Thế Giới và Cách Mạng
Tháng Tám tại Trung Quốc
Nguyễn Xuân Nghĩa
Ngày xưa, Napoléon của Pháp nói rằng
Trung Quốc là một gã khổng lồ đang ngủ, khi thức dậy thì sẽ quậy thế giới. Giấc
ngủ kéo dài trăm năm, hãy rộng lượng mà tính là từ 1850 đến 1949, cho dễ nhớ!
Khi thức giấc vào năm 1949 với tên mới là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tên
khổng lồ mất ba chục năm vật vã tự cào xé rồi mới đứng dậy. Được ba chục năm,
từ 1980 đến 2010.Ngày nay, tên khổng lồ đang nằm xuống, mà thế giới cũng không
yên được.
Lịch sử có thể ghi rằng tuần này, hay
Tháng Tám là mốc thời gian đánh dấu hiện tượng Trung Quốc nằm xuống. Hãy gọi đó
là “Cách mạng Tháng Tám”, với màu sắc Trung Hoa!
Chúng ta nên đếm lịch như vậy vì nhìn
vào lãnh vực kinh tế: năm 2008 là khi Hoa Kỳ lâm nạn tài chánh, hết mở hầu bao
tiêu xài rộng rãi làm tên khổng lồ bên kia biển Thái Bình bắt đầu khó thở. Bảy
năm sau nó mới xoay trở làm thế giới rúng động, thị trường cổ phiếu của các
nước lên xuống như cái yo yo.
Nhìn ra khỏi khung cảnh hạn hẹp của vụ
sụt giá cổ phiếu vào ba tuần, từ giữa Tháng Sáu đến đầu Tháng Bảy, hay vụ “phá
giá” mà chẳng là phá giá vào Tháng Tám, thì ta sẽ thấy những chuyển động manh
nha từ trước. Nhưng tuần này đáng nhớ hơn cả vì tên khổng lồ khởi sự xả vốn:
bán ra
Công khố phiếu Mỹ được cất giữ trong
kho dự trữ ngoại tệ, để cứu nguy kinh tế.
Bài này sẽ bắt đầu từ chuyện nhỏ, của
thời sự kinh tế trước mắt, những bài về sau mới đi tới chuyện xa hơn, của
trường kỳ, khi tên khổng lồ nằm xuống….
Đầu tiên, vụ sụt giá cổ phiếu của Trung
Quốc vào tám tuần trước không thể là điều ngạc nhiên.
Cổ phiếu tăng vọt từ năm 2014 mà thiếu
cơ sở thực tế: kinh tế sa sút, sản lượng suy trầm mà giá cổ phiếu lại tăng đến
150% trong có 12 tháng thì đấy là triệu bất tường. Cái điềm suy sụp của sự xoay
trở có thể được thấy không phải trong sách bói toán hoặc sấm ký của nền văn hóa
thần bí Trung Hoa. Đó là thực tế của kinh doanh chứng khoán trên toàn cầu, xuất
hiện từ khi tên khổng lồ còn ngủ, từ giữa thế kỷ 19.
Vụ thứ hai là cách định giá đồng Nguyên
căn cứ trên Mỹ kim. Hơi rắc rối vì lãnh đạo Bắc Kinh có hai mục tiêu trái
ngược.
Một là muốn đồng bạc được Quỹ Tiền tệ
Quốc tế IMF nhận vào rổ ngoại tệ gồm nhiều đồng bạc mạnh, có khả năng giao hoán
tự do để sẽ thành ngoại tệ dự trữ trong hệ thống “Đặc Trích” (Quyền Trích Xuất
Đặc Biệt, Special Drawing Right). IMF quy định việc này cho từng hạn kỳ năm
năm. Mục tiêu thứ hai là Bắc Kinh cũng muốn can thiệp vào thị trường hối đoái
để giảm giá đồng Nguyên và nâng mức xuất cảng.
Thế rồi, khi IMF cho biết Bắc Kinh phải
tự do hóa chế độ hối đoái thì mới “trúng tuyển” SDR và dời ngày quyết định từ
Tháng 11 năm nay qua Tháng 10 năm tới thì lãnh đạo Trung Quốc biết là đồng
Nguyên bị lọt sổ, ít ra đến sang năm. Thua me ta gỡ bài cào, chi bằng trong
khoảng thời gian chờ đợi ấy mà giải quyết mục tiêu kia: ngày 11 Tháng Tám, Bắc
Kinh đưa ra lối tính hối suất khác, với hậu quả thực tế là làm hạ giá đồng
Nguyên. Cũng là một cách xoay trở để tìm nguồn sống trong hầu bao người khác,
qua ngả xuất cảng.
Nhưng e chừng vẫn khó nên mới xả bớt
tiền đầu tư vào Công khố phiếu Hoa Kỳ để có thanh khoản cấp cứu kinh tế.
Thế giới giật mình vì hai biến cố dồn
dập trên trị trường chứng khoán rồi thị trường hối đoái nên bắt đầu nhìn vào
nguyên nhân sâu xa hơn: Trung Quốc hết đà tăng trưởng ngoạn mục của ba chục năm
qua – từ 1980 đến 2010 cho dễ nhớ. Nền kinh tế này có đặc tính của người ngồi
xe đạp, đi chậm là đổ. Khi nó lụp chụp về cổ phiếu rồi lắc lư về ngoại tệ thì
người ta hiểu rằng cỗ xe đang chập choạng….
Là một tên khổng lồ to xác, Trung Quốc
phải mất nhiều năm mới nằm thẳng cẳng, sau đó co giật thế nào là chuyện về sau.
