Biển và con người

Biển và con người
                                                                         Thái Công Tụng

1.Dẫn nhập
Nói đến nước là phải nghĩ ngay đến biển, đến đại dương. 
Biển có nhiều đặc thù : gió biển khác với gió đất, cát biển khác với cát sông, cá biển khác với cá nước ngọt v.v. . 
Các vùng ven biển chỉ chiếm 20% diện tích Trái Đất nhưng có đến 50% dân cư sống tại đó .Vài ví dụ các thành phố ven biển:
Thượng Hải, Hong Kong nằm sát biển ở Trung Quốc; Marseille, Bordeaux nằm gần biển ở Pháp; Barcelone ở Espagne, NewYork ở Mỹ, Lisbonne ở Portugal đều là những thành phố quan trọng sát biển . 
Đại dương quan trọng vì chứa nhiều tài nguyên (dầu hoả, hơi đốt), vì 90% hàng hoá thương mại trên thế giới là trên biển, vì nguồn lợi hải sản, vì du lịch v.v.  
Đại dương thế giới được chia thành 5 đại dương, chia cắt đất liền thành các lục địa

Trong 5 đại dương thì 
Thái Bình dương lớn nhất, chiếm một diện tích 180 triệu km2, bao phủ 1/3 diện tích trái đất. Nhiều hoạt động núi lửa trên mặt (Indonesia) hoặc dưới nước
Đại Tây dương đứng hạng 2 với 106 triệu km2 , kéo dài từ bắc xuống nam với chiều rộng trung bình 5000km, tiếp nhận nhiều nguồn nước nhạt từ các cửa sông St Laurent, sông Congo, sông Amazone
Ấn độ dương với trên 73 triệu km2, nằm giữa Châu Phi và châu Úc
Hai đại dương còn lại là Bắc Băng dương và Nam Băng dương. Nếu tính theo tỷ số diện tích các đại dương thì Thái Bình dương đã chiếm gần 50%, Đại Tây dương với gần 30% và Ấn độ dương 20%

Nhưng biển cũng rất đa dạng: có biển nằm trong lục địa như biển Caspian, biển Aral, Biển Chết. Những biển này thực ra không thông thương với đại dương nhưng thực chất là những hồ nước mặn. Biển Chết ở Trung Đông là nơi thấp nhất trên bề mặt Trái Đất. Khu vực chứa nước bị hãm kín này có thể coi là một hồ chứa nước có độ mặn cao nhất trên thế giới.
Tỷ trọng của nước biển nằm trong khoảng 1.020 tới 1.030 nghĩa là  nặng hơn nước ngọt Nước biển có độ mặn không đồng đều trên toàn thế giới mặc dù phần lớn có độ mặn nằm trong khoảng từ 3,1% tới 3,8%.
Bờ biển cũng thay đổi vì có chỗ hình vòng cung, có chỗ cạn, chỗ sâu nên có nhiều danh từ địa mạo khác nhau như : vịnh, vũng, phá, eo v.v.
Vịnh (gulf) là phần biển lõm sâu vào đất liền. có kích thước khá lớn. Ví dụ: vịnh Thái Lan, vịnh Bắc Bộ
Vụng (bay) là những vịnh có kích thước không lớn, được bảo vệ chống sóng gió bởi các mõm nhô ra biển.Một số vụng ở Việt Nam: vụng Đà Nẵng, vụng Dung Quất, vụng Qui Nhơn, vụng Văn Phong...
Phá (lagoon) kéo dài dọc theo bờ biển, hoàn toàn tách biệt với biển bằng các doi đất, chỉ trừ vài cửa thông với biển.  Ví dụ : phá Tam Giang ở Thừa Thiên.
Eo biển (détroit, straits là phần biển dài và hẹp nằm ở giữa hai khoảng đất, thường là hai lục địa nối liền hai vùng biển với nhau. Ví dụ: Eo biển Bering nối liền Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương, phân cách Châu Á và Bắc MỹEo biển Gibraltar nối Địa Trung Hải với Đại Tây Dương, phân cách Châu Âu và Châu PhiEo biển Malacca nối Biển Đông với Ấn Độ Dương.
Sông ngòi thông ra với biển qua các cửa biển; ở Viet Nam, ta có Cửa Lò, Cửa Tùng, Cửa Việt, cửa Đại v.v.:

