Thuỷ triều và con người


 Thuỷ triều và con người


Tại miền châu thổ Cửu Long, mùa cạn hay mùa lũ, mực nước các sông hằng ngày đều có dao động theo sự chi phối của thủy triều. Sở dĩ có thuỷ triều là do lực hấp dẫn của Mặt Trăng trên đại Dương. Do đó, trước hết, ta hãy tìm hiểu vài ý niệm về mặt trăng và tác động của Mặt Trăng trên nước đại dương.
1.Tổng quan
Mặt Trăng nằm giữa Trái Đất và Mặt Trời. Nếu Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời hoàn tất chu kỳ trong 365 ngày thì Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất  hoàn tất một vòng trong 30 ngày .  
Mặt Trăng tự nó không có ánh sáng  vì trăng chỉ phản chiếu lại ánh sáng của Mặt Trời. 
Khi Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, ta chỉ thấy một phần của Mặt Trăng được chiếu sáng.
Khi ta có thể thấy được 100% của phần chiếu sáng,nghĩa là  khi Mặt Trăng không bị Trái Đất che lấp khỏi ánh sáng Mặt Trời thì ban đêm trời sáng tỏ: đó là Trăng Rằm, với trăng tròn.Lúc đó, Mặt Trời và Mặt Trăng ở hai phía đối diện của Trái Đất  (xem hình 1). 
Đã có phi hành gia đặt chân lên Mặt Trăng thì thấy toàn những ngọn núi đá nhưng nhìn từ Trái Đất lên, nhiều chỗ giống cây đa to nên có bài hát:
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mơ

Dân ca Việt ngợi  ca tình yêu  trong đêm trăng rằm:


Trèo lên quan dốc ngồi gốc ối a cây đa 
Rằng tôi lý ối a cây đa 
Ải a, ôi à tính tang tình rằng 
Cho đôi mình gặp 
Xem hội cái đêm trăng rằm 
Rằng tôi lý ối a tháng giêng 

Còn khi ta không thấy được chút nào phần sáng vì  Mặt Trăng bị Trái Đất hoàn toàn che lấp khỏi ánh sáng Mặt Trời thì ban đêm trời tối om  như đêm ba mươi âm lịch; lúc đó, Mặt Trăng nằm chính giữa Mặt Trời và Trái Đất (xem hình 1).Đêm ba mươi cũng đã gợi cho nhà thơ Nguyễn Đình Toàn viết bài thơ được phổ nhạc:

Em đến thăm anh đêm ba mươi

Còn đêm nào vui bằng đêm ba mươi
Anh nói với người phu quét đường
Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em

Khi Mặt Trăng chỉ bị Trái Đất che lấp phần nào khỏi ánh sáng Mặt Trời, ta thấy trăng hình bán nguyệt: đó là trăng thượng tuần hoặc trăng hạ tuần

Nhờ có lực hấp dẫn từ Mặt Trăng  trên Trái Đất nên nước bao quanh Trái Đất cũng bị  Mặt Trăng hút và do đó ta có thuỷ triều . 
Thuỷ triều đã tạo nên hiện tượng nước lên  và nước xuống, có chỗ thì một lần triều lên, một lần triều xuống trong ngày, nhưng cũng có chỗ triều lên và triều xuống 2 lần trong ngày
 

Hình 1. Vị trí của Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng ở các mùa trăng khác nhau

Những biến đổi thủy triều trải qua các giai đoạn sau:
Mỗi tháng hai lần, vào ngày trăng non (đầu tháng âm lịch)  và ngày trăng tròn ( trăng rằm), ta có triều cường (Spring tide) vì lúc đó, Trái Đất, Mặt Trăng và Mặt Trời  cùng trên một đường thẳng (Hình 2) nên tác động kéo nước trên Trái Đất mạnh hơn vì  hỗ tương lên nhau. 
Triều cường là lúc có sai biệt lớn giữa triều cao nhất và triều thấp nhất. Triều cường còn gọi là nước lớn như trong ca dao:

Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi 

Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê

Triều cường làm các vùng thấp duyên hải bị ngập, làm hư hại các đê bao ngăn mặn, gây ngập úng các đầm nuôi tôm, các vườn cây ăn trái, các nhà cửa ven kinh rạch, gây ùn tắc giao thông đô thị. 
TP. Cần Thơ bị ngập lụt do triều cường


Triều cường và sóng lớn làm phá vỡ bờ cây xanh chắn sóng dọc theo bờ biển, lấn sâu vào đất liền. Khi triều cường vào cửa sông thì độ mặn lan truyền, khuyếch tán vào trong sâu nội địa, nhất là lúc cao điểm đỉnh triều cường vào con nước rằm và ba mươi tháng Giêng âm lịch, thì sẽ gây thiệt hại cho nhiều diện tích lúa đông xuân  đang trong giai đoạn làm đòng, trổ bông .
 

