NGHIỆP DĨ TRUYỀN THÔNG

 TS Lâm Lễ Trinh


 NGHIỆP DĨ TRUYỀN THÔNG


.....

Tại Việt Nam và Irak, chiến tranh cân não đóng một vai tròø quyết định. Trước đây, báo giới phản chiến Hoa kỳ, được CS Bắc Việt tiếp hơi, đã gây hậu quả tác hại hơn cả những đụng độ trên chiến trường. Trong kế họach tấn công quân sự Irak kỳ này, Toà Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài đưa tâm lý chiến và họat vụ tình báo lên hàng đầu

Ngày nay, danh từ truyền thông bao gồm nhiều lãnh vực : chẳng những báo chí, truyền thanh và truyền hình mà luôn cả văn hoá, nghệ thuật, điện ảnh và giáo dục. Trong thế kỷ hiện đại, truyền thông là một vũ khí đa dạng, đa năng và đa hiệu. Từ khi internet được Bộ Quốc phòng Hoa kỳ đồng ý cho thương mại hoá giữa thập niên 90, nền tin học phát triển với đôi hia ngàn dậm.

Cuộc cách mạng này hệ trọng hơn sự xuất hiện của máy radio trong thập niên 20 và máy truyền hình vào những năm 60. Ba phát minh vừa kể (internet, ra-dô và tivi) canh tân toàn diện kỹ thuật truyền thông sau khi máy in được sáng chế tại Trung hoa đời nhà Tống và tại Âu châu bởi Johannes Gutenberg vào thế kỷ 15. Hoa kỳ mỗi năm đưa ra trên thị truờng nhiều máy siêu vi tính hiện đại, loại desktop, laptop, notebook, handheld, palmtop, wearable PC....Kỹ thuật làm báo biến đổi phi mã. Lần hồi các công nhân truyền thông, media workers, thay thế ký giả chính hiệu. Một hình thức báo chí tân thời xuất hiện dưới tên « online journalism, báo trên mạng lưới », đẩy lui nghề báo cổ điển. Một câu hỏi được đặt ra : Phải chăng internet sẽ giết chết báo chí ?

Một ngành khoa học mới mang tên médiologie chuyên nghiên cứu về những mối liên hệ giữa giới truyền thông và các chức năng xã hội ưu việt như tôn giáo, ý thức hệ, chính trị, nghệ thuật....vv...

Trong thế giới văn minh, truyền thông tiến lên vị thế của một « Đệ tứ Quyền », sau ba quyền được công nhận là Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Tuy nhiên, tại một số quốc gia chậm tiến, trong đó có Việt Nam cộng sản, quyền tự do ngôn luận vẫn bị vi phạm bỉ ổi.


A - Những biến chứng của một chính sách bưng bít thông tin tại Việt Nam

Cộng sản Việt Nam đã áp dụng phần thâm hiểm và kém văn minh nhất trong những phương pháp áp đảo truyền thông mà họ học hỏi từ hai đàn anh Nga- Hoa. Hồ Chí Minh đã tuyên bố khi phát động kháng chiến chống Pháp : « Tôi không có quân đội. Tôi không có tiền, tôi không có chính sách giáo dục. Tôi chỉ có lòng câm hận của tôi » (đọc « Fire in the lake » của Frances Fitzgerald. trang 169, nxb Atlantic Press Book, 1972). Đầu tháng 9.1918, chính Lê nin đã ra lệnh: “Cần khẩn trương tạo ra tình trạng kinh hoàng một cách bí mật.” Bằng hận thù và sợ hải, CSVN đã đẩy dân tộc chống ngoại xâm và tiêu diệt giai cấp phú hào, trí thức, nhà văn và nhà báo.

Sau 1975, chính sách bịt mồm báo giới vẫn tiếp tục. Ngày 16.4.1997, Chính phủ ban hành sắc luật cho phép Công an quản chế hai năm các thành phần tình nghi đối lập, khỏi đưa ra tòa án, chiếu theo lệnh của Ủy ban Nhân dân thành phố và tỉnh, bất chấp Bộ luậït Hình sự. Đây là hình thức cải tạo tại chổ.

