Khổ và Cứu khổ

GS Nguyễn Đăng Trúc

Nhận thức về Khổ và giải pháp cứu khổ của triết học và văn minh hiện đại

Từ thế kỷ 19, sau Kant, người ta không muốn triết học chỉ là một mớ kiến thức vu vơ, một trò chơi luận lý sách vở không ăn nhập gì với thân phận con người trong thời gian và biến hóa của lịch sử.
Khám phá ra thân phận mình gắn bó với thực tế và thời gian, thì đồng thời triết học đối diện với vấn đề đau khổ, cứu khổ và tự do, giải phóng.



Hai tác giả ý thức sâu xa về thân phận con người gắn bó với thời gian thì cũng là hai triết gia đã đề nghị những giải pháp táo bạo được thực hiện trong thế kỷ 20: Hegel và Nietzsche (Hãy xem ảnh hưởng của Hegel trên chủ nghĩa cộng sản, và Nietzsche trên chủ trương thác loạn hạ cấp ngày nay).
Hegel muốn khai thác chiều kích lịch sử nơi Kytô giáo để đưa ý niệm thời gian vào triết học. Nietzsche thì muốn quay trở lại thời bi kịch Hy Lạp để đánh đổ giấc mơ duy lý cổ truyền. Nhưng cả hai đã không thoát khỏi tiền đề sâu kín tạo nên giấc mơ triết học, nên tráo ngược nội dung Kytô giáo và tư tưởng bi kịch của Hy Lạp.
Tiền đề đó là ý muốn nguyên sơ đồng hóa con người và tuyệt đối. Nên tất cả nỗ lực khám phá những dữ kiện đa biệt trong các công trình triết học của hai vị cũng gói gọn trong cái bọc vô hình là cái Ngã độc tôn, dẫu mang nhiều danh hiệu như siêu nhân (surhomme) hayNhân loại (Humanité) hoặc Tinh thần (Esprit).
Hegel đã chuyển Đức Giêsu Kitô, một con người lịch sử, duy nhất, độc đáo thành hình ảnh tượng trưng và lấy ý niệm trừu tượng về một nhân loại theo ý ông làm thực tại. Thực ra, khi mang lấy thân phận con người với thời gian tính, khổ nạn cùng cực của Đức Giêsu Kitô được gói gọn trong câu: "Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài đã bỏ rơi tôi?"(Mc. 15,  34). Thời gian gắn liền với đau khổ trong Kitô giáo là sự xa cách giữa con người cụ thể và Thiên Chúa Ngôi vị, và giữa những con người với nhau. Khổ đau nơi Hegel là sự chối bỏ một phần của mình để tự mình làm cho mình triển nở. Đây là biện chứng của tư duy, nhưng cũng chính biện chứng đó tạo nên thời gian và lịch sử. Biện chứng được nới rộng, để rồi dong dài đi đến những cảnh đấu tranh, triệt hạ, dẫu bi thương nhưng là cần thiết cho ý niệm Tinh thần và Nhân loại. Marx có xoay ngược vị thế giữa tinh thần và thiên nhiên, thì cũng không khác Hegel trong lối luận chứng gọi là biện chứng pháp về lịch sử vắng bóng người cụ thể. Còn Nietzsche thì quay lại bi kịch của Hy Lạp và khai thác tối đa câu nói này của Héraclite :
Thời gian là một đứa trẻ đùa chơi: vương quốc của một trẻ thơ!  
                                                                                               (Câu. 52)
Thực ra, câu nói này đầy ẩn ý, nếu không nói là bi thương khi nhìn những cuộc chém giết của con người nhân danh những tiêu chuẩn tương đối, bất tất của lịch sử. Hơn nữa câu nói này không thể nằm ngoài nhận định sau đây của Héraclite:
Logos (Nghĩa tối hậu), con người ta không bao giờ hiểu được, dẫu chưa từng nghe hay đã được nghe qua   (Câu 1)
                                                                    
