EMMANUEL
ĐTC Phanxicô - Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình
1-1-2015
Một số căn nguyên sâu xa của vấn đề nô lệ
4- Ngày
nay, cũng như trong quá khứ, vấn đề nô lệ đều được bắt nguồn từ
một ý nệm
về con người là thành phần có thể được đối xử như là một
thứ đồ vật. Bất cứ ở đâu tội lỗi làm băng hoại lòng
người và tách chúng ta khỏi Đấng Hóa Công cũng như khỏi tha nhân của chúng
ta, thì tha nhân không còn được coi là những hữu thể có phẩm giá
bình đẳng, như là những người anh chị em có cùng một nhân tính mà là như
các đồ vật. Dù là bị áp bức hay lừa đảo, hay bị cưỡng ép về
thể lý hoặc tâm lý, con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên
Chúa và tương tự như Thiên Chúa bị cướp mất quyền tự do của họ, bị bán đi
và biến thành một sản vật của người khác. Họ bị đối xử như là một
thứ phương tiện để đạt mục đích.
Cùng với
căn nguyên sâu xa này - nguyên nhân chối bỏ nhân tính của người khác
- còn có các căn nguyên khác có thể cho thấy những hình thức hiện đại của
vấn đề nô lệ. Trong số những căn nguyên này, trước hết tôi nghĩ đến tình trạng nghèo
khổ, chậm phát triển và loại trừ, nhất là khi các hình thức ấy
còn được kèm theo cả sự thiếu thốn
về phương tiện giáo dục hay khan hiếm thậm chí chẳng có những
cơ hội được công ăn việc làm. Không phải là không thường
xẩy ra là các nạn nhân của việc buôn người và nô lệ con người là thành
phần đang tìm cách thoát khỏi tình trạng bần cùng; bị lừa đảo bởi những
lời hứa hẹn gả tạo về công ăn việc làm họ thường rơi vào tay của các tổ
chức tội ác chủ trương buôn người. Những tổ chức này khéo léo sử dụng
phương tiện truyền thông tân tiến như cách thức dụ dỗ thành phần nam nữ
trẻ trung ở các phần đất khác nhau trên thế giới.
Các căn nguyên khác nữa của vấn đề nô lệ bao gồm cả những
xung đột võ trang, bạo động, hoạt động tội ác và khủng bố. Nhiều người bị bắt cóc để được đem bán đi, để tòng quân tham chiến hay bị
khai thác tình dục, trong
khi những người khác buộc phải di tản, bỏ lại tất cả mọi sự: xứ sở của mình,
nhà cửa, tài sản, thậm chí các phần tử trong gia đình. Họ
bị đẩy đi tìm kiếm một phương cách khác thay cho những điều
kiện kinh khiếp ấy, thậm chí nguy hại đến phẩm giá con người của họ
và ngay cả đến mạng sống của họ; họ liều mình lao đầu vào
cái vòng xoáy đồi bại là những gì biến họ thành mồi
ngon cho khốn khổ, băng hoại và các hậu quả độc hại của họ.
Một cuộc dấn thân chung để chấm dứt vấn đề nô lệ
5- Thường khi cứu xét đến thực tại của việc buôn người, của
việc buôn trái phép thành phần di dân và các hình thức nô lệ được
công nhận hay không được công nhận, người ta có cảm tưởng rằng
chúng đang xẩy ra trong một bối cảnh của tâm trạng dửng dưng
chung chung.