Hiện nay, biện pháp kiểm soát truyền thông gia tăng hơn trước. Nhà nước CS buộc các ký giả phải đi học tập để thông suốt đường lối của Đảng và tránh nạn chệch hướng. Trong xứ, hầu hết các báo đều thuộc chính quyền, trừ vài tờ nội san của tôn giáo. Tổng biên tập viên của mổi tờ báo phải là một đảng viên trung kiên, có lập trường vô sản vững chắc. Trước khi in và phát hành, sách vở và ấn phẩm phải qua nhiều cấp kiểm duyệt: biên tập viên, tổng biên tập và giám đốc của một nhà xuất bản thuộc Nhà nước. Giai đọan chót là thủ tục trình lên Cục xuất bản, Bộ Văn hóa Thông tin Hànội để xin duyệt y chung thẩm và nhận giấy phép.

Trong quyển hồi ký “Viết cho Mẹ và Quốc hội”, trang 186, Nguyễõn Văn Trấn có đăng bức thơ ngày 20.2.1989 của Nguyễn Hộ gởi cho Bộ trưởng Thông tin Trần Hoàng phản đối việc cấm xuất bản tập san “Truyền thống Kháng chiến”. Hộ và Trấn tố cáo điều 69 của Hiến Pháp bị vi phạm và than phiền luật lệ CS cay nghiệt hơn thời thực dân Pháp.

Ngày 22.12.1996 và cuối tháng 2.1997, nhà văn Hoàng Tiến gởi thơ cho Bộ trưởng Văn hoá Nguyễn Khoa Điềm và Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh để đặt vấn đề liên hệ giữa Tự do báo chí và Dân chủ, Nhân Quyền. Mặt khác, Tiêu Dao Bảo Cự cũng có phổ biến ở hải ngoại bài “Tiếng vọng lẻõ loi và Tựï do Báo chí” để phân tích tình trạng nghẹt thở của tự do ngôân luận trong nước.

Từ hiện trạng này đã phát sinh ra một số biến chứng: vô số báo chui, báo lưới và báo nói xuất hiện, làm điên đầu nhà chức trách cộng sản.


  1. Báo chui.

Sau chủ trương Đổi Mới năm 1986, CS đã đóng cửa nhiều tờ báo như Đối Thoại, Tuổi trẻ Cửu Long, Công an Cửu long, Truyền thống Kháng chiến, Sông Hương, Langbian..vv.. và “xử lý” vì kỷ luật các ký giả đảng viên Tô Hoà (báo Saigon Giải phóng), Kim Hạnh (báo Tuổi trẻ), Thế Sang (báo Phụ Nữ Thành phố HCM), Cường Giang (báo Giáo dục và Thời Đại).

Đàn áp càng mạnh, báo lậu xuất bản càng hăng và được quần chúng lén lút tìm đọc. Tờ Người Sàigon phổ biến rộng trong và ngoài nước vì báo tố mạnh những bê bối của cán bộ CS và nổi thống khổ của dân. Được trớn, tờ Người Hànội và Người Cầnthơ nối gót ra mắt đọc giả. Để bớt chi phí, một số báo lậu được dân photocopy và chuyền tay ở nông thôn. Công an Thành ủy Sàigòn tố cáo “các tổ chức phản động lưu vong nước ngoài phổ biến tài liệu phá hoại vào thành phố qua các đường du lịch, bưu điện và máy fax của đơn vị và cá nhân.” Báo cáo còn cho biết: “một số phần tử bất mãn trong nước tiếp tục viết bài gây chia rẽ nội bộ in trên báo Người Sàigòn để tán phát trong xứ và đưa ra nước ngoàiø ”

Theo Tiêu Dao Bảo Cự, “hiện nay, nhiều cơ quan, hội đoàn do đảng lãnh đạo có quyền ra báo lại giao cho tư nhân làm, tức là bán giấy phép để kiếm lời.” Tại nhiều địa phương, có người dùng một giấy phép để ra hai tờ báo. Việc Bộ Thông tin Hànội giao trước đây cho đại lý Vũ Đức Vượng, cựu giám đốc Searac ở San Francisco phát hành tại Hoa kỳ báo CS đã thất bại thê thảm.