Biển bao la trên Trái Đất nên cũng là nguồn cảm hứng cho nhà văn, nhà thơ .
Thi bá Nguyễn Du có nói về biển ngay đầu tập thơ Kim Vân Kiều:
Trãi qua một cuộc biển dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Biển dâu, dâu biển cũng còn trong câu :
Cơ trời dâu bể đa đoan
Một nhà để chị riêng oan một mình

Dưới mắt của nhà thơ Nguyễn Khắc Hoạch, bút hiệu Trần Hồng Châu thì:

Biển là mây gió
Biển là Tự do không bờ bến

Biển là huynh đệ lòng người
Biển cũng có những bát ngát tư duy
................................................................................
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời – Trần Hồng Châu)

Biển cũng là nguồn cảm xúc của nhiều  nhạc sĩ :
Ngày mai em đi biển nhớ tên em gọi về Gọi hồn liễu rũ lê thê Gọi bờ cát trắng đêm khuya
Ngày mai em đi biển nhớ em quay về nguồn gọi trùng dương gió ngập hồn v.v.
cũng như nỗi nhớ ray rứt:
Có kẻ nghe mưa, trạnh mối sầu
Vắt tay chờ mộng, suốt đêm thâu
Gió từ sông lại, mưa từ biển
Không biết người yêu nay ở đâu (thơ Đinh Hùng)
Lời mẹ ru con buồn xa vắng hay lời hát quan họ Bắc Ninh cũng nhắc đến biển: Đêm qua chớp bể mưa nguồn, Hởi người tri kỷ có buồn hay không, Cá buồn cá lội tung tăng, Người buồn người biết đãi đằng cùng ai, Ngày qua chung bóng chung hơi, Bây giờ kẻ ngược người xuôi mặc lòng.
Biển có một vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ sinh thái trái đất.
Biển điều hòa khí hậu và điều tiết các quy trình tái tạo các yếu tố thiết yếu của sự sống (các-bon, o-xy…), cung cấp nguồn tài nguyên và phục vụ cho cuộc sống của con người.

2.Vai trò của đại dương
2.1. cung cấp.
Đại dương cung cấp cho loài người nhiều thức ăn hải sản như cá, mực, nghêu, ngao.. , Rong biển là nguồn nhiều  dược thảo.
Nhiều xứ ở Phi Châu ven biển (Mauritanie, Sénégal, Cote d’Ivoire ..) đang coi cá và hải sản là nguồn dinh dưỡng chính của họ. Đại dương tạo công ăn việc làm cho bao ngành nghề khác nhau và hải sản như tôm, cá là loại thực phẩm được buôn bán lớn nhất.
Các thềm lục địa ven biển là nơi có nhiều phiêu sinh vật cả thực vật lẫn động vật; nhờ nguồn thức ăn này nên tài nguyên hải sản vừa đa dạng, vừa phong phú : gần 2 000 loài cá biển, hơn 200 loài tôm biển, vài chục loài mực, chưa kể vài loài rùa biển, rắn biển cũng như các hải sản có tiềm năng xuất cảng lớn : rong câu, sò điệp, hải sâm, tôm v.v.  
2.1.1. Các loài cá biển . Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực LHQ (FAO) cho biết, tổng sản lượng đánh bắt cá toàn thế giới năm 2008 đạt hơn 141 triệu tấn, trong đó đánh bắt cá tự nhiên đạt 90 triệu tấn, nuôi trồng thủy sản đạt 51,6 triệu tấn.
Cá biển rất đa dạng về chủng loại, hình thái, kích thước, điều kiện sinh thái, sinh trưởng, sinh sản và khác nhau về giá trị kinh tế:

-theo chiều dọc, có thể phân loại:
cá nổi, cá tầng giữa như cá đé (Ilisha elongata) là một loại cá nhiều ở vịnh Bắc Bộ được liệt vào hạng cá tứ quý ở vùng biển phía bắc Việt Nam: cá chim, cá thu, cá nhụ, cá đé.
.cá tầng gần đáy và cá đáy; cá đáy cũng còn bao hàm luôn các loài cá khai thác được bằng lưới kéo đáy như cá hồng còn có tên khác là cá hanh, cá mối .

