Ngô Đình Nhu (1910-1963): Một Nhà Chiến Lược

 Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm


Ngô Đình Nhu (1910-1963): Một Nhà Chiến Lược

Phần 2

Nhưng Kế Hoạch Do Chế Độ Xây Dựng Có Những Khuyết Điểm Sau:



1. Quyền lợi, nhận thức cá nhân và đoàn thể khác nhau về tôn giáo và chính trị xã hội muốn xây dựng dân chủ tự do vội vã đốt giai đoạn, đã cản trợ hoạt động phát triển dân chủ thống nhất của nhà nước, trong tình thế phải đối phó với các hình thức xân nhập và hoạt động của Cộng Sản.

2. Hoạt động tuyên truyền, đồng khởi, phá hoại của Cộng sản đánh phá nhiều mắt xích trong hệ thống hành chính địa phương và trong hệ thống Ấp Chiến Lược ở các vùng sâu vùng xa, và các điạ điểm chiến lược, khi tổ chức chiêu hồi và ấp chiến lược tỏ ra nhiều thiệt hại bất lợi cho Cộng Sản.
3. Hệ thống quản lý đất nước bị lạm dụng, nên có xu hướng thiên về gia đình trị, công giáo trị gây hoài nghi cho nhiều thành phần nhất là Phật Giáo, trong việc kết nạp vào Đảng Cần Lao Nhân Vị và nhiều hoạt động khác như tố chức an ninh (mật vụ, tình báo, cảnh sát, thanh niên, quân đội).
4. Sự can thiệp xen lấn lộ liễu mạnh bạo của Mỹ từ yểm trợ nhẹ nhà đến hoạt động hành quân của cả một lực lượng lớn trên lãnh thổ một đất nước độc lập có chủ quyền với nhiều phương tiện doanh trại, tổ chứng nhân vật lực phức tạp.
Điều này tạo cơ hội cho tuyên truyền Cộng Sản về nhiều mặt. Khi các cảnh chiến tranh tàn bạo được chiếu trực tiếp trên truyền hình các gia đình Mỹ hằng ngày đêm đã dần dần tạo nên phong trào phản chiến, đòi chính quyền Mỹ phải rút về mau lẹ, tạo một khoảng trống cho quân đội còn dòn mỏng của VNCH, chưa kịp tổ chức xây dựng, bổ sung về quân số và huấn luyện và thiếu vũ khí tối tân, so với lực lượng võ khí và mưu lược dối trá của Cộng Sản,
5. Phong trào Đồng khởi  từ Bến Tre và Biến Cố Tổng Công Kích Tết Mậu Thân trên lãnh thổ VNCH II là một hoạt động liều lĩnh của Cộng Sản khi hệ thống Ấp Chiến Lược đã chứng tỏ có hiệu quả đã đẩy CSVN đến chỗ phải hành động để sống còn. Sự tàn bạo và dối trá của Cộng Sản trước Việt Nam toa rập với ý chí chủ bại và phản bội của Mỹ đã đưa đến thằng lợi trước mắt của CSVN ngày 30/4/1975. Việc hủy bỏ hệ thống Ấp Chiến Lược sau khi lật đổ chế độ VNCH I là một hành động phá hoại chiến lược, chuẩn bị xa nhưng mau hơn cho sự chiến bại của miền Nam
Gia Đình Bên Ông Ngô Đình Nhu
Gia đình họ Ngô Đình, nguyên quán ở đất Quảng Bình, ông cố tổ là dân bần hàn sống nghề chài lưới. Khi đạo Công giáo truyền đến vùng này từ thế kỷ 17, thì tổ tiên của dòng họ Ngô Đình đã tin đạo. Đời ông Ngô Đình Khả đức tin đó vẫn được củng cố và phát triển. Là một thanh niên chăm chỉ đạo dức mà lại thông minh, cậu được theo học cả chữ hán lẫn chữ Pháp. Cậu được gửi du học ở trường chủng viện Thánh Giuse ở Penang (Mã Lai), cùng với Nguyễn Hữu Bài, với ý định được huấn luyện để trở thành Linh Mục. Nhưng vì không được ơn gọi làm Linh Mục, cả hai cậu Khả và Bài đều trở về Việt Nam và sau này trở thành thông gia, vì có một quá trình dài học tập và hiểu biết lẫn nhau.
Về nước, vì giỏi về ngoại ngữ, ông Khả và ông Bài đều được tuyển làm thông dịch viên. Làm việc xuất sắc có nhiều kết quả, Khả được trọng dụng và thăng chức rất nhanh. Khi vua Thành Thái mất chức, thì Khả cũng mất chức Phụ Đạo Nam Triều. Gia đình Ngô Đình Khả cư ngụ tại Phú Cam, nơi có một xứ đạo kiên trung của đất Huế.
Ông Ngô Đình Khả có tất cả:
Con cả là Ngô Đình Khôi (1885?-1945) lập gia đình với người con gái của Nguyễn Hữu Bài.
Con thứ hai là Ngô Đình Thục (1897-1985) từng du học tại Rôma năm. Từ 1919-1927 du học Roma: Tiến sĩ Triết học (1922), Tiến sĩ Thần học (1926), Tiến sĩ Giáo luật (1927). Qua Pháp học Đại Học Công Giáo Paris: Cử nhân Triết học (1929). Khi về nước giữ nhiều chức vụ trước khi làm Giám Mục Vĩnh Long, rồi Tổng Giám Mục Huế.
Con thứ ba là Ngô Đình Diệm (1901-1963), từng làm Tuần Vũ Bình Thuận, rồi Thượng Thư Bộ Lại triều Bảo Đại (1932).
Năm 1918 thi vào trường Hậu Bổ, sau 03 năm tốt nghiệp, lần lượt giữ các chức vụ từ Tri huyện Hương Thủy (1922), Tri huyện Quảng Điền (1923), Tri phủ Hải lăng (1925), Quản đạo Ninh Thuận (1927), Tuần vũ Bình Thuận (1930), Thượng Thư Bộ Lại (1933) được hơn 02 tháng thì từ chức…Năm 1945 bị Việt Minh bắt sau nhờ Đức Giám Mục Lê Hữu Từ can thiệp, được trả tự do. Năm 1950 qua Roma rồi qua Hoa Kỳ. Ngày 07-07-1954 về nước chấp chánh giữ chức Thủ Tướng toàn quyền do Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ định.
Sau cuộc “trưng cầu dân ý” tháng 10-1955, dược dân bầu lên làm Quốc Trưởng rồi Tổng Thống tại Miền Nam VN đối lập với chế độ Cộng Sản tại Hà Nội do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ông có công ổn định tình hình, thống nhất quân đội, phát triển kinh tế, mở mang giáo dục, xây dựng dân chủ, v.v…Rất tiếc, ngày 01 tháng 11 năm 1963 ông bị phe quân nhân (theo lệnh Mỹ) làm đảo chính lật đổ và bị thảm sát ngày 02 tháng 11 năm 1963. Biến cố 01-11- 1963 đã dẫn đến sự sụp đổ  của Việt Nam Cộng Hòa ngày 30-04-1975, đưa đất nước vào tay Cộng Sản độc tài!
Con trai thứ tư là Ngô Đình Nhu (1910- 1963).
Con trai thứ năm là Ngô Đình Cẩn (1912- 1964)
Con trai út là Ngô Đình Luyện (1914- 1990), tốt nghiệp kỹ sư công chánh ở Pháp và Anh. Nhiều nhà nghiên cứu lầm lẫn Ngô Đình Cẩn là con trai út
Ông Bà Ngô Đình Khả còn có ba con gái là:
Ngô Thị Giáo, chết sớm năm 1944,
Ngô thị Hoàng, thường gọi là bà Cả Lễ, vì lập gia đình với ông Nguyễn Văn Lễ,
Ngô Thị Hiệp, lập gia đình với ông Nguyễn Văn Ấm, thân phụ của Hy TGM FX Nguyễn Văn Thuận. TGM NVT làm Bộ Trưởng Bộ Công Lý và Hòa Bình tại TT Vatican trước khi tạ thế ngày 16/9/2002, tại Rôma.
Hai gia đình Trần Ngô cũng là thông gia môn đăng hộ đối theo Nho giáo cổ truyền.
Gia Đình họ Trần bên Bà Ngô Đình Nhu (Trần Lệ Xuân)
1. Bà Ngô đình Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân, sinh tại Hà Nội này 24/8/1924, con gái thứ hai của Ông Trần Văn Chương (Luật Sư) và Bà Thân Thị Nam Trân. Ông Bà Trần Văn Chương có ba người con. Con đầu là Trần Thị Lệ Chi. Con thứ ba là Trần Văn Khiêm.
Lệ Chi lập gia đình với ông Nguyễn Hữu Châu (Luật Sư, Tiến Sĩ Luật ở Pháp). Ông này gốc người Gò Công có họ hàng với ông Nguyễn Hữu Hào, thân sinh ra bà Nguyễn Hữu Thị Lan, tức hoàng hậu Nam Phương, kết duyên với vua Bảo Đại. Khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống năm 1956, thì Ông Nguyễn Hữu Châu được bổ nhiệm Bộ Trưởng tại Phủ Tổng Thống. Chỉ mấy tháng sau, chính ông Châu xin từ nhiệm.