Buồn thay, điều này đúng một phần lớn. Tuy nhiên, tôi
muốn đề cập tới các nỗ lực lớn lao và thường âm
thầm đã được thực hiện qua nhiều năm bởi các hội dòng, nhất là các hội dòng nữ giới, trong việc
nâng đỡ thành phần nạn nhân. Những hội dòng này phục vụ ở trong các trường
hợp rất khó khăn, có những lúc bị áp đảo bởi bạo động, khi họ
hoạt động để cắt đứt những sợi giây xích vô hình cầm buộc thành phần nạn nhân với những
kẻ buôn người và khai thác. Những sợi giây xích này được làm nên bởi
một chuỗi những móc nối, mỗi móc nối lại được cấu tạo bởi những các mưu
mẹo tinh xảo về tâm lý khiến cho các nạn nhân lệ thuộc vào những kẻ
khai thác. Điều này được thực hiện bằng việc hăm
dọa tống tiền tấn công họ
và các người thân yêu của họ, mà còn bằng những hành động cụ thể như tịch
thu các thứ giấy tờ về
thân thế và bạo lực thể lý. Hoạt động của các hội dòng được
thực hiện nơi ba lãnh vực, đó là ra tay trợ giúp thành phần nạn nhân, giúp
họ phục hồi tâm lý và giáo dục, và làm sao để tái hội nhập họ vào xã hội nơi họ đang sống hay nơi
họ đến sống.
Công việc rộng lớn này cần phải can đảm, nhẫn nại và
kiên trì, nên đáng được toàn thể Giáo Hội và xã hội biết ơn. Tuy
nhiên, tự mình, nó không đủ để chấm dứt nạn khai thác con người. Cũng
cần phải thực hiện một cuộc dấn thân tòan diện về lãnh vực cơ cấu: cho việc ngăn ngừa, cho
việc bảo vệ nạn nhân và cho việc truy tố những kẻ thủ phạm ra trước pháp
luật. Ngoài ra, vì các tổ chức tội ác sử dụng các mạng lưới quốc
tế để đạt được các mục đích của mình mà các nỗ lực cần có để
loại trừ hiện tượng này cũng cần phải trở thành một nỗ lực chung, và thực sự
là một nỗ lực toàn cầu về phía các tổ chức khác nhau trong xã
hội.
Các quốc gia
cần phải bảo đảm rằng ngành lập pháp của họ thực sự là tôn trọng con người ở các lãnh vực về di dân,
về việc làm, về vấn đề thừa nhận, về việc di chuyển các
ngành thương mại ra ngoài nước và việc bán các sản phẩm được làm
bởi lao động nô lệ.
Cần phải có những luật lệ chân chính chú trọng đến con người,
chấp nhận các thứ quyền lợi căn bản và phục hồi các quyền lợi bị vi phạm.
Những điều luật như vậy còn cần phải giúp cho nạn nhân được phục hồi,
bảo đảm tình trạng an toàn của cá nhân họ, và bao gồm những phương
tiện ràng buộc hiệu lực cho khỏi những gì là băng hoại hay không bị
trừng phạt. Cần phải công nhận vai trò của nữ giới trong xã hội, ít
là bằng các khởi động ở những lãnh vực về văn hóa và truyền thông xã
hội.
Các tổ chức liên chính phủ, trong vấn để tuân thủ nguyên tắc phụ trợ, được
kêu gọi điều hợp các khởi động để chiến đấu với những
tổ chức xuyên quốc gia của hệ thống tội ác nhắm tới việc buôn người
và buôn người di dân bất hợp pháp. Thật sự là cần đến việc hợp tác ở
một số lãnh vực, liên quan tới các tổ chức quốc gia và quốc tế, các cơ quan xã
hội dân sự và thế giới về tài chính.
Các ngành thương mại (6) có nhiệm vụ bảo đảm những điều kiện xứng đáng
và những lương bổng thích đáng cho nhân viên của mình, nhưng họ cũng cần
phải tỉnh táo để các hình thức nô lệ hóa con người hay buôn người không
còn cách nào cho đường giây phân phối. Cùng với trách nhiệm về xã hội
của các ngành thươg mại, cũng có cả trách nhiệm về xã hội của thành phần tiêu thụ nữa. Hết mọi người cần phải ý thức
rằng "vấn đề thu mua bao giờ cũng là một hành động về luân
lý - chứ không phải chỉ là một hành động về kinh tế" (7).
Các tổ chức trong xã hội dân sự, về phần mình, có trách nhiệm làm thức
tỉnh lương tâm và phát động bất cứ những gì cần thiết cho việc
chiến đấu và làm bật gốc thứ văn hóa nô lệ hóa.
