NGHỊCH LÝ VỀ TAI NẠN HẠN HÁN Ở VN

NGHỊCH LÝ VỀ TAI NẠN HẠN HÁN Ở VN

Kỹ sư Nguyễn Đình Cống


Thời gian qua, liên tiếp nhận thông tin về tai nạn hạn hán ở đồng bằng Nam bộ mà xót xa, uất hận. Ngữa mặt lên trời mà than: “Xanh kia thăm thẳm tầng trên. Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”.

Ai đã từng học môn Địa lý nước VN ở bậc tiểu học đều biết đó là một đất nước thuộc vùng nhiệt đới, gió mùa, sông ngòi chằng chịt, lượng mưa hàng năm tru ng bình trên 1500 mm, nhân dân cần cù, lại được một Đảng Cộng sản theo Chủ nghĩa Mác Lênin (CNML) lãnh đạo. Mà Đảng tự cho là sáng suốt, là quang vinh, chủ nghĩa được Đảng cho là ưu việt nhất của nhân loại. Thế mà một vùng rộng lớn đang khốn khổ vì tai nạn hạn hán, như vậy có nghịch lý không.


Khi đã thông cảm sự khốn khổ của nông dân VN chịu tai nạn hạn hán thì sẽ vô cùng khó hiểu khi nhìn sang đất nước Israel, một nơi mà 60% lãnh thổ là sa mạc, con sông Jordan với lượng nước chỉ như một con suối nhỏ ở VN, lượng mưa bình quân hàng năm chỉ khoảng 50 mm (bằng 1 phần 30 của VN). Thế mà dân Israel không mấy khi lo đến hạn hán, không thiếu nước trong sinh hoạt, nông nghiệp không thiếu nước tưới.

Tại sao vậy? Dân Việt Nam khi gặp phải khó khăn gì không giải thích được thì đều đổ tại Trời. Nguyễn Du từng viết: “Chẳng hay muôn sự tại Trời…”. Dân lại ca: “Mất mùa là bởi thiên tai. Được mùa chính bởi thiên tài Đảng ta”. Xét ra trong “tai nạn hạn hán” ở VN hiện nay thì Trời chỉ chịu trách nhiệm một phần, đó là không có mưa, phần “hạn hán”, còn  phần “tai nạn” là do con người kém hiểu biết và thiếu trách nhiệm. Thử hỏi lượng mưa ở VN và ở Israel, nơi nào nhiều hơn. Trong một chỗ khác Nguyễn Du viết: “Có Trời mà cũng có Ta”. Tôi theo cách của cụ viết 2 câu: “Nắng hạn nứt ruộng, cháy da. Do Trời mà cũng do Ta phần nhiều”. (Đề nghị dừng lại vài giây để suy nghĩ: Ta ở đây là ai?)

Thiên tai có loại rất bất ngờ như động đất, sóng thần, có loại biết trước được vài ngày như bão, lũ. Hạn hán do thiếu mưa, liên quan đến hiện tượng El Nino, nước biển dâng liên quan đến biến đổi khí hậu, sông Mêkông bị cạn do xây đập chặn giòng là những việc có thể dự đoán được khá xa. Nước ngọt là tài nguyên quý hiếm đã được các nhà khoa học cảnh báo cách đây vài chục năm. Vai trò của con người, của Ta là sẽ làm gì khi đã có dự đoán, có được cảnh báo đó.

Với nạn hạn hán ở VN, Ta ở đây là ai? Là nhân dân VN chứ có ai vào đấy nữa. Không! Tôi không quy kết một cách hàm hồ như vậy. Trong tai nạn này tạm xét 3 loại người thuộc dân Việt có liên quan: 1- Những người dân đang trực tiếp chịu hạn. 2- Những trí thức, những nhà khoa học có hiểu biết về những vấn đề trên. 3- Lãnh đạo Đảng và chính quyền ở các cấp.

Người dân chịu hạn chủ yếu là nạn nhân. Họ có một vài sai lầm nhỏ là quá trông chờ và lệ thuộc vào Trời, quá tin cậy vào lãnh đạo và các nhà khoa học , bị động, thiếu sự nhạy bén…

Trí thức của VN, ngoài một số có học vị cao, có học hàm lớn  mà không có phẩm chất tương xứng thì cũng còn  những nhà khoa học chân chính, có trí tuệ, có tâm, có tầm, biết rõ những chuyện liên quan đến hạn hán, nhưng không thể biến từ biết thành hành động. Trí thức, nhà khoa học , ở nước nào, vào thời nào cũng thế, là nhà chuyên môn, lo làm tốt công việc cụ thể trong phạm vi hẹp của mình, còn về những vấn đề lớn của đất nước thì họ chỉ có thể góp ý, đề xuất, phản biện mà không có quyền quyết định. Riêng ở VN, việc đề xuất, phản biện, phải theo ý muốn của lãnh đạo, còn nếu nói hơi trái ý thì “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Những tấm gương của Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Ung Văn Khiêm, …và hàng trăn người nổi tiếng khác bị quy kết là phản động, là chống Đảng, bị khủng bố, tù đày  còn sờ sờ ra đấy. Khi có ý kiến khác với lãnh đạo thì đến như Tạ Quang Bửu vẫn không dấu được nỗi sợ, đến như Trần Đại Nghĩa, chỉ dám phát biểu rất dè dặt.