Hình 2. Triều cường lúc cả ba thiên thể Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất cùng nằm trên đường thẳng

Còn lúc trung tuần và hạ tuần, ít có khác biệt giữa triều cao và triều thấp vì lúc đó, Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng tạo thành một góc vuông. Ta có lúc đó triều yếu (neap tide) là lúc biên độ triều (khác biệt về độ cao giữa triều cao nhất và triều thấp nhất)  nhỏ nhất 

Thủy triều cực đại đạt được khi mà cả Mặt Trăng và Mặt Trời cùng nằm về một phía với Trái Đất - lực hấp dẫn đạt cực đại, còn khi Mặt Trăng và Mặt Trời nằm đối diện nhau so với Trái Đấtthì mức triều lên đạt cực tiểu. 
Trong mỗi chu kỳ nửa tháng, bắt đầu là 1,2 ngày triều yếu, đến giữa chu kỳ là triều cường, cuối chu kỳ là 1,2 ngày triều yếu. Triều  cường thường xảy ra sau ngày không trăng (đầu tháng âm lịch) hoặc ngày trăng tròn (rằm, khoảng 2 ngày).

 

Hình 3. Triều yếu khi cả ba thiên thể làm thành góc vuông

Tại miền châu thổ Cửu Long, mùa cạn hay mùa lũ, mực nước các sông hằng ngày đều có dao động theo sự chi phối của thủy triều. Những biến đổi thủy triều trải qua các giai đoạn sau:
-Mực nước biển dâng lên trong vài giờ, ngập vùng gian triều (intertidal zone), gọi là ngập triều (flood tide).
-nước dâng lên đến điểm cao nhất của nó, gọi là triều cao (high tide), còn gọi là nước lớn.
-mực nước biển hạ thấp trong vài giờ làm lộ ra vùng gian triều, gọi là triều rút (ebb tide).
-nước hạ thấp đến điểm thấp nhất của nó, gọi là triều thấp (low tide), còn gọi là nước ròng:           

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu (Kiều)
Tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng 
Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang 
Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều 
Như từng con nước ròng xoá một ngày đìu hiu (Tình nhớ  Trịnh Công Sơn )

Nước ròng, ngọn nước mới sa là nói khi thủy triều xuống, nhưng thuỷ triều cũng dâng lên như trong đoạn thơ sau:
Bốn bề bát ngát mênh mông

Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau

Vùng nước dao động do  thuỷ triều lên xuống giữa mức nước lớn (flood current) và nước ròng (ebb current). Những bãi biển xoải cát, cửa sông hoặc những mỏm đá thấp thường được gom vào khu vực này.
Nhìn nước lớn, nước ròng, nhìn cuộc đời sớm còn, tối mất, người ta ca rằng:

Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi

Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê

Thời điểm mà dòng triều dừng chuyển động được gọi là  nước đứng (slack water) Thủy triều sau đó đổi hướng thì ta có sự biến đổi ngược lại. Nước đứng thường xuất hiện gần lúc mực nước triều cao hoặc triều thấp:.
Nước không chưn sao kêu bằng nước đứng

Cá không giò sao gọi con cá leo ?

Một  chu kỳ biến động của mực nước, từ lúc nước biển rút xuống  mức thấp nhất, đến  lúc nước biển lên cao  đến mức cao nhất, kéo dài 15 ngày , có tên là một con nước ; như vậy mỗi tháng có 2 con nước . Nước lên-nước xuống chi phối đời sống dân ven biển .  
-Trông về con nước vơi đầy

Nỗi sầu xa cách biết ngày nào vơi

-Lênh đênh duyên phận bọt bèo

Đành cho con nước thuỷ triều đầy vơi

-Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà (Huy Cận)

 -Trông vời con nước mênh mông

   Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang ( Truyện Kiều)

-Trăng lên con nước rong đầy

Anh đừng đến nữa, má rầy khổ em

Mực nước thủy triều có ảnh hưởng lớn đến đồng bằng, từ chuyên chở trên sông rạch đến nông nghiệp.
Đám cưới nơi nông thôn này thì tôi biết rồi. Tội nghiệp, các cô con gái hầu hết đều cưới về đêm. Cưới theo con nước bởi vì đi toàn bằng ghe, xuồng, lúc 2 hay 3 giờ sáng hoặc 4 hay 5 giờ sáng đều tùy theo con nước. Đưa cô dâu tới nhà chồng xong, họ hàng nhà gái mau mau ra về kẻo sợ nước rút..