Trong những năm gần đây, Tòa Thánh, chú ý tới
nỗi đớn đau của thành phần nạn nhân buôn người và tiếng nói của các
hội dòng trợ giúp họ trên con đường dẫn đến tự do, đã gia tăng
những lời kêu gọi của mình với cộng đồng quốc tế về vấn đề cộng tác
và hợp tác giữa các cơ quan khác nhau trong việc chấm dứt cái tai họa này (8).
Giáo Hội cũng tổ chức các cuộc hội họp để gây chú ý tới hiện tượng
buôn người và giúp dễ dàng hóa việc hợp tác giữa các cơ quan khác
nhau, bao gồm cả những chuyên viên từ các đại học đường và các
tổ chức quốc tế, các lực lượng cảnh sát ở các xứ sở của người di dân, xứ
sở nguyên quán, xứ sở chuyển tiếp, hay xứ sở họ đến, và các đại diện
thuôc những nhóm thuộc giáo hội phục vụ nạn nhân. Tôi hy vọng rằng những
nỗ lực này sẽ tiếp tục phát triển trong những năm tới đây.
Toàn cầu hóa tình huynh đệ chứ không phải toàn cầu
hóa vấn đề nô lệ hay tâm trạng dửng dưng
6- Trong việc "loan báo sự thật về tình yêu của Chúa Kitô
trong xã hội" của mình (9), Giáo Hội liên lỉ dấn thân thực hiện các
hoạt động bác ái được tác động bởi chân lý về con người.
Giáo Hội có trách nhiệm phải tỏ ra cho tất cả mọi người con đường hoán
cải, một con đường giúp chúng ta có thể thay đổi cách chúng ta nhìn
tha nhân của chúng ta, nhìn nhận nơi hết mọi người khác là anh chị em trong
gia đình nhân loại của chúng ta, và công nhận phẩm giá bẩm sinh của họ
trong sự thật và tự do. Điều này có thể rõ ràng được thấy
nơi chuyện của Josephine Bakhita, vị thánh gốc gác ở miền Darfur xứ Sudan,
bị thành phần buôn người bắt cóc và bán cho các tay chủ tể tàn bạo khi
ngài mới được 9 tuổi. Sau đó - bằng những cảm nghiệm đau
thương - ngài đã trở thành "một nữ tử tự do của Thiên Chúa"
nhờ đức tin của ngài, đã sống đời thánh hiến tu trì và phục vụ
người khác, nhất là những ai thấp hèn nhất và bất lực nhất. Vị thánh này,
vị đã sống ở vào khúc quanh của thế kỷ 20, là một chứng nhân
rạng ngời của niềm hy vọng thậm chí cho đến ngày nay (10) cho
rất nhiều nạn nhân bị làm nô lệ; ngài có thể hỗ trợ các nỗ lực của tất cả những
ai dấn thân chiến đấu chống lại "vết thương nứt nẻ trên thân mình của
xã hội hiện đại, một tai họa ở trên thân mình của Chúa Kitô"
(11).
Căn cứ vào tất cả những điều ấy, tôi xin mời gọi hết mọi
người, tùy theo vai trò và trách nhiệm xứng hợp của mình, hãy thực hiện các
hành động của tình huynh đệ đối với những ai đang bị
giam giữ trong tình trạng làm nô lệ. Chúng ta hãy tự vấn, với tư cách cá nhân
và cộng đồng, chúng ta có cảm thấy áy náy trong ngày sống của mình
khi chúng ta gặp gỡ hay giao tiếp với những người có thể là nạn nhân của nạn
buôn người chăng, hay chúng ta có khuynh hướng lựa chọn các vật rất có thể được
sản xuất bởi việc khai thác kẻ khác chăng. Có một số người trong chúng ta, vì
tâm trạng dửng dưng lạnh lùng, hay vì lý do tiền bạc, hoặc vì chúng ta bận
bịu với các thứ quan tâm hằng ngày của chúng ta, đã nhắm mắt lại trước
những gì như thế. Tuy nhiên, những người khác lại quyết định làm
một điều gì đó về nó, tham gia vào các hiệp hội dân sự hay thực hành
những cử chỉ nhỏ nhoi hằng ngày - hết sức đáng khen! - như nói năng
từ tốn, chào hỏi hay tươi cười. Những cử chỉ này chẳng đáng là bao nhưng
chúng có thể mang lại niềm hy vọng, có thể mở ra các cánh cửa và có thể
thay đổi đời sống của người khác đang sống một cách kín mật;
chúng cũng có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta liên quan đến thực
tại này.