Và chính sự xa cách giữa Nghĩa tối hậu, Lời Nguyên Thủy và thân phận con người sống trong thời gian mới là  thảm kịch cốt lõi tạo nên các bản bi kịch Hy Lạp.
Qua bi kịch tiêu biểu của Sophocle "Oedipe làm  vua", ta thấy cô động cảm thức của nền văn hóa Hy Lạp tiền Socrate về thân phận con người gắn bó với thời gian. Oedipe là thân phận con người tại thế, bước chân vào đời thì như mang vào mình án giết cha (Laios) mà mình không hay biết. Tương giao đứt đoạn với Nguồn Gốc đã đẩy Oedipe đi tìm vu vơ qua sự hiểu biết, phân biệt ngày đêm, qua sự chế ngự kẻ khác, qua việc đào xới thiên nhiên, ăn nằm với chính mẹ mình (Jocaste) không khác gì như định mệnh muốn Oedipe thay cha để tạo một nhân loại mới, một nhân loại loạn luân. Khi nhờ người mù Térésias nói cho hay về quá khứ, lý lịch của mình, thì Oedipe cũng không thể làm gì hơn là ý thức thân phận mù lòa trước chân lý và lưu lạc xa Quê, xa Nhà  của con người tại thế. Thời gian làm con người khổ vì nó là bức tường ngăn cách, là duyên cớ tạo nên lầm lạc, và con người không trông chờ gì nơi nó để tự cứu.
Với một lối diễn tả khác, trong vở bi kịch "Prométhée bị trói", văn hào Eschyle cho thấy nỗ lực tự cứu bằng tài năng của con người cũng chỉ là việc làm vô vọng trong việc truy tìm chân lý. Tài năng biến chế đồ vật, sự hiểu biết của con người chỉ là những giải pháp giúp con người sống tạm, quên đi nỗi hãi hùng của sự chết, vốn là một sự kiện không chịu nổi giữa ước mơ vô tận và thực tế của kiếp người trong thời gian hữu hạn. Prométhée, vị thần duy nhất của thiên cung muốn nối kết Cronos và Zéus, thời gian và tuyệt đối, để cứu con người khỏi trầm luân âm giới bằng cách:
Ta đã làm cho con người hay chết quên mình phải chết
- Ta đã đưa vào hồn nó những ước mơ mù quáng
- Ta còn làm hơn nữa: ta cho chúng lửa
- Từ lửa đó học được đủ tài nghệ   (v. 248-260)       
                                                                                            