  1. Báo lưới.

Sự tấn công tới tấp của kỹ thuật truyền thông gây bối rối cho CS. Ngày 18.4,2002, Bộ Chính trị ra chỉ thị cho các cấp hành chính kiểm soát chặt chẻ hơn việc cung cấp dịch vụ và xử dụng internet. Theo AFP, VN hiện chỉ có 5 mạng internet nhỏ cho phép gởi điện thư và tham khảo vài cơ sở trử liệu nội địa. Công an Sàigòn mở chiến dịch bố ráp thẳng tay các quán “cà phê vi tính” và cửa tiệm kinh doanh thư điện tử, cho thuê fax, in laser và lập biên bản tịch thu máy móc. Nhà nước nơm nớp lo sợ các “biệt kích cầm bút” dùng internet như tại Miến Điện, Tây Tạng, Đài loan. để trao đổi tin tức và liên kết hầu khuynh loát chế độ.


  1. Báo nói.

Hànội dùng báo Quân Đội Nhân Dân và Thanh niên để thường xuyên sỉ vả Đài Á châu Tự Do, Radio Free Asia (RFA), đài Tiếng Nói Tự do, Radio Democracy Freedom (RFD) và đài Tiếng nói Hoa kỳ, Voice of America (VOA). CS thất bại phá các làn sóng phát âm. Vài đài nóí trên đã phỏng vấn trực tiếp một số nhân vật đối kháng trong nước như Hoàng Minh Chính, Hoàng Tiến, Tiêu Dao Bảo Cự, Trần Độ, Nguyễn Hộ, Nguyễn Đan Quế..vv..và được quần chúng theo dõi thích thú. Phỏng vấn bằng điện thọai viễn liên không còn dễ như trước. CS kiểm soát rất kỷ, cắt đường giây và cảnh cáo người được phỏng vấn. Tuy nhiên sự liên lạc với bên trong không bế tắc nhờ việc dùng điện thoại di động.

Lợi dụng quốc tế điên đầu về nạn khủng bố Al Qaeda và chiến tranh Irak, CSVN gia tăng đàn áp vô tội vạ. Luật sư Lê Chí Quang lãnh án 4 năm tù chỉ vì phổ biến bằng email các bài đả kích nhà cầm quyền nhượng đất cho Trung quốc. Bs Nguyễn Đan Quế cũng bị bắt giam vì cho phổ biến ngày 13 tháng 3 vừa qua bản thông cáo đòi quyền tự do thông tin. Ngày 19.3.2003, Hội Ân xá Quốc tế lên tiếng phản đối chính quyền CS đàn áp quyền tự do phát biểu của dân chúng.


B – Sự góp phần của giới truyền thông người Việt hải ngoại vào công cuộc tranh thủ cho Tự do và Dân chủ.

Thân phận của báo giới VN gắn liền với sinh mệnh của dân tộc. Nền báo VN chỉ thật sự khai sinh sau khi đất nước chúng ta bị Pháp đô hộ và chữ Quốc ngữ dùng mẫu tự Latin ra đời. Đến nay, lịch sử báo chí đã trải qua bốn giai đọan: 1) Giai đọan thời thuộc Pháp (1861- 1945) với báo tiếng Việt và báo tiếng Pháp, 2) Giai đọan kháng chiến chống thực dân cho đến Hiệp định Genève (1945-1954) với báo Việt Minh và báo quốc gia, 3) Giai đọan đất nước chia đôi (1954-1975) và 4) Giai đọan từ 30.4.1975 cho đến nay, với báo trong và ngoài xứ.

Bị thực dân, cộng sản, quân phiệt và độc tài kềm kẹp trong suốt thời gian kể trên, báo chí VN phát triển chậm chạp. chưa để lộ bản sắc đặc biệt và không kỹ nghệ hoá đúng mức. Sau ngày đất nước thống nhất bằng võ lực, làng báo Việt tan hàng rã ngũ. Các cán bộ truyền thông CS nằm vùng và ký giả “đón gió trở cờ” lộ diện như Phạm Ngọc Ẩn, Lý Chánh Trung, Kiều Mộng Thu, Lý Quí Chung... Một số đông nhà báo, nhà văn bị gởi đi học tập mút mùa. Nhiều “biệt kích cầm bút” đã bỏ xác trong các trại tẩy não. Đối với CS, “viết báo” là một trọng tội, tội phản quốc, tội “làm gián điệp.” Phần còn lại di tản ra nước ngoài thành nhiều đợt, với hai bàn tay trắng. Nới đây, họ cố gắng xây dựng lại nghề làm báo trong cảnh hoang tàn của trí tuệ, bỡ ngỡ giữa một xã hội khác tiếng nói và lạ nếp sống. Bị bất ngờ bứng khỏi một môi trường thiếu tự do, họ choáng váng khi du nhập một xứ siêu đẳng về kỹ nghệ truyền thông và đề cao quyền ăn nói. Phương tiện săn tin, nghiên cứu, viết lách và ấn loát thừa thải. Tuy nhiên, việc áp dụng bừa bãi quyền tự do thông tin gây ra hai hiện tượng đáng tiếc: sự lạm phát ký giả và ngành báo chợ phát không. Việc gia nhập hỗn loạn và tùy hứng của những người đội lốt ký giả, thiếu đạo đức và kém khã năng biến báo giới thành một diễn đàn “gió tanh mưa máu” để “ân oán giang hồ.” Báo chợ làm sa đọa nghề làm báo vì chuyên sống về quảng cáo, bất cần văn hoá. Các ký giả “tài tử “ vi phạm vô tội vạ luật lệ báo chí, xem thường quyền trước tác (copyright) và thưòng dùng báo để phỉ báng cá nhân hay vào những mục tiêu bất chính.