Gia đình ông Trần Văn Chương vốn theo Đạo Phật, nhưng từ nhỏ Cô Trần Lệ Xuân đã được gửi học nội trú ở Trường Dòng Nữ Thánh ÂuCơTinh, quen gọi là Couvent des Oiseaux. Một thời gian cô nữ sinh Trần Lệ Xuân có theo học Trường Albert Sarraut ở Hà Nội trong thời gian ông Trần Văn Chương hành nghề Luật Sư ở Hà Nội. Chính mấy năm cuối cùng ở trường này, Trần Lệ Xuân đã phát triển các quan hệ thân tình cụ thể hơn với Ông Ngô Đình Nhu. Sau chính biến 1/11/1963, vô số lời đàm tiếu đổ dồn vào bà Ngô Đình Nhu.
2. Sau này, tại California, Ông Nguyễn Văn Lục lại nghe từ những người trước nay từng có cơ hội gần gũi ông bà Nhu, ông Diệm, Ông Cẩn, ông Thục.
Tác giả đã nói chuyện với sĩ quan tuỳ viên Lê Châu Lộc, sau này là nghị sĩ Lê Châu Lộc. Ông Lộc với bản chất trung thực cho biết, ông biết gì nói nấy, có nói có, không nói không.
Ông cho biết 6 năm làm sĩ quan tuỳ viên cho “ông cụ”, kề cận ông cụ ngày đêm. Trong 6 năm đó chỉ gặp bà Nhu trên dưới 10 lần, vì hai ông bà ở khu bên kia dinh Tổng Thống, ít có tiếp xúc qua lại. Ông không mấy thích bà Nhu vì giọng nói của bà Nhu lai Bắc, lai Trung và tính nết tỏ ra cao ngạo. Nhưng đối với tổng thống Diệm thì bà sợ và cử chỉ e dè, khép nép. Không có cái cảnh muốn ra vào văn phòng ông Diệm lúc nào thì vào. Bà là người có phong cách, lịch sự và đàng hoàng.
Ông Lê Châu Lộc đưa ra hai giai thoại liên quan đến bà Nhu.
Một lần xe của bà Nhu vào Dinh trong khi sắp có xe của một vị tướng Mỹ sắp đến. Ông Lộc đã yêu cầu xe của bà Nhu nhường lối. Bà Nhu vui vẻ nhận lời trong khi người tài xế của bà tỏ vẻ khó chịu. Sau đó bà đã vui vẻ chào.
Một lần nữa, ông Lộc vội vã không kịp chào bà Nhu. Vậy mà việc cũng đến tai “ông cụ”. “Ông cụ” cho biết: Lộc nó là sĩ quan, thì chỉ chào sĩ quan có cấp cao hơn, hà cớ gì lại phải chào bà Nhu.
Những chi tiết nhỏ đó cũng cho thấy có nhiều điều xàm tấu, bôi bẩn mà công việc của chúng ta là cần “làm vệ sinh” tẩy rửa những dư luận xấu xa đó.
Chứng nhân thứ hai là nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh.
Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh là người được chọn chính thức chụp ảnh cho gia đình ông Ngô Đình Diệm trong các buổi lễ chính thức. Vì thế, ông đã nhiều lần ra Huế để chụp ảnh cho gia đình ông Diệm.
Ông đã kể lại một cách sinh động duyên dáng về những nhân vật thời đệ nhất cộng hoà. Nhiều nhà văn, nhà báo đã tham dự và được nghe ông kể về những điều này tại toà soạn báo Nhân Chứng, khoảng năm 1980. Đó là Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Du Tử Lê, Vũ Văn Hà, Thuỵ Châu, v.v…
Theo lời kể của Trần Cao Lĩnh, ông đã hết lời đối với gia đình ông Diệm và đặc biệt là đối với bà Nhu. Bà Nhu là loại người phụ nữ chẳng những có ăn học, có giáo dục. Cử chỉ phong cách quý phái, chừng mực lễ độ trong cư xử. Bà không phải loại người bờm xơm, chớt nhả, dâm đãng, mất nết như những lời bịa đặt của dư luận ác ý.
Tại Huế, chỉ các đàn ông như các ông Diệm, ông Nhu, GM Thục mới được phép ở nhà trên dùng cơm. Bà Nhu chẳng những sợ và khép nép với ông Diệm mà còn cả với Giám mục Ngô Đình Thục. Theo nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bà Nhu không dám tự tiện vào phòng ông Diệm.
Ông Nguyễn Văn Lục muốn viết về vợ chồng ông Nhu, vì ông bà là bị nhiều người hiểu lầm và bực ghét, nhất là bà Ngô Đình Nhu. Nhiều người không ưa bà, khinh ghét bà nữa. Nhiều người bênh ông Diệm, thương mến ông, nhưng vẫn dè dặt khi nói về ông Nhu, bà Nhu. Nhiều người biết rõ và khó quên câu nói phạm thượng và xấc xược của bà khi Hoà thượng Quảng Đức tự thiêu.
Theo ông, khi người ta đã trót quý mến ai rồi, thì khó mà nghĩ khác được. Trước đây, có người đã trót quý mến và kính trọng Nam Phương Hoàng Hậu và nay thì đến lượt ông bà Nhu cũng vậy thôi…
Khoảng cách tuổi khá lớn giữa hai ông bà cũng là nguyên nhân gây nên những lời đồn thổi sau này kể từ sau 1963.

Thực ra ít người có cơ hội tiếp xúc với bà Nhu, hiểu biết và kính trọng nhân cách bà Nhu như ông Trần Cao Lĩnh.
Những người ngưỡng mộ và quý mến bà chẳng bao nhiêu. Sau khi nghe ông Trần Cao Lĩnh kể về bà, có người đề nghị ông nên viết lại về bà Nhu. Vì không ai có đủ tư cách hơn ông để viết. Nhưng rồi ông cũng đã không làm cho đến khi ông lìa đời. Cũng hiểu được, bênh vực một người “mất nết” như bà Nhu nó khó lắm.
Không mấy ai biết bà, nhưng ghét bà, khinh miệt bà thì quá nhiều. Đàn ông ghét đã đành, đàn bà cũng ghét theo. Đến nỗi người ta cố moi ra sự việc từ những năm 1955 khi chưa có Quốc Hội, chưa có Hội Phụ nữ Liên đới hay phụ nữ Bán Quân sự. Vì thế dưới mắt của quần chúng nói chung, thí bà Nhu là một người phụ nữ “mất nết”, ăn mặc hở hang, lố lăng với chiếc áo dài kiểu mới. Phụ nữ chê bai tư cách của bà trong chiếc áo dài kiểu mới, nhưng hầu như giới nữ sinh hay các mệnh phụ phu nhân đều ăn mặc theo kiểu áo dài đó.
Đến độ vào năm 1955, ông Diệm chép miệng than thở: Tội nghiệp, Bà Nhu có làm gì đâu? Dù sau cũng chết, chỉ vì bà là một người đàn bà. Bà lại nay nói quá mạnh, cứng rắn trong quan điểm, lập trường, không nhường nhịn ai, lại có vè “đành hanh” khiến giới mày râu không chịu được.
Có lẽ người ta phải cầu cứu đến những lời bàn của cụ Đoàn Thêm khi nhận xét về bà Nhu.
Cụ Đoàn Thêm cho rằng, dù không làm hay chưa làm việc gì có hại, người đàn bà không thể thừa thế nhà chồng mà xen vào việc chính quyền. Việc bà tham gia vào chính trường, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ý nhị, hiền hậu, của người mẹ và người vợ Việt Nam.
Vẫn theo cụ Đoàn Thêm, nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất, gây thêm nhiều ác cảm với bà là do bà đã xinh đẹp, mà lại muốn tỏ ra cứng cỏi và đánh hanh nữa thì quá lắm, không chịu nổi. Người ta có thể nhẫn nhịn chờ đợi ông Nhu, nhưng đối với bà, bà chỉ xuất đầu lộ diện, thì cũng không được tán thành hay dung thứ.
Nên dù trái hay phải, người đàn bà VN muốn vội sống theo gương người đàn bà tiền phong (avantgarde) Âu Mỹ, kiểu chủ nghĩa nữ quyền, là chưa thể yên thân trên một đất nước mà nhiều người còn ghê sợ những người phụ nữ nhu Võ Hậu hay Từ Hy.
Tâm lý quần chúng như vậy nên nhiều con mắt dễ chú ý đến những sơ hở và lỗi lầm để buộc lỗi gay go. Mỗi lời nói và việc làm của bà đều có nguy cơ trở thành những cơ hội cho dư luận chỉ trích nghiêm ngặt.
Bi kịch của chế độ khởi đầu từ đó. Người ghét cứ ghét, mỗi ngày mỗi đông thêm, như đòn hội chợ do thể chế tam đầu, lại có thêm một người phụ nữ là bà Ngô Đình Nhu.
Khu biệt thự Trần Lệ Xuân (2 Yết Kiêu, Đà Lạt) lộng lẫy rộng trên 13 ngàn mét vuông vừa được nâng cấp trở thành Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia IV. Nơi lưu giữ hơn 30 ngàn mộc bản triều Nguyễn. ( Nguồn: Kho tàng mộc bản trong biệt thự Trần Lệ Xuân/my.opera.com)
Ngay như hơn hai chục nam nữ sinh viên đã tham dự trong phái đoàn Huế đi tham quan dinh Gia Long sau khi hai ông Diệm Nhu bị thảm sát. Họ im lặng đồng lõa với Nguyễn Đắc Xuân. Họ chấp nhận gián tiếp những gì Nguyễn Đắc Xuân dựng lên bôi nhọ bà Nhu. Chỉ yêu cầu một cô nữ sinh viên trong số họ cho biết những điều Nguyễn Đắc Xuân viết là đúng hay sai.Dĩ nhiên là không dám nói sai, ma nói đúng thì đồng lõa bôi nhọ. Thực  ra họ không biết để ma nhớ, mà nói đúng hay sai.