Trước mắt thì thế giới cứ bị chấn động đã.
Thời sự hàng ngày đều nhắc rằng Trung
Quốc có sức nặng kinh tế đứng hạng thứ nhì thế giới, sau Hoa Kỳ và trước Nhật
Bản. Nhìn cách khác, xứ này có dân số bằng 20% dân số toàn cầu (tính nhẩm cho
dễ nhớ là một tỷ tư trên bảy tỷ ba), mà chỉ có sản lượng bằng 15% sản lượng
toàn cầu. Qua hai con số 20% và 15%, ta nên thấy rằng sức sản xuất trung bình của
người dân Trung Quốc thật ra còn thấp.
Nhưng dù sao, khi một quốc gia có sản
lượng bằng 15% của thế giới mà tăng trưởng chậm hơn, thì thế giới bị ảnh hưởng.
Sau đó, tên khổng lồ mà hạ cánh nhẹ nhàng hay hạ cánh tan tành lại là chuyện
khác, của vài năm tới.
Thuần về lý luận thì Trung Quốc phải
thay đổi từ lượng qua phẩm, phải chấp nhận một mức tăng trưởng thấp hơn, với
lực đẩy sẽ là tiêu thụ thay cho đầu tư và xuất cảng. Chưa biết rằng lãnh đạo và
thị trường xứ này có khả năng chuyển hướng như vậy không thì thế giới vẫn bị
hiệu ứng đã.
Hiệu ứng thế nào?
Là quốc gia ngốn thương phẩm (nguyên
nhiên vật liệu) của thiên hạ trong nhiều năm đạp xe thục mạng, Trung Quốc bỗng
tiêu thụ ít dần và với đà tăng trưởng giảm sút thì còn tiêu thụ ít hơn nữa.
Hậu quả đầu tiên là các nước sản xuất
nguyên nhiên vật liệu, kim loại và nông sản cho xứ này đều bị ảnh hưởng. Trong
các quốc gia cung cấp thương phẩm, Úc và Canada thuộc vào loại “công nghiệp
hóa” giàu có. Còn lại là các nước “đang phát triển”, từ Á Châu qua Phi Châu và
Nam Mỹ. Các nước này đã bị điêu đứng từ lâu khi thương phẩm sụt giá những sẽ
còn bị thiệt hại hơn nữa.
Hiệu ứng Trung Quốc sẽ là nạn suy trầm
kinh tế trong khối “đang lên” vào năm 2016. Từ mươi năm nay, người ta cứ nói
đến sự xuất hiện của năm đại gia là nhóm BRICS trong khối “đang lên” ấy, là
Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi. Bây giờ, cả năm đại gia đều bị đại
họa. Cổ phiếu mất, chính phủ đổ hay động loạn bùng nổ là những điều sẽ thấy.
Trong khối công nghiệp hóa Âu-Mỹ-Nhật,
Hoa Kỳ có nền kinh tế tạm phục hồi và đồng Kỹ kim lên giá mạnh từ năm ngoái.
Sau khi tăng chi mà bất thành, rồi hạ lãi suất tới sàn và bơm tiền kích thích
kinh tế qua ba đợt QE, Hoa Kỳ có thể sẽ nâng lãi suất vào cuối năm nay (thay vì
vào Tháng Chín như Ngân hàng Trung ương Mỹ dự tính) khiến đồng Mỹ kim càng lên
giá. Trung Quốc càng khốn đốn hơn nữa nên phải nới dây neo đang giàng đồng
Nguyên vào tiền Mỹ, là sẽ phá giá nữa.
Hiệu ứng Trung Quốc cho Hoa Kỳ là tiền
Mỹ càng lên giá thì kinh tế càng khó xuất cảng. Nhưng vì xuất cảng chiếm chưa
tới 10% của Tổng sản lượng Hoa Kỳ, nước Mỹ không bị ảnh hưởng nặng bằng Nhật
Bản hay nước Đức trong khối Âu Châu. Kinh tế của hai khối Âu Nhật đều đang suy
trầm nên bị hiệu ứng nặng hơn, nhất là Nhật Bản vì buôn bán quá nhiều với Trung
Quốc.
Sau cùng, ta vẫn phải trở về với anh
khổng lồ đang quỵ.
Người ta lầm tưởng rằng Trung Quốc là
công xưởng của thế giới và gã khồng lồ này là thần Atlas nâng cả vũ trụ trên
lưng. Giới lãnh đạo Bắc Kinh cũng muốn thế giới nghĩ như vậy.
Nhưng sự thật là gã khổng lồ cần thế
giới nuôi ăn qua nhập cảng hàng hóa của Trung Quốc. Chuyện ấy hết thời dứt từ
năm 2008 nên lãnh đạo Bắc Kinh mới bốc thuốc sâm nhung để đạp xe cho mạnh. Kẻ
uống sâm, được bơm tín dụng, là hệ thống doanh nghiệp nhà nước và chung quanh
là các đại gia có quan hệ tốt với tay chân của chế độ. Nay họ ộc cả sâm nhung,
là tẩu tán tài sản ra ngoài. Còn bá tánh đạp xe là “quần chúng nhân dân lao
động” thì đã thấm mệt lại bị rách túi vì các thị trường đều bể. Họ mới là mối
nguy cho chế độ, với một viễn ảnh “cách mạng khác”.
Chúng ta có nhiều năm theo dõi chuyện
anh khổng lồ nằm xuống. Và chờ xem những ai sẽ chồm dậy quậy phá.
Nguyễn Xuân Nghĩa
Nguồn: Khi Gã Khổng Lồ Nằm Xuống