(Đoàn Dự trong truyện ngắn Câu chuyện quê nhà)

Thuỷ triều có thể rất mạnh:

Triều đâu nổi sóng đùng đùng
Hỏi ra mới biết là sông Tiền Đường  (Kiều)

Sông Tiền Đường là con sông lớn nhất của tỉnh Chiết Giang bên Trung Quốc,  bắt nguồn từ tỉnh An Huy, và đổ vào vịnh Hàng Châu.Thủy triều lớn khác thường trên sông Tiền Đường do hình thể địa lý và điều kiện thủy văn đặc biệt ở cửa sông gây nên. Lực ly tâm xuất hiện khi trái đất quay, cộng với hình dạng nút thắt cổ chai của vịnh Hàng Châu khiến thủy triều dễ lên nhưng lại rất khó rút. Độ lớn của các con sóng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như vị trí của Mặt trăng, nhiệt độ, mực nước và gió.
2Hai chế độ triều tại DBSCL
 Miền Châu thổ sông Cửu Long có hai chế độ triều khác nhau vì
2.1.Vùng duyên hải  Biển Đông, từ Vũng Tàu đến mũi Cà Mau, dài 400 km chịu ảnh hưởng rõ rệt theo chế độ bán nhật triều không đều (semi diurnal): mỗi ngày có 2 lần triều lên (1 thấp, 1 cao) và 2 lần triều xuống, còn gọi là chân triều (cũng 1 thấp, 1 cao) nhưng biên độ triều trong 2 lần khác nhau.   Thời gian triều lên kéo dài khoảng 6 giờ và thời gian triều xuống khoảng 6 giờ 45 phút đến 7 giờ (Đó là lý do tại sao thủy triều ngày hôm sau lên trể khoảng 50 phút). 
Trong  tháng có 2  lần nước lớn ( ngày rằm và mồng một âm lịch) và 2 lần nước kém (triều kém, xảy ra vào thời gian giữa 2 kỳ nước cường (ngày mồng 7 - 8 âm lịch hoặc 20 - 21 âm lịch).   
Sông Tiền và sông Hậu chảy ra Biển Đông nên chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật  triều của Biển Đông.

Biên độ triều (tidal range) trung bình tại cửa biển khoảng 3.0 – 3.5 m trong kỳ thủy triều lớn. Vùng đồng  bằng  ở  tả  ngạn  sông  Hậu  và  các  cù  lao  trên  sông  Hậu  thì  hoàn  toàn  chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều của Biển Đông.
Biên độ triều (tidal range) trung bình tại cửa biển khoảng 3.0 – 3.5 m trong kỳ thủy triều lớn. Vùng đồng  bằng  ở  tả  ngạn  sông  Hậu  và  các  cù  lao  trên  sông  Hậu  thì  hoàn  toàn  chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều của Biển Đông.
Phạm vi truyền triều của Sông Cửu Long rất lớn: Tại Nam Vang (cách cửa sông 390 km) ảnh hưởng của thủy triều còn rất rõ, biên độ triều vào mùa hạn có lúc đạt đến 0.50 m.
Chẳng thế mà có ca dao sau đây trong đó chàng trai dặn người yêu :
Nước ròng chảy đến Nam Vang,