Người ta phải nghĩ thế nào về những sinh viên đã im lặng, không dám lên tiếng về những lời vu cáo của Nguyễn Đắc Xuân?
Người ta có thể tạm quên đi những điều thị phi, những lời khen chê, những lời bôi nhọ dơ bẩn về bà ấy để chỉ nhìn lại kể từ tháng 11/1963 đến nay bà Nhu đã làm gì, nói gì, viết gì, thanh minh cho việc mình làm và đã sống như thế nào?
Kể từ sau tháng 11/1963, bà rút lui vào bóng tối. Không nói, không thanh minh, Cắt đứt mọi giao tiếp với mọi người trước nay từng là những người cộng tác với hai ông Diệm và Nhu. Một vài người đã có dịp gặp bà như các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Châu Lộc, Trương Phú Thứ đều nhận thấy bà sống ẩn dật, im lặng với quá khứ, lo việc từ thiện. Chắc là tâm trạng và nỗi niềm của bà gần 50 năm này đã diễn ra thật phức tạp, đa đoan, nhưng chỉ tập trung vào gia đình và niềm tin phú thác?
Và trong thời gian đó, bà đã sống đúng nhân cách một người phụ nữ? Những năm tháng ấy đã tẩy rửa những điều hàm oan về tiền bạc, con người của bà?
Thực ra bà đã chết cùng với hai anh ông Diệm Nhu, chôn vùi quá khứ, cuộc sống đã sang một trang mới: im lặng Điều ấy mang nhiều ý nghĩa: vửa cay đằng, tủi hận vừa sám hối trong tâm tình của một tín đồ.
Những ai từng kết án bà, thì khó thấy bà là loại người tham tiền cố vị, vô tư cách hay thậm chí trăng hoa, mất nết… Người ta phải thấy một bà Nhu sống buông thả, quen biết lung tung, tai tiếng đủ loại sau 01/11/1963.
Nhưng những kẻ thù oán, chuyên đặt điều nói xấu bà cũng không có được chứng cớ nhỏ nhoi nào, bôi nhọ bà.
Bà sống ẩn dật một thời ở Ý rồi sang Pháp, mua hai căn hộ nhỏ, một để ở và một để cho thuê lấy tiền tiêu xài, ngày ngày đi lễ nhà thờ, lchuyên chú làm việc từ thiện, lấy kinh nguyện làm lẽ sống.
Một con người như thế, chịu đựng biết bao điều sỉ nhục, tệ bạc, phản trắc, hờn ghét của thế thái nhân tình, khi không còn thời để lợi dụng.
Không phải là dễ mà ai cũng bộ lộ nhân cách ấy, chọn lựa lối sống ấy. Mấy ai đã làm được như bà trong những tháng ngày sau 1963, nếu bắt buộc phải sống như vậy?
Người ta nghĩ bà đang viết nhật ký, nhưng có lẽ chỉ là những tâm sự về đạo nghĩa Những điều Trương Phú Thứ đã viết thật là hiếm hoi và phản ảnh cuộc đời im lặng hơn là bận rộn chuyện phù hoa thế sự. Theo ông Lê Châu Lộc bà viết nhiều lắm, nhưng không ai biết gì.
Trong cuộc đời này, suốt những năm làm vợ ông Nhu và nhất là từ khi ông bị ám sát, có thể cùng với lời cố vấn khuyên giải nào đo, bà đã chủ động chỉ lo cho gia đình êm ấm và dồn vào sống ẩn dật trong niềm tin Công giáo.
Ông đã chết từ 02/11/1963 và từ ngày ấy ba cũng chết như một góa phụ. Theo kiểu nói của ông Lục, bà chết đến hai lần: chết cho ông Nhu và nền đệ nhất cộng hoà và chết cho chính mình, cho cuộc sống hiện nay.
Nói đến hai người phụ nữ danh tiếng tài sắc trong lịch sử Việt Nam cận đại là Nam Phương Hoàng hậu và bà Ngô Đình Nhu, người đời không khỏi cám cảnh ngậm ngùi, thương cho hai kiếp người “hồng nhan bạc phận”
Trong niềm giận ghét, ác cảm không tránh được của nhiều người, vẫn có nhiều người trân trọng quý mến ông Diệm, tiếc cho ông Nhu và cám cảnh thương mến bà quả phụ Ngô Đình Nhu. (Tham khảo Website T.S.C.N.  Nguyễn Văn Lục đã dẫn trên)
Ảnh được Bettmann chụp ngày 21/10/1963 tại Washington DC – Mỹ, khi bà Trần Lệ Xuân sang Mỹ và có họp báo với báo giới, truyền hình.
3. Tiếp theo liên hệ đến Trần Lệ Xuân, ông cụ nội tam đại, tính từ bản thân, là cụ Trần Văn Thông, cựu Tổng Đốc tỉnh Nam Định, tuy nguyên quán ở Biên Hòa, đất Gia Định.
Cậu Thông sinh 1875.Cậu Thông thuở nhỏ theo học Trường Chasseloup Laubat, một trường trung học Pháp đầu tiên do người Pháp thiết lập ở Sàigòn. Chính Hoàng Thân Sihanouk của Nam Vang cũng theo học trường này.
Là Bachelier (Tốt nghiệp Trung Học Tú Tài Pháp) Ban Văn Chương cổ điển 1894. Năm 1907-1911, anh làm công chức trong chính quyền Pháp tại Đông Dương, sau ra Hà Nội ông làm Giám Đốc Trường Hành Chính tập sự (Ecoles de Stagiaires) tại Hà Nội. Chỉ ít lâu sau, ông Trần Văn Thông làm Tổng Đốc tỉnh Nam Định (Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình) cho đến 1945. ông Trần Văn Thông còn làm hội viên Hội Đồng Tư Vấn Đông Dương, Hội Đồng Bảo Hộ Bắc Kỳ, được thăng chức Đông Các Đại Học Sĩ Nam Triều.
Ông Bà Trần Văn Thông sinh Trần Văn Chương năm Mậu Tuất (1898). Cậu Chương từ nhỏ theo học bậc tiểu học tại Hà Nội, rồi gia đình cho đi du học 10 năm ở Algérie. Sinh viên Chương được học bổng theo học Trường Luật ở Paris, đậu Tiến Sĩ Luật năm 1922. Năm 1925, Ông Trần Văn Chương trở về Việt Nam, làm việc với tính cách trạng sự tại Tòa Thượng Thẩm Sàigòn đến 1935.
Năm 1938, Luật Sư Trần Văn Chương tham gia Hội Đồng Lý Tài Đông Dương, soạn thảo các Luật dân sự Trung Kỳ lên tới Phó Chủ Tịch Hội Đồng Lý Tài Đông Dương.
Trong thời gian tùng sự tại Huế, Luật Sư Trần Văn Chương lập gia đình với cô Thân Thị Nam Trân, con gái của Đông Các Đại Học Sĩ Thân Trọng Huề.
Làm quan dưới triều vua Khải Định, người vợ kế của Thân Trọng Huề là Công Chúa, con gái của Kiến Thái Vương. Như thế Mẹ của bà Nam Trân là em gái vua Hàm Nghi và Đồng Khánh. Trần Văn Chương trở thành cháu rể vua Hàm Nghi. Hai họ Trần Thông đều môn đăng hộ đối theo nếp nho giáo cổ truyền.
Năm 1940, Luật Sư Trần Văn Chương mở Văn phòng Luật sư tại 71, đại lộ Gambetta Hà Nội. Khi mới về nước, trạng sư (thầy cãi) Trần Văn Chương mở Văn Phòng ở Bạc Liêu, rồi chuyển lên Sàigòn trước khi ra Hà Nội. LS TVChương nổi tiếng nhất về vụ kiện cô Cúc giết Huyện Trương, vì bạc tình. Nhờ LS Chương, cô Cúc chỉ bị án ba năm rồi được trả tự do.
Thời CP Trần Trọng Kim sau ngày Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, LS Chương làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Kiêm Phó Tổng Trưởng Nội Các. Khi CP TTK tan ra, thì ông TVChương sống ẩn dật tại Hà Nội, rồi đem gia đình vào Sài gòn. Sau Hiệp Định Genève 20/7/1954, miền Nam Việt Nam do Bảo Đại nắm quyền, Ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng, thì LS TVC được bổ nhiệm chức Quốc Vụ Khanh Phủ Thủ Tướng. Năm 1956, khi ông Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại, rồi lên thay Bảo Đại làm Tổng Thống VNCH, thì LS TVC được bổ nhiệm Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ cho đến khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ năm 1963. Trong khi TVC làm đại sứ, thì Bà Thân Thị Nam Trân làm quan sát viên VNCH tại LHQ.