Để bù lại hai hiện tượng tiêu cực nêu trên, có những dấu hiệu tích cực, khích lệ chúng ta vững tin nơi tương lai của báo giới Việt nước ngoài. Với điều kiện, tất nhiên, các đại diện truyền thông chiụ ngồi lại với nhau nhận định xác thựùc hiện trạng ở trong và ngoài Việt Nam, kiểm điểm ưu và khuyết điểm, đồng thời thẩm lượng những phương tiện nhân lực và tài chính, để thảo ra những đề án ưu tiên. Hôm nay, không có đủ thời giờ đi vào chi tiết. Một số đề tài quan trọng sẽ được mổ xẽ và đúc kết trong các hội thảo tiếp theo buổi nói chuyện này.

Thành quả của Đại hội Truyền thông VN Hải ngoại tùy thuộc tinh thần kết hợp của chúng ta. Đoàn kết, từ lâu, là vấn đề phức tạp nhưng không phải là một bài toán nan giải nếu tất cả ý thức được trách nhiệm để sớm đưa đất nước ra khỏi cái nhục chậm tiến; nếu mọi người không tranh dành làm cái đầu và hy sinh chiụ làm cái đuôi, tích cực hành động hơn là tuyên bố suông và dẹp bỏ tị hiềm cá nhân.

Đoàn kết thật sự sẽ xoá bỏ “hội chứng chờ đợi”: già đợi trẻ, trẻ đợi già, tiền tuyến phó thác cho hậu phương, hậu phương mong nơi tiền tuyến. Đợi mỏi mòn không xong thì xoay qua kỳ vọng đồng minh đế quốc bực đèn xanh. Từ vọng ngoại đi đến vong bản chỉ có một bước.

Đoàn kết cũng sẽ hủy diệt dị ứng tổ chức một đoàn thể mạnh có lập trường, lãnh đạo, cán bộ và kỷ luật để tranh thủ tự do và dân chủ. Khởi đầu cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh và đồng chí chỉ là một thiểu số . Nhờ có chiến lược và quyết tâm, chúng đã thắng khối quốc gia, đa số nhưng chia rẽ.

Trong một buổi nói chuyện tháng 11.1994 tại Paris, nhà văn Dương Thu Hương nhận định: “Dân tộc VN có truyền thống chống ngoại xâm nhưng chưa bao giờ có truyền thống chống nội xâm.” Chế độ nội xâm CSVN độc hại hơn chế độ ngoại xâm thập phần vì nô lệ hoá tâm thức của người dân Việt bằng tà thuyết Mác Lê và tệ đoan xã hội. Truyền thông đóng vai trò tiền phong trong công cuộc giải trừ quốc nạn đó. CSVN ngày nay là một loại ốc mượn hồn. Võ ngoài mang nhãn hiệu xã hội chủ nghĩa. Trong ruột, thực dân gian ác, học đòi tư bản.

CS rêu rao Chính phủ của chúng là một “nhà nước pháp quyền.” Đảng tạo ra ngôn ngữ bịp bợm riêng vì không thể đồng nghiã “pháp quyền” với “pháp trị” (còn được gọi État de droit hay Rule of law). Luật pháp Việt Cộng bắt nguồn từ điều 4 của Hiến pháp xác nhận chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh là “lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.” Hiển nhiên luật pháp ấy thể hiện đảng trị chớ không phải pháp trị. Hiến pháp 1992 của CS là một shopping list, là một mảnh giấy rao hàng, kê đủ thứ trò tự do nhưng lại không thi hành hoặc dùng luật và nghị định để vô hiệu hoá. Hành động ngang nhiên vi hiến này, lấy Phép Nước để lấn át Quyền Dân, chỉ thấy tại Việt Nam!