-theo chiều ngang, cá phân chia thành:
cá cửa sông, cá ven bờ (như cá trích, cá cơm, cá đé, cá nục..)
.cá đại dương (cá thu, cá ngừ, cá chuồn, cá bạc má, cá nhám..) .

Tuy có hàng ngàn loài cá thuộc khoảng 200 họ nhưng chỉ có chừng 100 loài là có giá trị kinh tế. Cá đại dương có giá trị kinh tế ở biển Đông là cá thu, cá ngừ, cá mòi và vô số loài cá khác; nhiều loại cá chuyên sống ở đáy biển như cá hồng, cá mú, cá đuối, cá kẽm
Cá cơm (Anchoviella) là cá cỡ nhỏ chủ yếu làm nước mắm, cá dưa (Muraenesox) thuờng gặp khắp vùng bờ biển Việt Nam .
Cá hồng (Lutianus erythropterus) cũng là một loài cá kinh tế thường dùng ăn tươi
Cá khế ( thuộc họ Carangidae) gồm nhiều loài có giá trị kinh tế như cá nục (Decapterus)
Cá mòi (Clupanodon) là cá tầng trên ở các vùng nước ven bờ biển; trước kia Việt Nam có nhiều nhưng nguồn lợi này bị giảm sút nặng do đánh cá quá mức khi cá đi đẻ..Cá mòi được gợi lại trong ca dao sau đây :
Tiếng đồn con gái Phú Yên
Đồng Nai đi cưới, một thiên mắm mòi
Chẳng tin giở hộp ra coi
Rau răm ở dưới, mắm mòi ở trên
Cá mú ( thuộc họ Serranidae) gồm nhiều loài . Phần lớn các loài thuộc họ Cá Mú đều có giá trị kinh tế; các loài này thường sống trong các rạn san hô và rạn đá.
Cá ngừ ( thuộc họ Thunnidae) bề ngoài gần giống cá thu, ở Nhật Bản dùng ăn tươi với món gỏi cá ngừ sashimi . Cá ngừ ngâm dầu, đóng hộp, có khi xông khói

Cá nục (Decapterus) thuộc họ Cá Khế (Carangidae) có vài loài có giá trị kinh tế ở Việt Nam như cá nục sò (Decapterus maruadsi) và cá nục đỏ (Decapterus kurroides), phân bố chủ yếu miền Trung .
Cá  thu  (mackerel) là tên gọi chung chỉ một nhóm cá biển có nhiều loai như  : cá thu ảo (Scomberomorus commersoni), cá thu sọc (Rastrelliger brachyosoma), cá thu bạc má (Rastrelliger kanagurta). Thịt cá thu ngon nên được xếp vào hàng  tứ quý :chim, thu, nhụ, đé .

Cá chuồn (họ Exocoetidae) tập trung nhiều biển miền Trung; cá chuồn có thể bay trong không khí, mỗi lần bay chỉ kéo vài chục giây trên vài chục mét Tuy có hàng ngàn loài cá thuộc khoảng 200 họ nhưng chỉ có chừng 100 loài là có giá trị kinh tế như cá mú, cá chim, cá chình, cá chuồn;  cá chuồn là loại cá nổi, thân nhỏ, ít thịt nhiều xương với hai vây lưng rất to. Loài cá này chỉ xuất hiện rộ vào mùa biển lặng từ tháng hai âm lịch. Cá chuồn có thể chế biến được nhiều món và dành làm thực phẩm cho mùa mưa gió. Ở xứ Quảng có câu ca:


