TRÁCH NHIỆM
CỦA VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
TRONG
CÔNG CUỘC DÂN CHỦ HÓA VIỆT NAM
Lâm Lễ Trinh
LTS: Dưới đây là bài nói chuyện có ghi âm của Ls Lâm Lễ Trinh trong buổi giới thiệu sách “Tuyết Xưa, Viết về Văn học” của Gs Trần Ngọc Ninh tại Viện Việt Học, Intitute of Vietnamese Studies, ở số 15355 Đại lộ Brookhurst, Westminster, Californie.
Sau sự giới thiệu và phân tích khá đầy đủ của ông Viện trưởng Nguyễn Khắc Hoạch và nhà thơ Viên Linh, tôi xin mạo muội góp thêm một vài nhận định và ý kiến về quyển sách “Tuyết Xưa” do ông bạn Trần Ngọc Ninh đã có nhã ý đề tặng.
Sáng tác rất công phu này gồm có ba phần: 1) các tạp bút mà tác giả hài hước mệnh danh “rơm rác đời làm báo” đăng trước năm 1954, lúc còn là sinh viên y khoa, trong tập san y học Vui Sống tại Hànội. 2) một số diễn văn và bài nghiên cứu sau 1954, về nguồn gốc văn hóa thái cổ Việt Nam và các mối liên hệ với dân tộc, lịch sử, xã hội..3) Ý nghĩa và vai trò của huyền thoại dân tộc. Nhiều hình ảnh và minh họa mỹ thuật được trình bày khoa học qua 320 trang sách.
Nơi đây, tôi chỉ đề cập đến hai phần chót trong đó có 3 điểm đáng được đem ra thảo luận thêm:
A – Trước hết, vấn đề đinh nghĩa Dân tộc và Văn hóa.
Theo tác giả Trần Ngọc Ninh, Dân tộc là “một khối người có chung một nguyên tổ trong huyền sử, một ngôn ngữ chung và một văn hóa chung” (trang 180,181,182). Và ông đã định nghĩa ngắn gọn “Văn hóa là cái mà ta khác họ” về ý thức hệ và trong cuộc sống. (trang 112).Trên thực tế, vấn đề định nghĩa phức tạp hơn nhiều từ khi hai ngành khoa học mới mẻ về nhân chủng (anthropology) và ngôn ngữ (linguistique) xâm nhập lãnh vực nghiên cứu văn minh và văn hóa.
Đúng vậy, Dân tộc và Văn hóa là đề tài tranh luận sôi nổi những thập niên gần đây. Hai nhà nhân chủng học Kroeber và Kluckhohn xác nhận đến nay, có ít nửa 163 định nghỉa khác nhau về Dân tộc. Định nghĩa của kinh tế gia Đức Max Weber, lãnh tụ CS Nga Josef Stalin và nhà sử học Pháp Ernest Renan thường được nhắc đến. Weber quan niệm Dân tộc là một nhóm cộng đồng sắc tộc kết tụ bởi sự tin tưởng họ thuộc một nòi giống riêng, đồng hướng về một quyết tâm chính trị và được phó thác một sứ mạng văn hóa. Đối với Stalin , đời sống kinh tế, ngôn ngữ chung và lãnh thổ là ba yếu tố chính yếu. Còn Ernest Renan thì ông cho rằng Dân tộc là một hình thức đạo lý (a form of morality), một giác quan hợp quần (a sense of solidarity), phát sinh từ một ý thức lịch sử đặc biệt, (a distinctive historical conscience). Dưới lăng kính nhân chủng học, Gs Clifford Geertz quan niệm hai yếu tố cấu tạo chủ nghỉa dân tộc là sắc tộc và công dân bổ túc lẫn nhau trong khi vẫn đối địch.