Hoa kỳ, đất tạm dung của chúng ta, là một nước pháp trị. Các tự do căn bản được bảo đảm bởi mười tu chính án đầu ghi trong Hiến pháp. Khối báo chí VN hải ngoại cần có tư cách pháp nhân để lobby chính quyền và hoạt động hợp pháp. Tôi mong rằng các luật gia VN sẽ giúp hợp thức hoá tình trạng dưới danh xưng thích hợp. Khối sẽ có nhiều phương tiện đấu tranh hơn nếu mở rộng cửa tiếp nhận các ngành liên hệ như phát thanh, truyền hình, điện ảnh, ấn loát, văn hoá..vv..Đây cũng là dịp nghĩ đến việc chuẩn bị viết một “Báo chí sử VN” nghiêm chỉnh.

Một nhu cầu khác trong kỳ Đại hội này là vấn đề dự thảo trên tinh thần tự nguyện - nếu không dược một Quy chế Danh dự, Code of Honour hay Code de Déontologie – thì it nữa cũng một Tuyên cáo về Đạo đức Nghề nghiệp ấn định một cách rộng rải những quy tắc hành nghề giữa ký giả với nhau và mặt khác, mối giao hão truyền thông- quần chúng - khách hàng. Văn kiện này phải vừøa thích hợp với nguyên tắc quốc tế, vừa có tính cách khuyến dụ và xây dựng hơn là cưởng chế. Không nên kỳ vọng quá cao. Cần xử dụng thực tế lý trí thông thường, common sense để dung hoà tương kính những bất đồng không thiếu.

Sự thượng tôn luật pháp rất hệ trọng. Là chứng nhân thời cuộc, người ký giả phải trung thực, độc lập và vô tư. Được tổ chức qui củ, giới truyền thông Việt sẽ đấu tranh hữu hiệu hơn như vận động Quốc hội Hoa kỳ thông qua đạo luật Nhân quyền và Dân chủ cho Việt Nam, đòi hỏi Chính phủ Hànội không được ngăn cản ấn phẩm và báo chí hải ngoại phổ biến trong xứ, đưa Việt ngữ vào chương trình giãng dạy song ngữ ở các trường.. ..vv..

Tiếng súng đã chấm dứt tại Việt Nam. Một cuộc chiến khác - gay go không kém - là cuộc chiến tâm lý để vãn hồi Tự do và Dân chủ trong Hoà bình. Đến nay, có nhiều cơ hội bị bỏ lỡ và nhiều phí phạm về nhân lực và phương tiện vì giới truyền thông hải ngoại chưa thống nhất ý chí và sách lược. Truyền thông Việt hải ngoại cần dứt khoát tư tưởng, không thể trung lập hay trung dung giữa Dân chủ và Độc tài, Sự thực và Gian trá, Ánh Sáng và Đêm tối. Không có ý kiến cũng là ý kiến. Ý kiến của người trốn trách nhiệm.


Két luận

Truyền thông là tấm gương phản chiếu những hình thái đa dạng - hỉ, nộ, ái, ố - của cuộc đời; là trung gian giữa đaị chúng và chính quyền; là nhịp cầu lịch sử và một hàn thử biểu dân tộc. Bởi thế, giới truyền thông phải được tự do săn tin và tự do truyền đạt. Tổng thống Abraham Lincoln đã mạnh mẻ khuyến dụ: “Hảy để dân biết sự thật, đất nước mới an bình.”

Quốc tế dựa vào phẩm chất truyềân thông đề đánh giá một cộng đồng hay quốc gia. Truyền thông không “lãnh đạo dư luận”. Nên tránh ngôn từ dao to búa lớn này. Truyền thông vinh hạnh đóng vai trò của “kẻ dẫn đường lễ độ” và không thể phục vụ hữu hiệu nếu không đào tạo được những ký giả có khã năng, đạo đức và lương tâm nghề nghiệp. Sức mạnh của truyền thông bắt nguồn từ việc phát huy Sự Thực. Quyền lực này cần đi đôi với Trách nhiệm.