Nhiều người nghĩ rằng ảnh hưởng gia đình trị khá mạnh, cộng với những biện pháp mạnh bạo – vì chưa hiểu và chưa muôn hy sinh trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa Công Sản – đối với những người bất đồng chính kiến dẫn đến việc ông bị xem là có phần nào trách nhiệm trong sự sụp đổ của nền Đệ nhất cộng hòa. Nhưng việc chính quyền Mỹ nhu nhược dựa trên phản ứng của dân chúng Mỹ cùng với hoạt động tình báo của Cộng Sản Việt Nam và quốc tế yểm trợ kích động thêm Đặc biệt là những biện pháp được thực hiện trong vụ đàn áp Phật giáo năm 1963 chủ yếu do tình báo chính quyền Mỹ dàn dựng đã dẫn đến một chuỗi dây chuyền phản ứng dữ dội.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, các tướng lĩnh với yểm trợ mua chuộc của Mỹ đã thực hiện cuộc đảo chính quân sự lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Nhu và người anh phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn. Sauk hi đã liên lạc dàn xếp với phe đảo chính, vào ngày 2 tháng 11 năm 1963,hai an hem ông Diệm và ông Nhu bước lên xe tank trong đoàn xe quân sự đến đón hai anh em ông về Bộ Tổng tham mưu. Nhưng chính vì tin tưởng vào lời nới của các tướng lĩnh, khi chiếc thiết giáp M 113 chở hai anh em ông về đến nơi thì phát hiện thi thể của hai anh em ông với nhiều vết dao và dấu đạn trên người. Người ta về sau tìm thấy bằng chứng là chính Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh sát hại hai anh em ong Diệm và Nhu.
II. Sự Nghiệp Chính Trị Của Ông Ngô Đình Nhu
Những người làm việc và tìm hiểu kỹ lưỡng về ông Ngô Đình Nhu đều nhận thấy một điểm son trong cuộc đời chính trị của ông là tuy ông không hể nắm giữ một chức vụ quan trọng của quốc gia, nhưng hầu như cương lĩnh và tồ chức chính trị cơ bản của chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963) đều chủ yếu do ông dàn dựng ở cương vị làm cố vấn chính trị cho Thủ Tướng rồi Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vì thế tìm hiều sự nghiệp của ông, người ta chú trọng nhiều đến những thành tựu chính trị hạ tầng trong việc hình thành các cấu trúc quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa I: chủ nghĩa nhân vị, chính đảng cần lao nhân vị và chính sách ấp chiến lược (khu trù mật, dinh diền, …).
Theo ý kiến ông Minh Võ, ông Cao Xuân Vĩ, dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu.
Ông Cao Xuân Vĩ cho biết liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19/12/1946. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến thì nhóm ông gồm 36 trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, vùng Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi cộng sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị.
Mãi cuối năm 1953, Cao Xuân Vĩ vào Sài Gòn mới gặp lại Trần Chánh Thành và Ông Thành giới thiệu Cao Xuân Vĩ với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn trong số 36 trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại Cao Xuân Vĩ, thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du
Khi làm Cố Vấn, Ông Ngô Đình Nhu chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khỏan nào dành cho ông Cố Vấn.
Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức.

Mộ Ông Ngô Đình Nhu – Binh Duong
Chủ Nghĩa Nhân Vị Thời Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963)
1. Theo GS Tôn Thất Thiện, những khảo sát bổ sung, công phu và nghiêm chỉnh về sau của Ông Nguyễn Ngọc Tấn góp phần làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử 1954-1963, thời gian ông Diệm cầm quyền. Những khảo sát này làm rõ những điểm cơ bản của Chủ Nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa I. Trong 40 năm qua, có những tác giả viết về Chủ Nghĩa Nhân Vị dưới khía cạnh khoa học, nhưng có lẽ chưa đánh giá về tầm quan trọng của nó như là một chủ thuyết chính trị, dù chủ thuyết này trong thực tế đã khai sanh ra chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Đây quả đúng là một vấn đề lịch sử chưa được trình bày một cách có hệ thống trong thế kỷ qua. Chủ thuyết ấy cần được khảo luận, cân nhắc kỹ lưỡng, phê phán công bình, khách quan và bình thản, xác định những tiêu cực và tích cực trong quá trình thực hành để trả lại sự thật chính xác của giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng oanh liệt của dân tộc Việt Nam, nhất là nhân dân sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963).
2. Người ta có thể đặt ra mấy vấn đề chính là:
– Mục đích của Chủ Nghĩa Nhân Vị
– Bản chất Chủ Nghĩa Nhân Vị được hiểu thế nào?
– Chủ Nghĩa Nhân Vị được quan niệm làm cương lĩnh cách mạng quốc gia thế nào và thể hiện bằng các đường lối chính sách nào?
– Về triết học Chủ Nghĩa Nhân Vị có phải là một thuyết ngoại lai hay thế hiện đặc tính văn hoá Việt Nam?
Trả lời các câu hỏi trên là đặt nền tảng để thẩm định phẩm chất lãnh đạo và những đóng góp lịch sử của tổng thống Ngô Đình Diệm trong 9 năm cầm quyền…. Chương khảo luận của tác giả Hoàng Ngọc Tấn “Chủ Nghĩa Nhân Vị, Con Đường Mới, Con Đường Của Tiến Bộ” có nhiều dữ kiện, suy đoán, và phân tích tỉ mỉ, khiến người đọc phải đọc kỹ và nghiền ngẫm, khảo chứng từng chi tiết. Luận đề này đề cập đến một số khía cạnh độc giả cần đặc biệt quan tâm.
Mục Đích Của Chủ Nghĩa Nhân Vị
Trong tình hình chia cắt hai miền Bắc Nam dưới hai chế độ khác nhau vì ý thức hệ khác nhau. Miền Bắc theo ý thức hệ chù nghĩa Cộng Sản, nên miền nam muốn được đầu với chế độ chủ trương đâu tranh giai cấp theo chủ nghĩa Cộng sản, thì miền Nam cũng phải xây dựng xã hội theo một ý thức hệ ưu việt để đối kháng lại. Theo tác giả Nguyễn Đức Cung[23]
Ngày 8/1/1963, trong cuộc nói chuyện với học giới gồm nhiều học giả trí thức, giáo sư đại học, giáo sư trung học và cán bộ tại Trung Tâm Thị Nghè, Ông Ngô Đình Nhu xác định:
“… mình đánh nhau với Cộng Sản, bây giờ Cộng Sản nó đánh mình với một Ý thức hệ, mà chúng ta không có một ý thức hệ cứng rắn, rõ ràng, trong tâm trí chúng ta để đối lại, để có lẽ sống mà đáng Cộng Sản thì chúng ta sẽ bị ý thức hệ Cộng Sản lan tràn lung lạc…”
Ông nói tiếp:
“Muốn phục vụ con người trong xã hội, thì con người đó phải tiến, xã hội đó phải tiến. Nhưng xã hội chỉ tiến được với nhữhng con người ý thức nhiệm vụ. Cho nên, trên nguyên tắc, chúng ta phải nhìn nhận rằng cần phải có một ý thức hệ tiến bộ. Ý thức hệ chúng tôi chủ trương là ý thức hệ Nhân Vị.” (Nguyễn Văn Minh, sđd., t. 421).
Bản Chất Đích Thực Của Chủ Nghĩa Nhân Vị
1. Về bản chất Nhân Vị, theo chính tài liệu ông Diệm giải thích: Về Nhân Vị là gì: Nhân và Vị là hai học thuyết Nho giáo. Nhân 仁 do chữ Nhân 人 và chữ Nhị 二 hợp thành (仁) có nghĩa là lòng thương người, đạo lý làm người; Vị 位 do chữ Nhân 人 và chữ Lập 立 hợp thành (位) có nghĩa là người có cái vị trí của họ, đứng giữa và ngang hàng với Trời và Đất. Hai chữ này kết hợp lại, diễn đạt ý tưởng nói về phẩm giá cao quí của con người và vị trí của con người trong cộng đồng nhân loại và trong vũ trụ. Đó là tương quan chặt chẽ của ba yếu tố vũ trụ (Thiên Địa Nhân) trong triết lý Tam Tài truyền thống của Phương Đông.
Một cách giải thích khác tương tự như trên về Chủ Nghĩa Nhân Vị theo lối phân tích của Lm Bửu Dưỡng:
“ Nhân là người. Vị là thứ bậc. Nhân Vị là tính cách con người sống đầy đủ con người theo thứ bậc của mình. Theo nghĩa đó hai chữ nhân vị đầy đủ hơn chữ personne humaine của Pháp ngữ, vì hai chữ personne humaine nhấn mạnh đến ý nghĩa của chữ nhân mà ít chú trọng tới vị. Cần phải hiểu ý nghĩa đày đủ của hai chữ. Nhân là sống đầy đủ con người. Vị là sống đúng theo thứ bậc của mình trong những tương quan với người khác và vạn vật. Như vậy thì quan niệm về nhân vị tùy thuộc quan niệm về con người và quan niệm các tương quan.”
Theo cách nói của LM Nguyễn Thái, đúng là phải trải qua kinh nghiệm ngàn năm dựng nước, giữ nước và cứu quốc, ông bà tổ tiên Việt Nam mới để lại cho con cháu cái bí quyết thành công qua thành ngữ “Thiên thời địa lợi nhân hòa”. Thành ngữ này dựa trên quan niệm của Khổng Tử lấy ra từ Kinh Dịch diễn tả tương quan hòa đồng biện chứng giữa Trời, Đất và Người, qua lý tưởng Thái Hòa. Được giáo dục bởi nền văn hóa Nho Giáo, hai anh em cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã hệ thống hóa tư tưởng nhân bản nho học lại thành một chủ thuyết lấy tên là “Chủ Nghĩa Nhân Vị”
Trong bài phát biểu mới đây, nhân dịp tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Lm đã phát biểu:
“Sống với Nhân Vị là sống với lòng yêu thương như tổ tiên đã dạy: “Thương người như thể thương thân”.  Chủ Nghĩa Nhân Vị là đạo lý làm người, là sống cho ra cái phẩm giá cao quý của con người. Đó là sống với chữ tâm của “Tiết trực tâm hư”, chữ tâm như cụ Nguyễn Du đã khuyên dạy: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.” Đó là phải biết đặt mình hòa hợp vào đúng vị trí của mình đối với Thiên Chúa [Trời] – Thiên; đối với Tổ Quốc, Quê Hương, Đất Nước – Địa; đối với Nhân Dân, Đồng Bào – Nhân.”