Về Văn hóa, trước thập niên 60, có hai định nghĩa xem như sáng giá nhất, do hai nhà nhân chủng học trứ danh Edward Tyler, gốc Anh, và Kenneth Lowie, gốc Mỹ, đề nghị . Theo Tyler văn hóa là “những năng khiếu và tập quán thụ đắc bởi con người với tứ cách một thành viên của xã hội.” Còn Lowie thì ông cho rằng văn hóa là “tất cả những gì một cá nhân thu thập được từ cộng đồng xã hội như một di sản của quá khú chớ không phải do các cố gắng của bản thân.” Thập niên 70, quan điểm trên đây bị nhiều thức giả kích bác, trong số này có Clifford Geertz, tác giả của quyển sách danh tiếng “The interpretation of cultures” (NY Basic Books, 1973). Khuynh hướng mới chủ trương ngành nghiên cứu văn hóa cần có tính cách giải thích, hướng về việc tìm ý nghĩa, thay vì là một môn khoa học thực nghiệm nhằm mục đích khám phá định luật. Văn hóa không còn là một khái niệm thuần nhất nữa. Văn hóa được phân tích như “những màng tơ ý nghĩa do chính con người dệt chằng chịt xung quanh mình để rồi bị vướng mắc trong đó. webs of significance which man himself has spun and in which he is suspended.”
Tại Việt Nam, trong tác phẩm “Việt Nam Văn hóa sử cương”, học giả Đào Duy Anh định nghĩa tổng quát : “Văn hóa không những bao gồm học thuật tư tưởng mà còn liên hệ đến tất cả các phương tiện sinh hoạt của con người.” Hoàng Văn Chí, tác giả của“Văn hóa sử quan”, sai lầm khi phân biệt Văn hóa và Văn nghệ và ông đề nghị tạm định nghĩa văn hóa như “lối sinh hoạt và suy nghĩ của nhân loại.” Gs Nguyễn Khắc Kham, trong bài khảo luận “Đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam”, nhận định Việt Nam có một nền văn hóa “đa nguyên mà lại có đặc tính nhất nguyên”. Đa nguyên vì kết tụ nhiều nền văn hóa khác nhau, phát xuất từ Phật giáo qua Ấn độ, từ Tây phương qua ảnh hưởng của Thiên chúa giáo, từ Trung quốc dưới hình thức Khổng và Lão giáo, không kể văn hóa thạch khí Hòa Bình, thạch khí Bắc Sơn, đồng đen Đồng Sơn..vv..Nhất nguyên, mặt khác, vì Việt Nam thành công dung hợp các trào lưu văn hóa nói trên để khởi sắc phong phú. Khá đông học giả Tây phương, đa số là người Pháp, như Dufell, Ernest Gourou, và Charles Robequain, đã nghiên cứu sâu sắc thực chất và đặc tính của nền văn hóa Việt.
B – Thứ nữa, “sự thăng trầm và sống chết của các văn hóa” được đề cập trong Tuyết Xưa từ trang 97 đến 186.
Tác giả Trần Ngọc Ninh cho rằng các nền văn hóa, lớn hay nhỏ, vô danh hay hữu danh, vì là nhân tạo nên phải trải qua bốn giai đoạn - như bốn mùa xuân, hạ, thu, đông - chớm nở, phát triển, vượt đến tột đỉnh để rồi tàn lụi dần dần và tắt hẳn. Theo Gs Trần Ngọc Ninh, văn hóa không biến đổi là văn hóa chết. Văn hóa phải đổi mới “nhật tân, hưu nhật tân, nhật nhật tân” như Khổng Tử căn dặn. Một nền văn hóa có thể tan vỡ vì hai lý do: do sự cưởng bách thay đổi toàn diện (trường hợp cổ Ai cập bị Hy Lạp chinh phục rồi bị La Mã đô hộ; trường hợp Đức Quốc Xã từ bỏ sứ mệnh văn hóa của mình) hay tình trạng “ chia rẽ và đối kỵ trong lòng dân tộc”
Để kết luận, tác giả nhắc lại câu nói của Paul Valéry: “Chúng ta, các văn minh, biết rằng chúng ta đều phải chết, Civilisations, nous savons que nous sommes mortelles.” Nói cách khác, văn hóa cam chịu số phận phù du, sớm nở tối tàn.
Nơi đây, chúng tôi xin phát biểu một sự e dè. Thật vậy, lịch sử chứng minh những nền văn hóa lớn ảnh hưởng mạnh đến nhân loại thường đi kèm với sức mạnh về quân sự như các đế quốc cổ đại Hy Lạp, La Mã, Ai cập, Persia, Ấn độ, Đế quốc Anh trước Đệ nhị Thế chiến...vv..Khi văn hóa (culture) tạo ra được một nền văn minh (civilisation) vượt xa ngoài biên cương quốc gia thì dù những đế quốc này sụp đổ đi nữa, ảnh hưởng của họ về trí tuệ và kỷ thuật không chấm dứt. Ngạn ngữ VN có câu: Hùm chết để da. Khoa học nhân văn La Hy (les humanités gréco-latines) , nền Hòa bình Pax Romana, khái niệm về vũ trụ nhân sinh của Socrate, Aristote, Eschyle và Sénèque.. nay vẫn được nhắc mãi và giữ nguyên giá trị.