Làm thơ để lại, em khoan lấy chồng

Người thiếu nữ không chịu và trả lời :
Tay bưng chậu cúc trăm bông,

Chờ anh chẳng đặng, em trồng xuống đây

Tại Tân Châu (cách cửa sông 220 km) biên độ triều thường từ 5 cm (mùa lũ) đến 100 cm (mùa cạn) . Tại Mỹ Tho (cách biển 49 km), biên độ lớn nhất vào kỳ triều cao là 3.50 m và vào  kỳ  triều  kém là 1.50 m. Biên độ mực  nước  triều  lớn  nhất trung bình tại Mỹ Thuận khoảng 1.80 – 1.90 m; tại  Cần Thơ khoảng 2.20 –2.30 m; tại  Tân Châu 0.95 – 1.05 m và  tại  Châu Đốc 1.1 –  1.2 m.
Tất cả kinh, rạch trong các tỉnh duyên hải đều chịu ảnh hưởng thủy triều, tuy nhiên  càng  truyền sâu vào nội đồng,  biên độ  triều càng giảm. Vào mùa  lũ, ảnh  hưởng của thủy triều tại khu vực xa Sông Tiền không còn nữa nhất là khi có lũ lớn
Trong thời gian mùa cạn, dòng chảy ở thượng nguồn Cửu Long về không nhiều, nên chế độ dòng chảy của sông Tiền và sông Hậu hoàn toàn bị  chi  phối  bởi  chế  độ thuỷ  triều ở biển Đông.

Vào mùa kiệt Sông Vàm Cỏ hoàn toàn bị thủy triều bán nhật của biển Đông chi phối; nước biển dễ dàng xâm nhập sâu vào nội địa. Vào cùng thời điểm và đồng khoảng cách tới biển, độ mặn trên Sông Vàm Cỏ lớn gấp nhiều lần trên Sông Tiền. 
Giống như Sông Tiền, mực nước đỉnh triều trên Sông Vàm Cỏ thường xuống thấp vào tháng 6 và 7 và lên cao nhất vào tháng 10 và 11 hàng năm. Mực nước cao nhất đo được tại Tân An là + 1,78 m ngày 17/10/1978 và mực nước thấp nhất là - 1,84 m ngày 07/8/1964.

Thời gian truyền triều từ cửa biển đến Tân Châu, Châu Đốc khoảng 7- 8 giờ. Tốc độ truyền triều trung bình trên sông Tiền đến Tân Châu, khoảng 25 – 30 km/giờ; trên sông Hậu  đến Châu Đốc, chậm hơn, khoảng 22 - 24 km/giờ. Tuy nhiên, kể từ vùng Cần Thơ xuống hạ lưu, trong dịp rằm và mồng một âm lịch, nhất là vào dịp xuân phân (22/3 dương lịch), nước thủy triều dâng cao hơn mặt ruộng, nông dân thường tích trử nước trong ao và mương riêng để tưới chảy vào ruộng vườn.
Trên sông Tiền, thời gian truyền triều từ Vàm Kinh (cách biển 2 km) đến Mỹ Tho (cách biển 49 km) từ 90 đến 120 phút, và tốc độ truyền từ 24 km/h đến 36 km/h. Vận tốc dòng chảy cũng bị ảnh hưởng thủy triều: Vào mùa lũ vận tốc chậm khi triều lên, nhanh khi triều xuống (lần lượt 1.2 m/s và 1.8 m/s); vào mùa kiệt,  vận  tốc  khi  triều  xuống  trong  khoảng  0.70 m/s đến 1 m/s.
Mực nước đỉnh triều lớn nhất trung bình tại Tân Châu khoảng 1.70 m; tại Châu Đốc (cách biển 190 km) khoảng 1.50 m và tại Cần Thơ (cách cửa biển 123 km) là 1.24 m. 
Mực nước chân triều thấp nhất trung bình tại Tân Châu là – 0.35 m; tại Châu Đốc là – 0.55 m; tại Mỹ Thuận là –1.37 m; tại Cần Thơ là – 1.60 m và tại Mỹ Tho là  –0.95 m. 
Nói chung, ảnh hưởng triều trên sông Hậu mạnh hơn so với sông Tiền. 
  
Trong mùa cạn, triều lên làm xuất hiện dòng chảy ngược  từ  biển vào sông trong những thời gian nhất định:

Trong số các nhánh của Sông Tiền, phân phối lưu lượng qua nhánh Cửa Tiểu là thấp nhất cả vào mùa cạn lẫn mùa lũ. Theo tài liệu đo từ năm 1924 đến nay, lưu lượng tại Phnom Penh ít khi thấp hơn 2,385 m3/s, ngoại trừ tháng 4 trong khoảng 2,000 m3/s đến 2,300 m3/s. Như vậy trong tháng 4, Sông Cửa Tiểu gần như hoàn toàn bị thủy triều Biển Đông chi phối, nước biển dễ dàng xâm nhập sâu vào nội địa khiến độ mặn cao hơn hẵn so với các tháng khác trong năm.
Lưu lượng Sông Tiền cũng chịu ảnh hưởng thủy triều, khi triều lên sẽ tạo dòng chảy ngược về phía thượng lưu và ngược lại.