Ai về nhắn với bạn nguồn
Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên.
Mít non nấu canh cá chuồn là món ăn dân dã, mộc mạc đã gắn bó bao đời nay với người dân xứ Quảng, như một mối tình gắn bó keo sơn giữa rừng với biển - mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên
cá trích (Clupeidae) thường được khai thác bằng kết hợp ánh sáng và lưới kéo, ban đ êm thường nổi lên mặt, ban ngày ở lớp gần đáy
cá mú (Serranidae) sống chủ yếu vùng rạn đá và rạn san hô nên cá này khó đánh bắt bằng lưới kéo đáy . Loài cá được ưa chuộng nhất trong các loài cá biển vì thịt trắng, ngon, dai
cá ngừ vây vàng (tuna) dùng làm món ăn sushi, sashimi
Ngoài cá biển, còn gặp thêm:
2.1.2. các loài thân giáp (Crustacea) như  cua biển, tôm hùm (homard), tôm rồng (langouste)
Rủ nhau xuống biển mò cua
Đem về hái quả mơ chua trên rừng
Dĩ nhiên, tài nguyên biển Đông phải kể thêm tôm vì tôm là một sản phẩm được xuất cảng nhiều nhất trong các hải sản. Ngoài đánh bắt ở biển, hiện nay nghề nuôi tôm bằng giống tự nhiên và giống nhân tạo đang được phát triển.Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii ) tuy là tôm nước ngọt, nhưng vào mùa sinh sản, tôm này phải di chuyển đến vùng cửa sông, vùng nước lợ để đẻ; hiện nay, tôm càng xanh đã có  trại sản xuất tôm giống và nuôi tôm thịt xuất cảng.
Cua biển (Scylla serrata) là loài cua sống ở biển cạn có thể bơi lên mặt nước hoặc bò ở đáy tìm thức ăn. Người ta khai thác cua biển  bằng nơm, lờ, bẫy có mồi; hiện một vài nơi ở Việt Nam đã có thể nuôi cua biển trong các đầm nước lợ, vùng hạ triều, nuôi đơn hay ghép với cá măng (Chanos chanos). Thịt cua biển rất ngon và ngon nhất phải kể đến cua gạch.
Ngoài cua biển, còn có còng (Ocypoda), cáy (Uca), rạm (Sesarma), ghẹ. Ghẹ là tên chung chỉ một số thuộc họ Cua bơi (Portunidae) ở biển, có 10 chân. Thịt thơm ngon, các phế thải được dùng làm bột thức ăn chăn nuôi. Ở dưới biển, ghẹ lao nhanh như tên bắn nên bắt ghẹ khó.
Ngoài biển, phía gần bờ còn có con ruốc, còn gọi là tép biển Aceteschi Tôm biển cỡ nhỏ, họ Sergestidae, bộ Thân giáp mười chân (Decapoda). Ruốc sống thành đàn lớn chứa nhiều protein

http://images.tuoitre.vn/tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=689530


2.1.3 các loài thân mềm (Mollusque) có các đặc điểm như cơ thể mềm, không xương sống,có thể có vỏ đá vôi che chở và nâng đỡ như traiốchếnngao..
Trong các loài ngành Thân Mềm, ta phân biệt:
-các loài thuộc lớp Chân đầu (Cephalopoda), bao gồm phần lớn các động vật sống trong biển với đặc trưng là cơ thể đối xứng, phần đầu nổi bật, và có nhiều tua được phát triển từ chân của các động vật thân mềm nguyên thủy như mực (cuttlefish, squid, octopus) mực ốngbạch tuộc, và mực nang
-các loài thuộc lớp Chân bụng (Gasteropoda) như ốc ( ốc giấm, ốc nón, ốc gai , ốc mỡ, ốc giác, ốc bàn tay, ốc móng tay, ốc đỏ )  ngao, sò .. sống cửa sông, bãi bùn, bãi triều ..


oc-long-1-jpg_1368767033[1332088530].jpg

                        Ốc lông xấu xí nhưng thịt ốc thì rất ngon. Ảnh: T.T.



thông qua   tổng thể các giải pháp hợp lý nhằm phát triển bền vững, vừa đạt được mục tiêu bảo tồn cho các thế hệ kế tiếp, vừa đạt được mục tiêu nhu cầu cho các thế hệ hôm nay.


                                                  Thái Công Tụng