Trong tạp chí Foreign Affairs, Feb.1998, Gs Samuel Huntington,thuộc đại học Harvard, tiên đoán thiên niên kỷ này sẽ dự kiến một va chạm nảy lửa giữa các nền văn minh đối nghịch, a clash of civilizations, trong đó tôn giáo đóng vai trò hệ trọng. Sự đối đầu sẽ tàn khốc hơn hai Thế giới Đại chiến vừa qua vì dựa vào tín ngưởng.
C – Sau hết, sự tranh luận về giá trị của Huyền thoại dân tộc trong Văn hóa thái cổ VN được tác giả đề cập trong 97 trang chót của Tuyết Xưa. Phần này quả là một khám phá thích thú đối với người đọc.
Tại Việt Nam, công việc chép sử chỉ bắt đầu dưới Triều Lý (1010- 1225), được kiện toàn dưới Triều Trần (1225-1400) và tương đối hoàn chỉnh dưới Triều Lê (1418-1527). Vì chiến tranh liên miên, nhiều văn kiện lịch sử bị tiêu hủy hay thất lạc. Từ Triều Lý trở lên về trước, gần bốn ngàn năm, lịch sử Việt Nam không được ghi chép vào văn bản. Để đánh dấu những giai đoạn phát triển của dân Việt từ thời Hồng Bàng (2879-258 trước tây lịch), các sử gia phải căn cứ vào những lời truyền tụng, những di tích, hiện vật như cung tên, khí giới, trống đồng, đồ gốm..vv.., đặc biệt vào vô số huyền thoại liên hệ đến nguồn gốc của Đất nước và Dân tộc do cha ông chúng ta thừa kế từ đòi trước và truyền lại cho các thế hệ sau.
Vào cuối thế kỷ 14, thời Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, Trần Thế Pháp là người đầu tiên sưu tầm những huyền thoại ấy và chép lại trong một tài liệu tựa đề Lĩnh Nam Chích Quái. Năm 1492, cuối thế kỷ 15, tác giả Vũ Quỳnh sắp xếp lại tác phẩm này thành một văn bản mới. Tiếp theo quyển Lược khảo về Thần thoại Việt Nam (1956) của Nguyễn Đổng Chí, Tiếng Đông Phương xuất bản năm 1973 quyển sách dày 665 trang của Hoàng Trọng Miên mang tên “Việt Nam Văn Học Toàn thư, Thần thoại Cổ tích”, có thêm vào nhiều câu chuyện của các sắc tộc thiểu số. Ngoài ra, cũng nên kể tác phẩm Légende des Terres Sereines của Gs Phạm Duy Khiêm viết bằng Pháp văn. Các học giả vừa nói dùng huyền thoại để làm văn chương hơn là thực hiện một công tác nghiên cứu khoa học.
Huyền sử đi trước lịch sử, không phải là lịch sử nhưng tại Việt Nam, phản chiếu một cách sâu đậm tâm lý và tâm linh dân tộc. Vì thế chúng ta cần tìm hiểu huyền thoại theo nghĩa nổi và nghĩa chìm. Tôi đồng ý với tác giả của Tuyết Xưa khi ông khẳng định huyền thoại Việt Nam là “những di ngôn của Tổ tiên để lại từ thời lập quốc, ,những nét đặc thù của văn hóa dân tộc’ phải được bảo vệ và khảo sát theo phương pháp khoa học.
Đi xa hơn nữa, tôi nghĩ mỗi huyền thoại đều nhắn gởi một sứ điệp thực tiển của Cha Ông. Vì thế cần nghiên cứu để nhận thức ý nghĩa của các sứ điệp ấy và khai khác những mạch sống mới trong công cuộc đấu tranh sắp tới.