Ông Ngô Đình Nhu giải thích:
“Về tư tưởng Nhân vị có nhiều thứ. Có thứ họ căn cứ vào một tin ngưỡng hữu hình, một tin ngưỡng chắc chắn, căn bản. Có thứ lại nhuốm phần nào vô thức… Ý thức hệ Nhân vị chúng tôi chủ trương nó rất rộng rãi và không cần phải đi sâu vào các đạo giáo… Tất cả các đạo giáo, tất cả các triết lý khác, có thể cùng đi với chúng ta được trong ý thức hệ đó…”
Chủ Nghĩa Nhân Vị là một triết thuyết đề cao địa vị và phẩm giá của con người trong tương quan với vũ trụ, Trời và Đất, với người khác trong xã hội. Chủ nghĩa Nhân Vị cho rằng bản vị con người có một nhân phẩm tối thượng, nên mọi sinh hoạt trên đời đều được tập trung và phải là phương tiện qui hướng đến mục tiêu phục vụ con người. Chủ nghĩa Nhân Vị lấy Con người biết tu thân (vừa tĩnh vừa động) làm nền tảng để giải quyết các mâu thuẫn trong sinh hoạt của con người.
Nguồn Gốc Hình Thành Chủ Nghĩa Nhân Vị VNCH I
Về quá trình hình thành, chắc chắn khi học ở bên Pháp trong thập niên 1930 thanh niên Ngô Đình Nhu đã tiếp xúc với tư tưởng và có thể chính con người năng động của Emmanuel Mounier, nhưng một người sắc sảo như Ngô Đình Nhu không hấp thụ tư tưởng Chủ Nghĩa Nhân Vị một cách thụ động, nô lệ, ngoại lai, mà đã tinh chế cho phù hợp với văn hóa truyền thống Việt Nam. Chủ Nghĩa Nhân Vị của các ông Diệm, ông Nhu không thuần túy là Chủ Nghĩa Nhân Vị của Mounier, là của Công Giáo. Những lời phê bình này có thể chứa đựng một chủ đích chính trị nào đó, hay chưa tìm hiểu thấu đáo về Chủ Nghĩa Nhân Vị.
Trong số những người phê bình theo chủ đích chính trị có những người, theo Nguyễn Ngọc Tấn, như Nguyễn Thái. Trong tác phẩm “Is South Vietnam Viable?”, ông nói rằng ông Nhu đã say mê thuyết dân chủ xã hội dựa trên lòng bác ái và giá trị nhân bản mang danh “Personnalisme” của Emmanuel Mounier, và mối liên hệ của Chủ Nghĩa ấy với xã hội mà ông Nhu cổ võ chẳng có gì là mới mẻ, và “Personnalisme” cũng chẳng có gì xa lạ vì trong một trường phái triết học Pháp trong đó có Emmanuel Mounier và Jacques Maritain để hết mình cổ võ cho nó…
Thưc ra trên đời không có gì mới mẻ, nhưng mới mẻ là cách vận dụng nó có phù hợp vói thời đại không và được thời đại đó chấp nhận không?
Nhà sử học Robert Scigliano, sau khi nghiên cứu chủ nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa I đã ghi lại:
“Chủ Nghĩa Nhân Vị nhấn mạnh đến sự điều hòa những ước vọng vật chất cũng như tinh thần của cá nhân với các nhu cầu của cộng đồng và các nhu cầu chính trị của quốc gia. Nó nhằm tìm kiếm một con đường trung dung giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể mác-xít.”
Mới đây tác giả Jean-François Petit nghiên cứu quá trình hình thanh tư tưởng E. Mounier (1905-1950).  Ông thấy Mounier là một trong những khuôn mặt trí thức Pháp thuộc thế kỷ XX. Theo J.F. Petit, căn cứ vào nhiều tài liệu ông viết, trong suốt quá trình suy tư và hành động, E. Mounier có xu hướng muốn dung hợp nhiều luồng tư tưởng triết học và thần học khác nhau. Mounier chịu tác động tư tưởng triết học từ Descartes, Pascal và Bergson, đồng thời quan điểm thần học từ linh mục Guerry.
Khi học tại Paris, ông tỏ ra thất vọng, vì ông không thành công xác định một nền giáo dục thiên về chủ nghĩa duy tâm và duy lý của Trường Đại Học Sorbonne và một nền thẩn học bị tác động do cuộc khủng hoảng duy tân hiên đại.
Luận đề của ông về triết thuyết thần bí thất bại. Vì thế ông chuyển hướng thiết lập một triết học riêng biệt, tách rời khòi tư tưởng có màu sắc tôn giáo.
Nhưng khi đọc những tư tưởng của Péguy, ông chuyên chú đến các tương quan giữa yếu tố thiêng liêng và yếu tố trần thế. Sau cùng tiếp xúc gặp gỡ Landsberg, ông tỏ ra nhạy cảm thấy người ta phải dấn thân. Xu hướng hiện sinh ấy khiến ông từ chối nền thần học Kitô giáo. Từ đó nảy sinh ra quan niệm triết học về nhân vị và cộng đồng, có hơi hướng tư tưởng Augustin từ thế kỷ thứ tư thuộc Công nguyên.
Paul Ricoeur xem tư tưởng Mounier là dấu ấn triết học chuẩn mực, nhưng không phải là đối tượng nghiên cứu có hệ thống theo giác độ này, mạc dù tư tưởng Mounier có tầm ảnh hưởng lớn lao lên các lãnh vực triết học, thần học, chính trị và sư phạm. Công lao của tác giả J. L. Petit là xác định rõ nguồn gốc tư tưởng Mounier bằng nhiều văn bản chưa được xuất bản.
Theo quan điểm nghiên cứu của E. Miller khi tiếp xúc với nhiều người Việt Nam sau nau 30/4/1975, thì khi Ngô Đình Nhu từ Pháp về lại Đông Dương, ông say mê chủ nghĩa nhân vị, tin tưởng rằng tư tưởng của Mounier có thể vận dụng nhuần nhuyễn vào hoàn cảnh Việt Nam. Sau năm 1945, chủ nghĩa Nhân vị có thể là “con đường thứ ba” để phát triển xã hội là điều Ngô Đình Nhu gắn bó. Trong nhãn quan Ngô Đình Nhu, tư tưởng Mounier bác bỏ cả chủ nghĩa tự do cũng như chủ nghĩa cộng sản là vấn đề chính trị cho Lực lượng thứ Ba do Ngô Đình Diệm đang đề xướng. Ngô Đình Nhu cảm thấy người anh của mình đang lĩnh hội tư tưởng của ông qua việc Ngô Đình Diệm nhận xét và bài viết trong giai đoạn này nhắc đến nhiều chi tiết của thuật ngữ chủ nghĩa Nhân vị.
Những nghiên cứu của E. Miller cũng xác định từ tháng 4 năm 1952, Ngô Đình Nhu phác thảo quan điểm về chủ nghĩa Nhân vị trong bài nói chuyện tại trường Võ Bị Đà Lạt vừa thành lập. Ông thừa nhận rằng khái niệm nhân vị ban đầu là một tư tưởng Công giáo, nhưng nhấn mạnh rằng nó mang tính thích hợp và hữu dụng phổ quát, đặc biệt là cho một đất nước bị chiến tranh tàn phá như Việt Nam.
Phát biểu với một cửa tọa mà đa số là những người không Công giáo có mặt trong cuộc nói chuyện này, ông tuyên bố rằng “… ưu-tư của người Công-giáo cũng chỉ như một tiếng dội đáp lại những nỗi ưu-tư ở tâm-hồn bất-mãn của các ông vậy.” Ông Nhu lập luận rằng, tất cả người Việt Nam thuộc mọi phe phái chính trị và tôn giáo, nên cùng nhau nhất trí bất thần và mãnh liệt” để bảo vệ nhân vị chống lại các thế lực đang đe doạ tiêu diệt nó.
Trong số những người chưa nghiên cứu đầy đủ về Mounier, có thể kể một nhà biên soạn nổi tiếng là ông Nguyễn Gia Kiểng. Gần đây, trong một bài phê phán ông Ngô Đình Diệm, ông viết:
“Nếu dựa trên những gì ông Nhu đã viết về chủ nghĩa nhân vị thì có thể nói là chính ông cũng chỉ hiếu lơ mơ Có lẽ ông đã du nhập chủ nghĩa nhân vị vào Việt Nam vì lý do là lúc đó nó được coi là giải pháp Thiên chúa giáo cho hòa bình Công giáo của thế giới. Nó có tham vọng là một vũ khí tư tưởng chống lại chủ nghĩa cộng sản. Trên thực tế, nó là một bước lùi lớn, gần như một sự đầu hàng, bởi vì nó phủ nhận cá nhân, cốt lõi của dân chủ” .