Trong quá khứ, các phong trào đấu tranh quốc gia đã xử dụng báo chí như một vũ khí sắc bén. Cộng sản đang khai thác thâm độc truyền thông để áp đảo, phá hoại. xâm nhập, mua chuộc và chia rẽ chúng ta. Để đối phó, chỉ có một biện pháp: Cảnh tỉnh siết chặc hàng ngũ.

Làm báo là một đam mê, không thể cấm mà cũng không thể ép, một “cái Đạo” (để dùng chữ của Trấn Tấn Quốc), một “Nghề khoe dốt” (theo danh từ của Uyên Thao), hay còn nửa, một “cái nghiệp” - nghiệp chướng và dĩ nghiệp -, một vinh dự bạc bẽo, đầy gian truân nhưng cũng đem lại những giây phút siêu thoát, sản khoái nhất của tinh thần, trí tuệ. Nghề viết báo làm giàu tiếng Việt nhưng không đủ nuôi sống giới thông tin. Người ký giả yêu nghề, lỡ mang trong mình “giòng máu báo đời”, chấp nhận thân phận của con tầm, cây nến, theo hai câu thơ Đường của thi sĩ Lý Thương Ẩn (813-858):

Xuân tàm đáo tử, ti phương tận

Lạp chúc thành hôi, lệ thủy can”

(bài thơ Vô Đề)

Thác rồi, tầm mới dứt tơ,

Tàn rồi, ngọn nến mới khô lệ rầu.”

(Trần Trọng San dịch)


Trong thế giới văn minh, bởi thế, người ký giả chính danh được tán thưởng ngang hàng với người lính trên chiến trường. Thomas Jefferson đã không e ngại khẳng định; “Nếu cuối cùng tôi phải quyết định giữa một chính phủ không có báo chí và báo chí không có chính phủ, tôi sẽ không do dự chọn tình trạng thứ hai.”

Chỉ có Tự do Ngôn luận mới đem lại Dân chủ thật sự. Thật vậy, Ngôn ngữ là cốt lõi của Văn Minh . Ngôn ngữ bảo vệ sự tiếp giao trong xã hội. Chính sự nín lặng mới cô lập con người. Với tâm niệm mãnh liệt ấy, tôi xin chúc cho Đại hội truyền thông hải ngoại gặt hái nhiều kết quả để đáp lại lòng tin và sự hãnh diện của cộng đồng.


Những bài viết khác của tác giả liên hệ đến vấn đề truyền thông:


  1. Internet sẽ giết chết báo chí ? Internet đe dọa các tự do căn bản ?” (Thời Luận, Los Angeles, Californie, ngày 9.3. 2000)

  2. The false promises of the Internet Culture” (tạp chí Human Rights, June 1999)

  3. Biến chứng của môt chính sách bưng bít thông tin tại Việt Nam” (tạp chí Dân chủ & Phát triển, Đức quốc, ngày 9.9.2002)

  4. Trận chiến pháp lý về Internet tại Hoa kỳ” (báo Việt Luận, Úc Đại Lợi, ngày 18.9.2000)

  5. « Hanoi aux prises avec l’Internet » (tạp chí Việt-Pháp Vietnam-France Culture, Paris, 26.10. 2002)

  6. «  L’Internet devant la Cour Suprême des États Unis » (Revue Nhân Quyền, Paris, 27.12.2000)

  7. « The Internet on trial » (Người Việt, english section, Californie, 23.11.2002)

  8. L’information clandestine au Viet Nam” (Revue Người Việt Quốc gia, Montreal, Canada, ngày 27.8.2002)

  9. « Truyền thông Mỹ vẫn bóp méo chiến tranh Việt » (tạp chí Tia Sáng, Cánh Én, Đức quốc, 18.4.2003) 

  10. « Chính trường Mỹ, Lobby Việt » (báo Saigon-Canada, Toronto, 18.12.2002)

  11. The bridge between the Past and the Future. What to expect from the Vietnamese Youth? ” (Bulletin de la Francophonie francaise, Paris, Septembre 2001)

  12. “ Cộng đồng Việt Nam trước khúc quanh đấu tranh mới” (Bài nóí chuyện tại Washington DC nhân Ngày Lễ Nhân quyền Quốc tế, 9.5.2002)

  13. « Tù Văn hoá lưu vong đến Giao lưu văn hoá » (bài nóí chuyện tại Cộng đồng Oklahoma nhân Ngày Quốc khánh 2001)