Từ Âu sang Á, tại các quốc gia có một nền văn hóa cổ kính, kể cả những xứ tự nhận là “tiến bộ”, mọi vấn đề nguồn gốc đều có tính cách kỳ diệu. Ở Việt Nam, qua nhiều thế kỷ, quần chúng, từ lúc mở mắt chào đời, sống giữa vô số huyền thoại truyền khẩu: Âu Cơ, Lạc Long Quân, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Phù Đổng Thiên Vương, Trọng Thủy, Mị Châu, Chử Đồng Tử, Sự tích Trầu Cau, Bánh Dày và Bánh Chung của Lang Liệu, Thằng Cuội và Cây Đa, Trương Chi và Mỵ Nương..v..v.. Đây không hẳn là chuyện hoang đường, sản phẩm phi lý của trí tưởng tượng.
Trong quyển sách “Tổ quốc ăn năn”, nhà báo Nguyễn Gia Kiểng đã bị dư luận phê bình gắt gao khi ông châm biếm giá trị của huyền sử và đề nghị thẩm lượng lại những nhân vật lịch sử lớn như Quang Trung Nguyễn Huệ.
Câu nói của Thần Kim Qui, trả lời cho An Dương Vương: “Kẻ thù đang ngồi ở sau lưng Nhà Vua” còn mang tính thời sự trong hoàn cảnh Đất Nước ngày nay. Trong tâm hồn của mổi người Việt nặng lòng vì xứ sở, có một Phù Đổng nho nhỏ, đợi được đánh thức và võ trang về thể chất lẫn tinh thần để đứng dậy, lên đường, đấu tranh cho Quê Hương. Chúng ta gọi nhau là Đồng Bào vì tổ tiên cùng ở trong một bọc trứng. Khi chia năm chục người con về Thủy phủ và 50 lên núi, Lạc Long Quân căn dặn Âu Cơ: “Tuy đôi bên, kẻ ở rừng, người biển, song đến khi có việc gì thì tin cho nhau, không được bỏ nhau!”. Tổ tiên đề nghị cho chúng ta phương hướng hóa giải vấn đề muôn thuở: Khác biệt nhưng phải Nhất tâm!
Nói cách khác, chúng ta cần hội nhập các bài học quý giá rút từ một gia tài phong phú. Cần chuyển biến những sứ điệp này thành thực tế trong sinh hoạt hằng ngày và cách xử thế ở đời.
**********
“Tuyết Xưa”nói nhiều về lịch sử và huyền sử. Để kết thúc, chúng ta hảy thoáng nhìn về một số hiện tượng thay đổi bộ mặt của Văn hóa trong thế giới ngày nay:
1 –Ảnh hưởng không ngớt gia tăng của Văn hóa đối với Chính trị.
Trong tác phẩm best-seller “Cultural forces in World politics, Những sức mạnh văn hóa trong chính trường quốc tế”, GS Ali A.Mazrui, gốc Kenya, Phi châu, nhận định rằng sau Đệ nhị thế chiến, sự chia cắt địa cầu về ý thức hệ (Dân chủ Tự do chống Xã hội chủ nghĩa) theo lằn ranh Đông - Tây có tính cách giao thời trong khi cái hố phân cách Nam-Bắc về kỷ thuật và lợi tức mổi ngày đào thêm sâu. Theo ông, ý thức hệ và kỹ thuật bắt nguồn từ văn hóa; văn hóa là trung tâm điểm của bản chất quyền lực trong bang giao quốc tế; một nền văn hóa hùng mạnh là “cái khiên bảo vệ hữu hiệu tự do, a protective shield for freedom.” Với chủ đích khai thông dân trí, văn hóa không thể tách rời khỏi tự do. Văn hóa thiếu tự do không còn là văn hóa. Một danh từ mới “văn hóa chính trị, culture of politics” trở nên thông dụng trong giới nhân chủng học, ï ý muốn nói; khi vi khuẫn Dân chủ và Tự do đột nhập Văn hóa thì Chính trị bị ảnh hưởng và buộc phải canh tân.
2- Siêu cường Hoa kỳ tạo ra một Văn hóa của Sức Mạnh.
Thông thường, hào quang văn hóa tạo uy tín và sức mạnh tinh thần. Ngày nay, hiện tượng “Sức mạnh tạo Văn hóa” xảy ra với nước Mỹ. một quốc gia đa chủng, thành lập năm 1775 bởi di dân tứ xứ. Kinh tế phong phú, khoa học siêu đẳng, truyền thống dân chủ vững chắc và khã năng quân sự vô địch giúp siêu cường Hoa kỳ gầy dựng được Văn hóa của Sức mạnh hiện thay đổi bộ mặt thế giới. Nền văn minh Hoa kỳ hiếu động, đa sắc và cuồng nhiệt, vì thế thường bị các nước Cựu Thế giới mỉa mai mệnh danh “Văn hóa Coca Cola, Văn hóa trọc phú, Văn hóa Đô-la”. Sự phát triển mạnh của văn hóa Hoa kỳ, nhất là việc phổ biến gần đây chủ thuyết quân sự Tiên Hạ Thủ Vi Cường của Tổng thống George Busk không phải không bị phản đối tại nhiều xứ.