Tại Cần Thơ, tốc độ dòng chảy ngược trung bình từ  0.60 –0.80 m/s, lớn nhất có thể  đạt 1.25 m/s (ngày 18/4/1988); 
Tại  Mỹ Thuận,  tốc  độ  chảy  ngược  lớn  nhất  có  thể  đạt 1.12m/s (ngày 24/4/1978). 
Tại Tân Châu, tốc độ chảy ngược trung bình từ 0.2 –  0.3 m/s, tốc độ chảy ngược lớn nhất là 0.395 m/s với lưu lượng 3,290 m3/s (ngày 12/4 /1987). 
Tại Châu Đốc, tốc độ chảy ngược trung bình khoảng 0.30 –0.50 m/s, lớn nhất là 0.526 m/s (ngày 5/3/1979). Như vậy, tốc độ chảy ngược lớn nhất tại Châu Đốc luôn luôn lớn hơn tại Tân Châu trong cùng thời điểm. Điều này một lần nữa chứng tỏ ảnh hưởng của thuỷ  triều đến Châu Đốc trên sông Hậu  mạnh  hơn  so  với  Tân  Châu  trên  sông Tiền.

Trong  một  con  triều, tốc  độ  chảy ngược  lớn  nhất  thường  xuất  hiện sau  khi  xuất  hiện mực nước đỉnh triều khoảng 2 giờ.
Do ảnh hưởng của thuỷ triều, trong thời gian mùa cạn, vào thời kỳ kiệt nhất (tháng 3 và 4), lưu lượng chảy ngược tại Tân Châu có thể đạt 3,290 m3/s (ngày 12/4 - 1987) và 1,700m3/s tại Châu Đốc (ngày 6- 4 - 1978). 
Trên quan điểm sử dụng nước trong nông nghiệp, việc đánh giá dòng chảy mùa cạn được căn cứ chủ yếu vào giá trị của lưu lượng nước chảy xuôi.

Mực nước và lưu lượng (chảy xuôi) trung bình tháng giảm dần từ đầu mùa cạn và giá trị thấp nhất thường trong tháng 4, sau đó tăng dần. Vì vậy, tháng 4 được xem là tháng cạn nhất trong năm. Mực nước trung bình tháng nhỏ nhất trung  bình nhiều năm tại Tân Châu là 0.42 m, tại Châu Đốc là 0.38 m (thấp hơn tại Tân Châu 4 cm).
2.2. từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên dài 250 km. Bán nhật triều từ Biển Đông khi vào biển cạn và hẹp của Vịnh Thái Lan và Biển Tây mất dần năng lượng biến thành triều toàn nhật (diurnal),  trong một  ngày  đêm chỉ  có một  lần nước  dâng  cao và một lần nước thấp và càng đi sâu vào tới Vịnh Rạch Giá và Hà Tiên thì thời gian triều lên càng trể đi. Triều phía Tây tiến vào đất liền qua các sông thiên nhiên như sông Bảy Háp, sông Ông Đốc, sông Cái Lớn, sông Cái Bé, ... và một số kênh đào.

Biên độ trung bình triều phía Tây nhỏ hơn 1 m, tối đa không quá 1,1 - 1,2 m., trung bình khoảng 0,7 - 0,8 m, đồng thời cũng ít chênh lệch giữa các vùng về biên độ, song tính chất  thủy  triều lại có một số điểm  khác  nhau về  cơ bản ở một số vùng:

Ví dụ :
-như  khu  vực Rạch Giá là dạng  triều  hỗn hợp  thiên  về  bán  nhật  triều với số ngày trong tháng có 2 lần triều lên và 2 lần triều xuống là chủ yếu (tức chịu ảnh hưởng chế độ nhật triều không đều, thiên về bán nhật triều), 
-từ Rạch Giá đi về phía Hà Tiên thì  triều  hỗn  hợp  lại  thiên về nhật triều.