4. Người ta có thể bác bỏ dễ dàng những luận điểm và nhận định sai lầm nặng nề cùng những phê phán hời hợt trên đây. Căn cứ vào những trích dẫn tuyên bố, phát biểu trực tiếp của các ông Diệm-Nhu, và nhiều khảo luận của học giả Việt Nam có uy tín, người ta chứng minh Chủ Nghĩa Nhân Vị là một lý thuyết chính trị mang một bản sắc dân tộc rõ rệt.
Hơn nữa nhiều học giả như Lương Kim Định, Nghiêm Xuân Hồng và Đinh Văn Khang với biện chứng mạch lạc rõ rệt, khẳng định Chủ Nghĩa Nhân Vị (Tâm linh, Đông phương) của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, bắt nguồn từ nền tảng văn hóa Việt Nam, không thể lầm lẫn với Personalisme của Mounier (Duy tâm Tây phương) được. Không còn nghi ngờ gì nữa, vì  mọi việc đã được sáng tỏ và những nghiên cứu lịch sử cho phép ta kết luận Chủ Nghĩa Nhân Vị do hai ông Diệm-Nhu chủ xướng mang bản chất văn hóa và chính trị Việt Nam.
Theo dẫn chứng của tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn, nhiều tuyên bố của ông Diệm và ông Nhu ở những hoàn cảnh khác nhau có thể minh chứng xác quyết sự thật đó, như:
“Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác gì nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang”
– “Chủ thuyết [Nhân Vị] đặt nền tảng trên quan niệm tôn trọng phẩm giá con người và đẩy mạnh sự phát triển đến mức độ cao nhất. Quan niệm này… ở ngay trong truyền thống dân gian Việt Nam”
– “Tôi phải nói ngay rằng: Chủ Thuyết Nhân Vị của tôi chẳng có dính dáng gì đến cái Nhân Vị Công Giáo đang được giảng dạy bởi các tổ chức Công Giáo tại miền Nam Việt Nam… Hiện nay cái học thuyết nhân vị mà tôi cổ võ là một nền dân chủ đấu tranh trong đó tự do không phải là một món quà của ông già Noel, nhưng mà là kết quả của một cuộc chinh phục bền bỉ và sáng suốt trong đời sống thực tế, không phải trong một khung cảnh lý tưởng, mà trong những điều kiện địa lý chính trị đã được định sẵn“
Như thế, giải pháp Nhân Vị mà ông Diệm và ông Nhu đã cổ võ 40 năm về trước chính là mô hình xã hội dân chủ nhân vị đã được thể nghiệm ở miền Nam từ 1954 đến 1963, có mấy đặc điểm:
– Hoạch định một chính cương thống nhất, lấy chủ nghĩa nhân vị làm nền tảng, phù hợp với văn hóa Việt Nam làm căn bản hướng dẫn cả nước đi lên
– Định hướng dân chủ trên thượng tầng cấu trúc xã hội dân sự
– Vận dụng một nền kinh tế thị trường có điều hòa uyển chuyển của một chính phủ nhắm đến phúc lợi từng cá nhân và cho chung cho cả cộng đồng xã hội.
– Thực hiện có điều tiết dần dần tính công bằng xã hội và nền dân chủ đa nguyên thực sự ở hạ tầng cơ sở qua các chính sách đất đai dinh diền, ấp chiến lược, khu trù mật
-Kiến tạo hòa bình, ổn định, đoàn kết, trong tình trạng thực tế có hoạt động chính trị kết hợp với vũ trang của chế độ Cộng Sản miền Bắc Việt Nam lúc đó.
Chủ nghĩa Nhân Vị chỉ được thể nghiệm trong một thời gian ngắn ở Miền Nam Việt Nam, nhưng xét theo lý thuyết khoa học, Chủ Nghĩa Nhân Vị có một giá trị đóng góp lâu dài và quan trọng vào công cuộc phát triển con người nói chung và đặc biệt tại các quốc gia nghèo đói hiện nay.
Sử gia Henry Fairbanks tóm lược toàn sự thật lịch sử bằng lời lẽ khách quan, trong một bài báo tựa đề “The Enigma of Ngô Đình Diệm”, được đăng trong tờ Commonweal như sau:
“Ông Diệm tìm kiếm và khôi phục lại những giá trị cổ truyền làm nền tảng cho giải pháp canh tân xứ sở trong khi đó những người khác lại đi tìm những học thuyết ngoại lai… Dù sao đi nữa, Ông ta vẫn là một người có cái nhìn sâu sắc về tương lai. Cả thế giới này đều yêu mến các chiến sĩ dũng cảm và ai ai cũng phải nể trọng những kẻ đeo đưổi một lý tưởng cao cả nào đó.  Ông Diệm ao ước thực hiện một nhà nước được xây dựng trên những giá trị cổ truyền tốt đẹp nhất của Á Châu và Tây Phương, những đặc điểm đúng đắn và khả thi nhất để phục vụ quyền lợi chung và tôn trọng nhân phẩm.  Ông Diệm cho rằng Xã Hội Chủ Nghĩa và Tư Bản Chủ Nghĩa đều là những học thuyết cực đoan cần có một hình thức trung gian, một lực lượng đứng giữa, nhằm tổng hợp được những giá trị ưu tú nhất của cả hai để phục vụ cho lợi ích chung: công bằng đối với người này là tự do của kẻ khác, cũng như loại bỏ độc tài toàn chế và tinh thần vô trách nhiệm của Chủ Nghĩa Cá Nhân.”
Sự điên đảo của xã hội hiện nay là thay vì đầu đội Trời, chân đạp đất, tay ôm lấy nhau trong tình người thái hòa thì người ta đảo lộn tất cả!
– Thiên là Trời cũng chẳng còn biết kính trọng nữa, mà:
“Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già.”
“Ông Trời hãy dẹp một bên, để cho nộng hội tiến lên làm Trời!”
– Địa là quê hương, tổ quốc, đất nước, nhưng ngày nay thì:
“Tổ quốc với chẳng tổ cò
Nơi nào no ấm ta dò ta bay”
– Còn Nhân (con người) với nhau thì coi nhau như lang sói, đầy đấu tranh, tham nhũng:
“Thanh cha, thanh mẹ, thanh dì
Hễ có phong bì thì lại thanh-kiu”.
So sánh với thực tại cá nhân và xã hội Việt Nam ngày nay, người ta mới thấy rõ hơn tính ưu việt của Chủ Nghĩa Nhân Vị lấy tương quan Trời Đất Người làm nền tảng xây dựng xã hội con người. Chủ Nghĩa ấy đối kháng rõ rệt với chủ nghĩa độc tài chuyên chính độc đảng toàn trị, không có dân chủ, không tôn trọng con người để xây dựng một xã hội thái hòa giữa Trời Đất và Người.
Không thể gọi chế độ ấy là Cộng Sản đích thực, vì đã hội nhập vào nền kinh tế thị trường tự do và đã chấp nhận tham gia xã hội pháp quyền dân sự, trong khi Đại Khối Cộng Sản từ Phương Tây đã tan rã. Đó là một toan tính ngoan ngạnh, dị hợm, chắp vá đầu Ngô mình Sở, một quái thai nẩy sinh giữa chế độ toàn trị độc đảng mà vẫn muốn sống trong thế giới dân chủ tự do chấp nhận kinh tế thị trường.
Chế độ xã hội ở cả Việt Nam ngày nay (sau 30/4/1975 đến nay) và ở một nửa nước tại Miền Bắc Việt Nam trước kia (1954-1975), người ta mất hướng đi chân chính, vì thiếu một chủ nghĩa nhân bản dân chủ chân chính:
-Chế độ chính trị thì do một đảng chuyên chính độc đoán, toàn trị, dù có phân biệt theo hình thức Tòa Án, Chủ Tịch nước, Thủ Tướng Chính Phủ, Chủ Tịch Quốc Hội, trong đó tất cả đều theo lệnh của Bộ Chính Tri Đáng
-Nền kinh tế thị trường, nhưng những người chủ chốt đều thuộc một đàng chuyên chính. Có phát triển nhưng là một nền kinh tế bất công, giàu sang nhờ đầu tư kinh doanh của các công ty liên doanh ngọai quốc
-Xã hội suy đồi vì nền giáo dục khuôn sáo thiếu suy tư sáng tạo, vì tự do hôn nhân chân, nam nữ tự do giao du, tham nhũng, mãi dâm, xì ke, ma túy, HIV/AID tràn lan, ứng xử gian dối trong tương quan xã hội, các đoàn thể chỉ là phên dậu của một chính đảng được bầu cử theo cách sắo đât trước của một Đảng
Và nhờ đó người ta muốn hiểu rõ và thương mến trân trọng chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Chủ Nghĩa Nhân Vị thời Việt Nam Cộng Hòa trước kia (1954-1963) và ngày nay ở trong cũng như ngoài nước (từ sau 30/4/1975 đến nay) đã và vẫn đang tiếp tục bị các lực lượng thù ghét xuyên tạc và có ý làm sai lệch tư tưởng chính thống thế nào là chủ nghĩa nhân vị.
Từ Chủ Nghĩa Nhân Vị Đến Đảng Cần Lao Nhân Vị
Chủ nghĩa nhân vị chính là nền tảng để xây dựng chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Muốn cho nhà Việt Nam bền vững , ngôi nhà đó cần có một nền tảng vữa chắc để xây những bộ phận khác. Làm việc gì cũng cần có trước có sau một cách hợp tình hợp lý và hài hòa. Bài diễn văn của Ngô Đình Nhu báo trước cho việc thiết lập hệ thống Đảng Cần Lao Nhân Vị để qui tụ, động viên và tổ chức nhân sự trong guồng máy Việt Nam Cộng Hòa.