Cộng sản VN đã có thời kỳ xếp trí thức vào hàng ngũ kẻ thù (trí phú địa hào), còn Mao Trạch Đông đã phát biểu: “trí thức không bằng cục phân”. Trong tình hình như vậy một số trí thức Việt , mặc dầu rất yêu nước, nhưng đành ngậm ngùi ra nước ngoài làm việc, số đông ở lại trong nước cam chịu phận hèn, đề cao phương châm sống “ biết sợ” để tồn tại. Dù sao các nhà khoa học VN có liên quan và còn có lương tri, trước cảnh hạn hán khốc liệt hiện nay cũng nên tự trách mình đã hèn kém, không có được những đóng góp cần thiết.

Lãnh đạo các cấp mới chính là “Ta” trong vụ việc này. Những người này có nhiều việc quan trọng và cấp thiết cần đem hết công sức và trí tuệ hạn hẹp để lo lắng, họ tuy biết khả năng hạn hán sẽ xẩy ra nhưng không còn trí tuệ, không còn năng lực và thời gian để giải quyết, mặc cho Trời và dân là chủ yếu, được đến đâu hay đấy. Đến khi hạn xẩy ra quá nặng mới tìm cách thăm hỏi động viên và cầu xin ngoại bang mở đập, tháo cho ít nước. Công việc quan trọng nhất đối với họ, một phần là lo bảo vệ, lo chống đỡ chế độ toàn trị và tổ chức đảng đang lung lay, đang có nguy cơ tan rã, phần khác là lo tìm đủ mọi cách để thu hồi vốn (phải bỏ ra để chạy chức chạy quyền), để làm giàu cho cá nhân, để củng cố quyền lực và lợi ích nhóm. Hơn nữa cách bầu cử “dân chủ đến thế là cùng” khó chọn được những người tài giỏi, có khả năng nhìn xa trông rộng. Những tổng bí thư vừa qua chỉ biết hỏi nhân dân trồng cây gì, nuôi con gì, bỏ nhiều năng lượng để lo đấu đá nội bộ, lo củng cố quyền lực, không có trí tuệ và thiếu cả trách nhiệm để thực sự lo đến đời sống nhân dân và luôn nghi ngờ trí thức. Lãnh đạo ĐCSVN đã quen dựa dẫm, quen phục tùng cộng sản Trung quốc, quen việc xin viện trợ, thiếu tinh thần tự lập, tự cường. Ở trong nước thì lớn tiếng về kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhưng đi đến bất kỳ nước nào cũng xin người ta công nhận VN có kinh tế thị trường, ct cái đuôi đnh hướng, làm cái vic khó hiu và phn nào hèn h (du đuôi đ đi xin, nếu thò đuôi ra thì nhiu người không chu ni).
Khi kho sát đt nước Israel mt vài người cho rng h phát trin được là nh trí thông minh ca dân tc Do thái. Điu đó ch đúng mt phn. Xét tương quan, dân tc Vit cũng thông minh không kém. Khác nhau cơ bn là do lãnh đo. Lãnh đo VN kiên trì theo CNML đã li thi, li đem thân l thuc Trung quc, còn lãnh đo ca Israel theo xu thế phát trin chung ca các nước dân ch, tin tiến, đy ý chí t cường. Khi Israel mi lp quc vào năm 1948, nhiu người Do thái t Liên xô v, mang theo con đường xây dng CNXH, lp ra Công Đng  có xu hướng CNML. Nhưng may thay, dân Do Thái không b mc la, kp thi nhn ra và t b ngay xu thế cng sn, vì thế gii phóng được năng lượng trí tu và sc sn xut ca dân tc.
Singapore hu như không có ngun nước ngt, phn ln nước dùng cho sinh hot phi nhp khu, thế mà dân ca h chưa khi nào lo thiếu nước. Sing cũng đi lên t mt nước thuc đa, h phát trin được nhanh, mt phn quan trng là đã tránh được phong trào cng sn.
Vit Nam đã c nhiu đoàn sang Israel và Singapore đ nghiên cu, đ hc tp, nhưng ri ch hc được rt ít và  không làm theo được. VN còn mi Lý Quang Diu và mt s nhà khoa hc Israel làm c vn, h góp nhiu ý hay nhưng vi ta không chp nhn. Mt s trí thc trong nước tham gia Ban C vn đ góp ý kiến cho Chính ph, Ban ch tn ti mt thi ri b gii tán. Các nhà khoa hc Vit kiu nghiên cu, vch ra đường li phát trin đt nước, đường li đó cũng b Đng và Nhà nước xếp xó. Ti sao vy? Ti vì mi s hc tp, mi li c vn, nhiu kết qu nghiên cu ch ra rng: “Mun phát trin đt nước thì vic đu tiên là phi ci cách th chế, t b con đưởng ca CNML”. Đó là điu mà lãnh đo Đng không th nào chp nhn. Đi vi h ch cn dùng CNML làm kim ch nam, kết hp ngh quyết ca đi hi Đng là đ.
Viết thêm,  Israel có 2 ti nng liên quan đến nước là làm ô nhim ngun nước và dùng nước lãng phí. Còn  VN, vic làm ô nhim các giòng sông đến mc hy hoi môi trường đã tr nên bình thường. Mt chính quyn không trong sch làm sao gi cho được s trong sch cùa xã hi và các giòng sông.
Tôi không có hiu biết nhiu v chng hn nên không góp được bin pháp c th gì, ch xin chia tai nn hn hán ra làm 2 phn là hn hán và tai nn, li phân tích vài nguyên nhân sâu xa ca tai nn đ góp vào tiếng nói chung.