Vùng ảnh hưởng  thủy triều toàn nhật của Biển Tây không lớn lắm, chỉ vài chục cây số từ bờ biển.
. Ngược lại phía hữu ngạn  sông  Hậu, gồm  khu  tứ  giác Long Xuyên, U Minh và  vùng  Cà Mau  thì chịu ảnh hưởng tổng hợp của triều Biển Đông và Biển Tây, rất phức tạp. 
 Ngọc Hiển (Năm Căn, Cà Mau) chịu ảnh hưởng phức tạp của 2 chế độ thủy triều.

2.3.Nơi tiếp giáp của hai chế độ thủy triều là vùng nước ứ động, nước sông hay kinh rạch không lưu thông – nước đứng- làm lắng tụ nhiều phù sa.
3. Tác động của triều cường
Triều cường làm các vùng thấp duyên hải bị ngập, làm hư hại các đê bao ngăn mặn, gây ngập úng các đầm nuôi tôm, các vườn cây ăn trái, các nhà cửa ven kinh rạch.
Khi triều cường vào cửa sông thì độ mặn lan truyền, khuyếch tán vào trong sâu nội địa, nhất là lúc cao điểm đỉnh triều cường vào con nước rằm và ba mươi tháng Giêng âm lịch, thì sẽ gây thiệt hại cho nhiều diện tích lúa đông xuân  đang trong giai đoạn làm đòng, trổ bông . Triều cường và sóng lớn làm phá vỡ bờ cây xanh chắn sóng dọc theo bờ biển, lấn sâu vào đất liền
 Khi nưóc mặn xâm nhập vào cửa sông thì đất bị nhiễm mặn và năng suất lúa bị giảm và không trồng lúa được vào mùa khô.
Mực nước thủy triều có ảnh hưởng lớn đến đồng bằng, từ chuyên chở trên sông rạch đến nông nghiệp. Nước triều cao sẽ dễ dàng lấn sâu vào nội địa và làm nhiễm mặn nước sông và đất đai còn nước mặn ảnh hưởng nhiều vùng duyên hải như Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Soc Trăng, Cà Mau ...

Tốc độ truyền sóng triều trong sông.
Sóng triều truyền vào sông với tốc độ trung bình trên dưới 30 km/giờ đối với các sông lớn. Còn đối với những sông nhỏ, hoặc màng lưới kênh rạch, sự truyền triều diễn ra phức tạp hơn. Lại còn có hiện tượng giao thoa sóng triều tại những con sông có sự truyền triều từ hai phía.

Sự truyền triều vào trong sông tuy có gây một số khó khăn như đưa nước mặn vào nội địa, khiến cho vùng cửa sông thiếu nước ngọt nghiêm trọng vào mùa khô. Những ngày lũ lớn, nếu gặp kỳ triều cường, nước dâng to sẽ gây ngập lụt v.v... Song với vùng xa cửa sông, mặn không tới được thì dao động thủy triều trong ngày có tác dụng không nhỏ cho công việc tưới tiêu, thau chua, rửa mặn. Khi triều dâng, mực nước ngọt trong sông được đẩy lên cao, người ta có thể lợi dụng để lấy nước vào ruộng. Ngược lại, khi triều rút, mực nước xuống thấp, có thể xả nước, thau chua từ ruộng ra sông. Nông dân Việt thường dùng những thân cây dừa  làm ‘bọng’, trong đó có gắn cái ‘hom’ như một hình thức van (valve), với mục đích khi nước sông dâng cao vói thuỷ triều lên thì nước ngoài sông tự động vào ruộng qua cửa bọng và khi thuỷ triều hạ xuống thì nước trong ruộng tự động rút ra qua cửa bọng và cái hom tự động khép kín . Cũng xin mở dấu ngoặc ở đây: khi người Pháp qua đây đầu tiên  ở  miền New Brunswich, cách nay chừng 400 năm, ở  gần các vùng biển, chính các sắc dân da đỏ  vùng này đã  hướng dẫn cho đám dân lưu lạc cách làm cửa bọng để  cho nước thuỷ  triều vào ra trên đất gần biển để trồng trọt !
4. Kết luận 
Thủy triều còn đóng góp môt phần lớn là làm nên các chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 của Ngô Quyền trước quân Nam Hán và năm 1288 của nhà Trần trước quân Nguyên-Mông. Cho đến ngày nay thì con người đã biết sử dụng thủy triều để phục vụ cho công nghiệp (như sản xuất điện), ngư nghiệp, như trong đánh bắt hải sản, và khoa học, như nghiên cứu thủy văn