Trong nghiên cứu E. Miller cũng thấy trật tự đo. Ngô Đình Nhu là một nhà tư tưởng và một nhà chiến lược. Ông thừa biết rằng phong trào của ông cần được tổ chức; tài năng thật sự của ông là thành lập xong, thì phải tổ chức. Chắc chắn ngay từ đầu thập niên 1950, Ngô Đình Nhu đã xây dựng cốt cán của một đảng chính trị mới, với nhóm người chạy khỏi Hà Nội vào khu tự trị Bùi Phát sau ngày 19/12/1946, mà sau này mới xuất hiện công khai với tên gọi Đảng Cần lao Nhân vị;” nhưng thường chỉ gọi là vắn tắt “Cần Lao”.
Lúc đầu, tổ chức Cần Lao hoạt động trong vòng bí mật, và người ta hầu như không biết gì về những năm đầu tiên của nó. Đảng hoạt động theo lối mạng lưới chi bộ, đa số đảng viên được tuyển mộ chỉ biết danh tính của một số ít các đảng viên khác.
Sau năm 1954, đảng này chính thức tồn tại, nhưng đa số những hoạt động của nó vẫn chưa được làm sáng tỏ. Cuối cùng, đảng Cần Lao trở thành bộ phận quan trọng và nổi tiếng nhất trong bộ máy an ninh của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Nhưng trong những năm đầu của đảng, mục đích chính của Ngô Đình Nhu là vận động phong trào ủng hộ cuộc đấu tranh chính trị dân tộc chủ nghĩa mới do Ngô Đình Diệm lãnh đạo.
Việc đặt tên Cần Lao khiến người ta nghĩ chắc chắn Nhu quan tâm đến việc tổ chức lao động (lao động ở đây được hiểu bao gồm cả công nhân và những tá điền nghèo khổ), trong ý thức cạnh tranh với tổ chức lao động kiểu Lê-nin ở miền Bắc khi đó. Tổ chức này cũng có thể liên quan đến một số tư tưởng chỉ đạo phong trào công đoàn Pháp. Ông tán đồng khái niệm công đoàn: công nhân được tổ chức thành nghiệp đoàn hay hiệp hội để bảo đảm quyền lợi của các thành viên không lệ thuộc vào quyền lợi của tư bản. E. Miller chú ý đến khía cạnh đặc biệt này: “Mặc dù Ngô Đình Nhu, trong những bài thuyết trình kín và công khai, thường hướng tới những yếu tố triết lý Nhân vị, nhưng cung cách và bản chất những nỗ lực tổ chức của ông bị những nguyên tắc của phong trào công đoàn ảnh hưởng sâu sắc”
Về Đảng Cần Lao Nhân Vị, theo ông Cao Xuân Vĩ, hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của cộng sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao.
Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale.
Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ úy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất qúy trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký. Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm.
Tổ Chức Đoàn Ngũ Hóa Các Giới
Ngoài hệ thống nội bộ Đảng Cần Lao, trong ý đồ chiến lược đa diện của Ngô Đình Nhu, con có những tổ chức ngoại vị nhằm đoàn ngũ hóa các giới mà hai đoàn thể chính là Thanh Niên Cộng Hòa và Phụ Nữ Liên Đới nhằm thi hành thống nhất các đường lối chính sách theo hướng Chủ Ngjhĩa Nhân Vị. Chủ trương như thể nhưng có nhiều lạm dụng hay khuyết nhược điểm trong các đơn vị địa phương và cá nhân dẫn dần đến mất hướng đi chính thống của chủ nghĩa và sa sút, trong khi có tổ chức Cộng Sản và những thành phần công dân không tán đồng chủ nghĩa nhân vị tiếp sức phá hoại một cách nào đó.
Khi làm Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông Nhu chỉ thị cho anh em đoàn viên phải tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì.
Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đê “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v… thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Ông Cao Xuân Vỹ thật phục sức làm việc của ông Nhu.
Ấp Chiến Lược, Hệ Thống Tổ Chức Hạ Tầng Đa Hiệu Của Xã Hội Nhất Là ở Nông Thôn
Mục tiêu
1/. Ông Nhu quan niêm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược đối phó với xâm nhập và khủng bố của cộng sản mà thôi.
Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang.
Nghiên cứu mới đây theo tác giả Nguyễn Văn Minh trình bày lại công thức tam giác tam túc của quân dân cán chính trong ấp chiến lược.
2/. Chính Ông Ngô Đình Nhu diễn giải tóm lược trong phương trình:
“Tam Túc + Tam Giác = Tam Nhân:
A. Tam Túc là
1- Tự Túc Về Tư Tưởng là tự mình suy luận cân nhắc mà lựa chọn một chính nghĩa để phụng sự và một khi đã chọn rồi thì không còn lay chuyển nữa. Chính nghĩa đó là cuộc cách mạnh chính trị, xã hội, quân sự mà ta đang cụ thể hóa trong các Ấp Chiến Lược. Sau đó ta tự phát huy chính nghĩa trong tâm hồn, tự học tập và tự bồi dưỡng tinh thần của ta, không cần ai thôi thúc.
Tự túc về tinh thần về tư tưởng, thì tất nhiên trong mọi trường hợp khó khăn, ta vẫn vững tâm, hoặc dù có nội loạn ở thủ đô Sài Gòn chăng nữa, thì ta vẫn không bị hoang mang hay bị lung lạc. Tự túc về tư tưởng để phát huy và bành trướng chủ nghĩa. Muốn được như vậy thì phài:
2- Tự Túc Về Tổ Chức Và Tiếp Liệu, là tự ta tìm tòi, phát huy sáng kiến để có nhiều nhân vật lực để hoạt động, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác. Chính phủ chỉ cần giúp ta một số vốn căn bản, dựa vào đó ta tìm cách biến cải thêm để hành động và mở rộng phạm vi hoạt động. Chẳng hạn hiện giờ ta thiếu kẽm gai để làm ấp chiến lược, thì ta cố gắng tìm vật liệu khả dĩ làm tê liệt cơ thể bất cứ ai động đến (như đồng bào Thượng đã làm trên Cao nguyên); hoặc dùng địa danh địa vật để lồng hệ thống bố phòng ấp chiến lược vào trong đó, đỡ cần đào hào hay rào kẽm gai. Muốn thực hiện tự túc về tổ chức, thì cần phải
3- Tự Túc Về Kỹ Thuật là phát huy khả năng chiến đấu, và khai thác, phát triển khả năng của nhân vật lực sẵn có đến tột mức 100%. Ba bộ phận của tam túc có liên hệ mật thiết với nhau; muốn tự túc về tổ chức mà không tự túc về kỹ thuật, thì tổ chức không thành; thiếu tự túc tư tưởng thì tất nhiên sẽ không có tự túc tổ chức và tự túc kỹ thuật. Từ quan niệm tam túc sinh ra quan niệm tam giác.
B.Tam Giác là:
1. Cảnh Giác Về Sức Khỏe (thể xác), nghĩa là không được đau ốm. Do đó ta phải tránh tất cả những việc làm phương hại đến thân xác ta như đau ốm, tứ đổ tường. Bảo đảm sức khỏe thì mới bảo đảm được khả năng làm tròn nhiệm vụ.
2. Cảnh Giác Về Đạo Đức Và Tác Phong Đạo Đức, vì tác phong đạo đức là cốt yếu của cán bộ, thiếu tác phong đạo đức sẽ chi phối tu tưởng, sẽ biến khả năng làm việc thiện ra việc ác, chưa kể việc thất nhân tâm.
3. Cảnh Giác Về Trí Tuệ là phát huy óc sáng tạo, sáng tác khả năng chiến đấu của nhân vật lực sẵn có đến tột độ.
Vậy, không có sức khỏe, đau ốm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến óc sáng tạo và thu hẹp phạm vi hoạt động của đạo đức. Không có óc sáng tạo thì dù có sức khỏe, có đạo đức, cũng không có khả năng bồi bổ vào sự thiếu thốn nhân vật lực, là tình trạng của một nước chậm tiến. Có sức khỏe, có óc sáng tạo, nhưng không có đạo đức thì sức khỏe ấy, óc sang tạo ấy, sẽ phục vụ cho phi nghĩa, không phải cho chính nghĩa…”
3/. Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu.
Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thanh những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu cộng sản.
Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lươc được an tòan trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì cộng sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất.
4/. Về Ấp Chiến Lược chức Chủ Tịch ủy Ban Liên Bộ, theo ông Cao Xuân Vĩ, thì có chức này. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ toạ các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận.
Theo tác giả Nguyễn Đức Cung, người ta đọc thấy ông Nguyễn Bá Cẩn trình bày quan điểm về một vấn đề rất trọng yếu mà ông mệnh danh là Thế Cá Nước và Chiến Tranh Du Kích.  Theo ông, ai cũng biết người dân miền Nam hiền hòa và chỉ muốn an phận sinh sống với mảnh ruộng, luống rau, khu vườn, ao cá của mình. Cho nên, chỉ cần tiêu diệt cán bộ cơ sở Cộng Sản thì người dân sẽ không còn bị khủng bố, không bị bắt buộc tham gia bất cứ điều gì kể cả hoạt động tiêu cực nhất là góp tiền. Vấn đề chỉ là tìm cá bắt ra khỏi nước.
