ thiểu số bên lề, không quyền hành. Thật
vậy, Cho đến năm 2000, 9 người trong ban lãnh đạo Ủy Ban Trung ương
đảng, chỉ có môt người sinh đẻ ở Hà nội. Dân số Hà nội bây giờ đông
gấp đôi dân số Hà Tĩnh, nhưng số dân biểu Hà nội thì chưa bằng nửa
số dân biểu Hà Tĩnh.
Hà nội hoan
hô thế đấy. Nhưng Hà nội vẫn là cái nôi của những chống đối, bất mãn
sau này qua nhóm Nhân Văn giai phẩm và những chống đối bất mãn dài
dài sau này.
Có rất nhiều
mâu thuẫn, dị biệt khá tế nhị như thế mà đôi khi không làm thế nào cởi
gỡ ra được. Nhân đây, xin kể một câu truyện có thật về một thanh
niên Hà nội buôn bán, giầu có, có nhà ở sàigòn. Cậu vào trong Nam,
gặp được một thiếu nữ miền Nam, gốc Bắc, rất xinh đep. Hai người yêu
nhau, tính truyện hôn nhân..Nhưng rủi là cô gái được chị bảo lãnh
sang đoàn tụ với gia đình ở bên Mỹ. Sang Mỹ thiếu nữ được đi học lại
được một năm, cô gái vẫn thương nhớ người tình cũ còn ở lại. Cô được
người yêu mua vé máy bay để về thăm nhà. Một bữa, cùng ngồi ăn nơi
sạp bán hoa quả cô gái thấy cậu thanh niên , người yêu, mặc chiếc quần
đùi, để hở cái thìu biu của cậu ra ngoài. Cô cảm thấy xấu hổ, turn
off.. và chỉ môt tuần sau quyết định quay về Mỹ.
Hóa ra chỉ vì
khác biệt nếp sống, văn hóa. Làm thế nào để người Hà nội mới và
Hanoiens ngôi chung một mâm với nhau được?
Hà nội với
bức màn tre
Khi mà những
người Pháp cuối cùng đã rời Hà nội.Và khi mà thời hạn 100 ngày cuối
cùng dành cho Hải phòng cũng đã hết hạn.
Tại miền Bắc,
chính quyền CS dựng nên một bức tường tre bao phủ chẳng những Hà nội
mà toàn thể miền Bắc Việt Nam.
*****
Chú thích
[3] Trích lại trong annexe 1, J.O
ngày 25 tháng 4 năm 1954, trong Les 170 jours de Diên Biên Phu,
Erwan Bergot, Presse de la Cité, 1979.
Nghị định 18
Theo đề nghị của Thứ trưởng Bộ Chiến
tranh. Bộ trưởng Bộ quốc phòng và quân lực.
Được tuyên dương của quân đội Đông
Dương. Để chấp hành.
Đội quân đồn trú tại Điện Biên Phủ. Từ
nhiều tuần nay, dưới quyền chỉ huy của đại tá De Castrie, quân đội
Liên Hiệp Pháp đẩy lùi được nhiều cuộc tấn công mãnh liệt ngày và
đêm của một quân địch đông đảo hơn về số lượng người.
Sự hi sinh dũng cảm của những người
đã nằm xuống cùng với sự chiến đấu kiên cường của những chiến sĩ đã
đem lại vinh quang cho danh dự quân đội chúng ta.
Hợp nhất trong tình chiến thắng, sĩ
quan, hạ sĩ quan và binh sĩ đã được sự ngưỡng mộ của thế giới tự do,
sự tự hào lòng biết ơn của nước Pháp. Lòng can đảm của họ mãi mãi
vẫn là những tấm gương mẫu mực.
Sự tuyên dương này gồm có huân chương
chiến tranh về các cuộc hành quân hải ngoại với nhành dương liễu.
Paris ngày 7 tháng 4
năm 1954.
Ký tên: R. Pleven
Trưởng Bộ Chiến tranh: Ký tên: P. de
Chevigne
[4] Chiến dịch Castor thực sự mở màn
bằng cuộc không vận lớn nhất trong cuộc chiến tranh này vào ngày
20-11-1953 với khoảng 1500 lính dù được đổ xuống trong vòng chảo Điện
Biên Phủ. Tướng De Castries đến Điện Biên Phủ vào ngày 07-12-1953.
Vào khoảng từ tháng 01 đến tháng 02, khi các cứ điểm đã được thiết lập,
ông đã đặt một số tên cho 49 cứ điểm bắt đầu bằng những tên con gái
như Anne-Marie, Béatrice, Claudine, Dominique, Eliane, Françoise,
Huguette, Isabelle. Béatrice là cứ điểm nằm ở phía Bắc, cứ điểm đầu
tiên lãnh trận mưa pháo với khoảng 5000 trái rớt xuống từ 5 giờ 15
phút chiều ngày 13 tháng 3. Hai giờ sáng ngày 14 tháng 03, cứ điểm
Béatrice bị xoá tên. Có một số người viết dùng những tên cứ điểm con
gái này để ám chỉ De Castries là loại ham mê cờ bạc và trai gái. Thật
ra việc thất trận đủ là một tủi nhục rồi, chả cần thêm những chuyện
bôi nhọ đó.
[5] Một số nội dung này phỏng theo cuốn
La guerre, L'enlissement, L'humiliation, L'aventure của Lucien
Bodard, Bernard Grasset, Paris 1997.
[6] Thập giá và lưỡi gươm Trần Tam Tỉnh,
NXB Trẻ, T.P Hồ Chí Minh, 1988, trang 108-109.
[7] Le Dragon d'Annam, NXB Plon,
1979, trang 293.
[8] Đặc biệt tướng Giáp, kẻ thắng trận,
vị tướng duy nhất trong bộ đội Việt Minh có những đánh giá khá cao với
tư cách của một kẻ làm tướng đối với kẻ thù của mình. Ông viết: Trước
đây, ta thường hiểu sức mạnh của địch là ở vũ khí, trang bị hiện đại,
chỗ yếu của địch là tinh thần, một công cụ xâm lược, một đội quân
đánh thuê. Nay ta đã thấy rõ thêm cái mạnh của một quân đội nhà nghề.
Chỉ huy Pháp đều được đào tạo chính quy theo chuyên ngành từ những
trường quân sự có kinh nghiệm lâu đời. Quân đội Pháp có một đội ngũ
chuyên môn về binh khí kỹ thuật. Binh sĩ đều được huấn luyện kỹ trước
khi tung ra chiến trường. Cách đào tạo này kết hợp với những vũ khí
hiện đại phát huy cao độ sức mạnh trong những trận đánh lớn. (Trích
trong Đường tới Điện Biên Phủ, đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hữu Mai thể
hiện, NXB Quân đội nhân dân, Hanoi, 2001, trang 298).
[9] Dẫn theo Erwan Bergot, Les 170
jours de Diên Biên Phu, NXB Presse de la Cité, 1979, trang 7).