Thẩm lượng văn hóa Mỹ qua phim ảnh đồi trụy, nhạc jazz-bebop, nếp sống vội vã và thức ăn fast food là môt phán xét dễ dãi và phiến diện. Trên thực tế, Văn minh và Văn hóa Hoa kỳ đang đóng góp hệ trọng vào kho tàng nhân loại về khoa học, kỷ thuật, văn nghệ, kinh tài và tư tưởng chính trị. Sự đóng góp quý giá nhất là Hoa kỳ giúp vãn hồi và duy trì hòa bình trên địa cầu để bảo vệ văn hóa của các xứ khác không bị chiến tranh tiêu hủy.
3- Tác dụng hàng đầu của Văn hóa trong công cuộc Dân chủ hóa Việt Nam.
Như đã nêu trên đây, không thể coi Văn hóa như một ý niệm trừu tượng của trí tuệ. Văn hóa là một vũ khí đa năng, đa hiệu để thực hiện những giấc mơ cao quý của con người, trong đó có giấc mơ hòa bình, hạnh phúc. Bá quyền chính trị không bao giờ chấp nhận văn hóa tự do mà chúng xem là phản động. Trước cái thiện và cái ác, người văn nghệ sĩ VN không thể trung lập. Đứng trên hay ngoài chính trị, khi sự tồn vong của dân tộc và phát triển của đất nước tùy thuộc hơn lúc nào hết vào dân chủ và tự do, là một sai lầm nguy hại. Không có ý kiến cũng là ý kiến, ý kiến của kẻ trốn trách nhiệm.
Nhà cầm quyền CS hiện chủ trương giao lưu văn hóa một chiều và nơm nớp lo sợ sự tấn công của văn hóa đối kháng có tổ chức. CS hảy hóa giải trước, rồi nói đến hòa giải sau. Miệng cổ võ giao lưu nhưng lòng tính toán hợp lưu.
Qua siêu xa lộ điện tử, tư tưởng của những người biệt kích cầm bút có thể đột nhập lãnh địa đối phương dễ dàng và mau chóng hơn cả hỏa tiển và phi cơ siêu âm để khích động quần chúng. Cộng đồng hải ngoại nên siết chặt hàng ngũ để đánh liên tục và tới tấp vào các kẽ hở “cởi mở” của chế độ Hànội bằng cách quảng bá sâu rộng những ý niệm dân chủ và pháp trị. Xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ không vì bom đạn nhưng vì trận tuyến tuyên truyền dai dẳng của Thế giới tự do.
Trong lịch sử nhân loại, những cuộc cách mạng thành công bền vững không phải là những cuộc cách mạng đẫm máu mà là những chiến thắng của lý trí và ý thức hệ.
LÂM LỄ TRINH
Californie
THƯ TỊCH:
* “Cultures, A critical review of concepts and definitions” của Kroeber và Kuckhohn, Random Publishers, London 1952
* “Cultural forces in World politics” của Ali A.Mazrui, 1998, Houghton Miflin Co, London.
* “The interpretation of cultures” của Clifford Geertz, New York Basic Books, 1973
* “Les traits fondamentaux de la civilisation vietnamienne” của Thái Văn Kiểm, L’Harmatan Paris 1996
“ Qu’est ce qu’une nation” của Ernest Renan; “The Nation” của Josef Stalin: “Économie et Société” của Max Weber
* Đọc các bài của tác giả Lâm Lễ Trinh đăng trong nhiều báo tại Hoa kỳ và Âu châu: “Sức mạnh của Văn hóa và Văn hóa của Sức Mạnh”, “Từ Văn hóa lưu vong đến Giao lưu văn hóa”, “Văn hóa khai thông bế tắc chính tri”, “Văn hóa Việt Nam SOS”, “Văn hóa Hòa bình, một ảo giác”, “Tận dụng văn hóa để đấu tranh cho Dân chủ”, “A Culture of Opposition abroad”.