Nhưng thực ra ông Nguyễn Bá Cẩn đã không nhận thức được giá trị của ấp chiến lược, khi tập trung dân vào trong ấp, thỉ tất cả những người ở ngoài ấp chính là những người hoạt động bảo vệ chủ nghĩa Cộng Sản và sinh sống với Cộng Sản. Chúnh vỉ nhiều người miền nam chưa nhận thức được hết những kinh nghiệm về hiểm họa Cộng Sản trong chủ trương “tam cùng” và những điều giải thích về tam túc và tam giác nói trên trong tình thế đấu tranh với Cộng Sản. Chủ trương ấp chiến lược đã từng được áp dụng thành công ở Mã Lai trong việc tách lìa Cộng quân khỏi trà trộn vào trong dân để tốn tại bằng lương thực và khủng bố để được cưỡng bách che chở
Nhưng chính ông mắc mưu tuyên truyền của Cộng Sản, dùng ngôn ngữ của chúng mà cho rằng “đệ nhất Cộng hòa lại làm ngược lại, tức là lùa dân vào Khu trù mật. Và khi Khu trù mật thất bại, thì lùa dân vào Ấp chiến lược. Ðệ nhị Cộng hòa cũng lùa dân vào Ấp Ðời Mới hay Ấp Tân Sinh, đại khái là một biến thể của Ấp chiến lược cũ. Thay vì bắt cá ra khỏi nước, ít tốn kém và không gây thiệt hại cho dân, hai nền Cộng hòa lại làm công việc tát nước. Mà nước là dân. Tát nước tức là di chuyển hàng trăm ngàn nhân dân vào khu trù mật và ấp chiến lược, quá ư tốn kém, quá ư phiền hà, gây vô số thiệt hại cùng xáo trộn đời sống người dân.”
5/. Thật ra, việc tập trung dân lập ấp là một kinh nghiệm lịch sử quý báu của tiền nhân trong lịch sử Việt Nam, lúc có chiến tranh.
Tác giả Nguyễn Đức Cung dẫn chứng kinh nghiệm quản lý người dân tộc thiểu số ở vùng Quảng Ngãi. Theo ông, năm 1863, Nguyễn Tấn cũng đã áp dụng kế sách đó góp phần chận đứng các cuộc tấn công của người Thượng vùng Ðá Vách, Quảng Ngãi.
Ðại Nam Thực Lục có ghi lại như sau:  Mới đặt chức Tiểu phủ sứ ở cơ Tĩnh man tỉnh Quảng Ngãi. Phàm các việc quan hệ đến sự phòng giữ dẹp giặc, thăng cử, chọn thải, lấy lương, gọi lính sát hạch, thì cùng bàn với chánh phó lãnh binh chuyên coi một nha mà tâu hoặc tư.
Lấy người hạt ấy là Nguyễn Tấn lãnh chức ấy. Tấn trước đây thự án sát Thái Nguyên, khi ấy quân thứ Thái Nguyên dần yên, nghe tin bọn ác man hung hăng, dâng sớ xin về bàn bạc để làm, trong 1, 2 năm có thể xong. Vua thấy giặc Man có phần cần cấp hơn, bèn y cho. Ðến đây, chuẩn cho thăng hàm thi độc sung lãnh chức ấy, cấp cho ấn quan phòng bằng ngà.
Tấn dâng bày phương lược: (nói: việc đánh giặc vỗ dân cần làm những việc khẩn cấp trước. Về 3 huyện mạn thượng du, phàm những dân ở linh tinh, tiếp gần với địa phận núi thì, tham chước theo lệ của Lạng Sơn đoàn kết các dân ở cõi ven một hay hai khu, đều đào hào đắp lũy, cổng ngõ cho bền vững. Nếu có lấn vào ruộng đất của ai thì trừ thuế cho.
Còn 1, 2 nhà nghèo, ở riêng một nơi hẻo lánh, thì khuyên người giàu quyên cấp cho dỡ nhà dời về trong khu; còn đất ở thì không cứ là đất công hay đất tư đều cho làm nhà để .Các viên phủ huyện phụ làm việc ấy, liệu nơi nào hơi đông người thì bắt đầu làm ngay, nơi nào điêu háo, thì phái quân đến phòng giữ ngăn chận, dần dần tiếp tục làm, để thư sức dân.
Theo người viết, việc so sánh kinh nghiệm ứng xử với người dân tộc thiểu số ở miền Đông Bắc Việt Nam thế kỷ XIX, rồi được vận dụng tại vùng Quảng Ngãi với nhóm dân tộc Đá Vách và việc khai lập làng ấp như ấp chiến lược và khu trù mật có phần khác biệt. Người dân tộc thiểu số bị phân biệt đối xử so với người dân tộc đa số, nên nguyên nhân chính của những cuộc giấy loạn cướp bóc của người dân tộc thiểu số Đá Vách là giành quyền được đối xử như người đa số.
Từ Trại Định Cư Đến Ấp Chiến Lược, hay Khu Trù M ật, Dinh Điền
Cách đây chung quanh năm 1960, chế độ Cộng Hòa đã được khai sinh cùng với các quốc sách được ban hành chính thức, chủ yếu là ấp chiến lược hay khu trù mật hay dinh điền tùy theo địa phương và thời gian.
Nguồn gốc đầu tiên phát sinh từ việc thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư theo nghị định số 928-NV do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ngày 17/9/1954. Phủ này có tầm quan trọng như một Bộ trong Chính Phủ và ông Ngô Ngọc Đối làm Tổng Úy Trưởng.. Trước ông Nguyễn Ngọc Đối (21/8/1954- 4/12/1954), còn có ông Nguyễn Văn Thoại (từ 10/8/1954 – 21/8/1954), và sau đó là Bs Phạm Văn Huyến (từ 4/12/1954 -17/5/1954), ông Bùi Văn Lương (từ 17.5.1955 về sau) làm Tổng ủy Trưởng.
Thực sự tổng số di dân được phân bố theo tôn giáo như sau: Tin Lành (1.041 người); Phật giáo: (182.817 người); Công giáo: (676.348 người), và khoảng (40.000) người Hoa cũng di cư vào Nam(= 900.206 người). Vì  số di dân Công Giáo chiếm tỷ lệ nhiều đến 70% tổng số di dân từ miền Bắc xuống miền Nam, một Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư được rổ chức bên cạnh Phủ Tổng Ủy Di Cư. Giám Mục Phạm Ngọc Chi được bổ nhiệm điều hành.
Tổng số di dân từ miền Bắc có thể vào miền Nam là 875.478 người. Họ được chuyển đến Sài Gòn, Vũng Tàu hay Nha Trang và nhiều nơi khác tùy ý họ lựa chọn theo cá nhân hay theo các đoàn thể do các linh mục di cư hướng dẫn. Chủ yếu nhiều trại định cư về sau được tổ chức bố trí thành các ấp chiến lược hay khu trù mật hay dinh điền.
Linh mục Cao Văn Luận chú ý đến ý đồ chiến lược của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lúc đó:
Ông (Ngô Đình Diệm) chú ý đặc biệt đến giá trị chiến lược và kinh tế của vùng cao nguyên và đặt kế hoạch đinh cư đồng bào di cư Nghệ Tĩnh Bình tại các vùng Ban Mê Thuột, Tuyên Đức, Đà Lạt, số người di cư được định cư khá sớm tại các trại như Hà Lan A, Hà Lan B, Đức Lập, Bình Giả, Phan Thiết, Tân Bình (Khánh Hòa), Cam Ranh… Tôi (LM Cao Văn Luận) có nghĩ đến cách hòa đồng dân di cư vào dân địa phương, nhưng không có dịp nói ra, và tôi cũng nhận thấy sự khó khăn quá lớn trong việc đó (t. 200) .
Theo ông Trần Vinh, tới ngày 21 tháng 8, mỗi ban ngành đều có đại diện của Phủ Tổng Ủy Di Cư. Phủ Tổng ủy với 3 nhiệm vụ rõ rệt: – Cứu trợ và di chuyển. – Kiểm soát và tiếp cư. – Giúp đỡ định cư.
Về phía tư nhân, ngay từ những ngày đầu, có nhiều đoàn thể cách mạng, hội đoàn Công giáo, Dòng Chúa Cứu Thế, Đại Chủng viện, v.v., lo tổ chức việc tiếp cư tại phi trường Tân Sơn Nhất và bến tầu Sài Gòn.
Mãi đến tháng 8 năm 1954, Giáo hội Công giáo thành lập Ủy Ban Hộ Trợ Định Cư do giám mục Phạm Ngọc Chi phụ trách. Văn phòng HTDC đặt cạnh nhà thờ Huyện Sĩ, Sài Gòn. Ủy ban cử các linh mục tới mỗi trại tạm cư và trại định cư làm đại diện.


Thiện Dzai           
            11.63   Vị tướng cầm đầu đảo chính lật đổ chế độ Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Đại Tướng Dương Văn Minh.    
            01-2.11.63       Thiếu Tướng Đỗ Mậu, Các tướng lãnh Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Lê Văn Tỵ, Văn Thành Cao.       
                        Một số nhân vật: Lê Công Hoàn, Trần Văn Khiêm, Truơng Đình Dzu.     
            10 giờ đêm 27.7.1986  Ông bà Trần Văn Chương chết, có nhiều nghi vấn là Trần Văn Khiêm giết cha mẹ để giành gia tài (?)