Chúng ta
cần phải nhìn nhận rằng chúng ta đang đối diện với một hiện tượng
toàn cầu vượt quá khả năng của bất cứ một cộng đồng nào hay một xứ
sở nào. Để loại trừ nó, chúng ta cần một thứ vận động về
kích cỡ có thể sánh với kích cỡ của chính hiện tượng này. Đó là lý do tôi
thiết tha kêu gọi tất cả mọi người nam nữ thiện chí, và tất cả những ai
gần xa, bao gồm cả các cấp bậc cao nhất nơi những tổ chức dân sự, thành
phần chứng kiến thấy cái tai họa của vấn đề nô lệ hiện đại, đừng
trở thành kẻ tòng phạm với sự dữ ấy, đừng ngoảnh mặt
quay đi trước những khổ đau của anh chị em chúng ta, những con
người đồng loại của chúng ta, những người bị tước mất quyền tự do và phẩm
giá của mình. Trái lại, chớ gì chúng ta can đảm chạm tới xác thịt đau
thương của Chúa Kitô (12), được tỏ ra trên các khuôn mặt của vô vàn là
những con người được Người gọi là "thành phần hèn mọn nhất trong anh
em của Ta" (Mathêu 25:40,45).
Chúng ta
biết rằng Thiên Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta rằng: ngươi đã làm gì cho
anh em của ngươi? (xem Khởi Nguyên 4:9-10). Tình trạng toàn cầu hóa tâm trạng
dửng dưng lạnh lùng, những gì ngày nay đang đè nén đời sống của
rất nhiều anh chị em của chúng ta, cần tất cả chúng ta hình thành một tình liên
kết và huynh đệ mới toàn cầu có khả năng cống hiến cho họ niềm hy
vọng mới và giúp họ can đảm tiến bước giữa các vấn đề của
thời đại chúng ta với các chân trời mới mở ra và được Thiên Chúa
trao cho chúng ta.
Tại Vatican ngày 8/12/2014
Phanxicô
[1] No. 1.
[3] Cf. Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium, 11.
[4] Cf. Address to Delegates of the International Association of
Penal Law, 23 October 2014: L’Osservatore Romano, 24
October 2014, p. 4.
[5] Address to Participants in the World Meeting of Popular Movements,
28 October 2014: L’Osservatore Romano, 29 October 2014, p. 7.
[6] Cf. PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND
PEACE, Vocation of the Business Leader: A Reflection, 2013.
[7] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate, 66.
[8] Cf. Message to Mr Guy
Ryder, Director General of the International Labour Organization, on the
occasion of the 103rd Session of the ILO, 22 May 2014: L’Osservatore
Romano, 29 May 2014, p. 7.
[9] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate, 5.
[10] “Through the knowledge of this hope
she was ‘redeemed’, no longer a slave, but a free child of God. She understood
what Paul meant when he reminded the Ephesians that previously they were
without hope and without God in the world – without hope because without God”
(BENEDICT XVI, Encyclical Letter Spe Salvi, 3).
[11] Address to Participants in the Second International
Conference on Combating Human Trafficking: Church and Law Enforcement in
Partnership, 10 April 2014: L’Osservatore Romano, 11
April 2014, p. 7; cf. Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium, 270.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo những chỗ
mầu nhấn mạnh tự ý, còn những chỗ in nghiêng vẫn theo nguyên bản
chính)