Nhưng nhân vi ảo ảnh đó là vô chân, chỉ đưa đến tai họa ngàn đời cho Prométhée.
Giải pháp của văn hóa Hy Lạp là một mặt ý thức thảm trạng của kiếp người, mặt khác là nỗ lực xây dựng cuộc sống trật tự, dẫu tương đối nhưng cần thiết, vì đó là sự khôn ngoan duy nhất còn lại .
Nietzsche am tường những nội dung này, nhưng giải pháp của Nietzsche là chọn thái độ quá lạm của Prométhée phản kháng, bất chấp chân lý. Từ cảm nhận thời gian, lịch sử, con người, theo thân phận và phán đoán hữu hạn của mình như một trò đùa trẻ con, Nietzsche quyết tâm đưa phán đoán hữu hạn ấy này thành một chân lý tuyệt đối do chính mình làm ra để thể hiện ý chí quyền lực của mình. Nay không  phải thời gian được nói ví von là một trò đùa trẻ thơ, nhưng toàn khối trời, đất, thần, người là một trò đùa. Nói cách khác, từ khổ đau của kiếp người, ta tạo một trời mới đất mới theo ý ta, do quyền lực của ta, và đó là tự do và giải phóng. Ngay từ cuốn đầu tay "Sự khai sinh của bi kịch" năm 1871, Nietzsche đã viết:
Để có thể chịu đựng nổi cuộc sống, người Hy Lạp vì quá cần thiết đã tạo ra thần thánh [1].
Sự vô độ đã được khai mở ra như là chân lý; nói cho đúng, sự mâu thuẫn này, sự khoái chí này phát sinh từ nỗi đau đớn, gióng lên một tiếng nói, dường như phát xuất từ thâm cung của chính  bản tính tự nhiên [2].
Cũng vì nhận thức thảm trạng thực tế của kiếp người một cách sâu xa đồng thời với một giải pháp phản kháng mù quáng, cùng cực và bất chấp chân lý mà Nietzsche mang hai bộ mặt vừa tiên tri và vừa là ác qủi.
Tóm kết lại, sấm ngôn của triết học Tây phương "Người ơi, hãy biết mình" được Socrate nêu lên đã mãi chỉ được hiểu là  "Người ơi hãy tự mình chỉ biết lấy mình",  để nỗi khổ tự căn của con người là thiếu vắng một ai đã trở thành nỗi bực tức chính mình một cách điên cuồng và vô vọng.
Khổ trong truyện Kiều
Hầu như đồng thời với Hegel và Nietzsche, và cùng sống những cảnh đổi thay lịch sử, Nguyễn Du, qua truyện Kiều, đã giúp chúng ta hiểu được tâm thức của tiên sinh, và hẳn đó cũng là tâm thức của người Việt Nam đương thời, về cuộc đời và phản ứng trước khổ đau của hiện sinh.
Mở đầu câu truyện tác giả cho thấy cuộc đời là một trường chiến đấu, giữa tài và mệnh.
Qua câu nói tổng quát này, cần hiểu là nhân vật Kiều là chính mỗi một con người chúng ta, vượt lên biên giới của bất cứ thời kỳ lịch sử nào. Nếu câu truyện có mượn khung cảnh lịch sử xã hội thời nào đó, thì phải xem là một kỹ thuật văn chương. Hơn nữa, những tên gọi như Kiều, Thúc Sinh, Từ Hải, Giác Duyên... đều mang một ý nghĩa tượng trưng, chuyên chở những ý niệm văn hóa vượt thời gian lịch sử (không khác gì trong Tây Du Ký của văn học Trung Hoa với các tên gọi Tề Thiên, Trư Bát Giái, Sa Tăng…).
Muốn hiểu được khung cảnh của Khổ trong Kiều, không thể bỏ qua việc phân tích chữTài và Mệnh.
Trước hết theo chính nghĩa đen của truyện Kiều, tài được kể là những gì xã hội con người xem là giỏi, hay, đẹp: Kiều mặt đẹp, văn hay, đàn giỏi.
Dẫu không quá hấp tấp để đồng hóa chữ tài với thế giới nhân vi, giả ảo, xa Đạo tự nhiên trong tư tưởng Lão Trang, hoặc với thế giới sắc sắc, không không do nghiệp (karma) là ước muốn, bàn tay con người làm ra, theo ngôn ngữ nhà Phật, nhưng người đọc cũng có thể nhận ra rằng trong sự thâu hóa nhuần nhuyễn các nội dung của Tam giáo, người Việt Nam ta cũng có một ý niệm về chữ tài không xa với các ý nghĩa đó.
Nếu đọc bản văn, ta sẽ thấy chữ tài không những là một số tài năng của Kiều, mà còn là những giải pháp tưởng chừng như cứu Kiều khỏi số mệnh long đong của mình: như lòng trắc ẩn và những xoay xở của Thúc Sinh, lòng hào hiệp, quảng đại của Từ Hải anh hùng... Do đó có thể đi đến định nghĩa chữ tài là tất cả những gì phát xuất từ con người, việc đánh giá, nỗ lực giải phóng...Và chữ mệnh, là nguồn cơ từ  đâu đến con người không thể suy biết được.Chữ mệnh trong Kiều lại gắn bó với hai chữ khác: đó là Duyên và Tâm.
Theo đúng ý nghĩa câu truyện, duyên thì không phải là sự ngẫu nhiên, bất ngờ mà thôi, nhưng là việc làm của Bề Trên mà con người hữu hạn không thể lý hội được.
Chữ Tâm cũng không phải là cảm tình, ý muốn, chủ định phát xuất từ con người, nhưng là cái bên trong ẩn kín, điều mà Kinh Thư gọi là  "Đạo Tâm duy vi", kín đáo ở với con người nhưng không đồng hóa với suy tư  và việc làm con người.
Như thế phải khẳng định rằng chữ mệnh của Kiều không liên quan đến thuyết định mệnh của các trường phái khắc kỷ Tây phương như nhiều nhà phê bình văn học gán ghép. Theo trường phái khắc kỷ Tây phương, định mệnh là vòng quay hữu lý, máy móc của vũ trụ, bất chấp ước muốn con người; nhưng nhờ đồng hóa với lý trí của vũ trụ, con người có thể dùng ý chí và lý trí của mình để tự giải  thoát. Trong cuốn VIII, Epictète khuyên:
Ngươi đừng đòi sự thể ở đời xảy ra theo như ngươi ước muốn, nhưng hãy ao ước chúng xảy ra như thực trạng chúng xảy ra, thì ngươi sẽ luôn mãi hạnh phúc
Kiều là thân phận con người, con người gắn bó với nghiệp của mình là mang lấy "thân".
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân   (3241-3242)
Chữ "thân"  này gói ghém tất cả những đặc tính của thời gian. Thời gian, thế giới người đó là thung lũng nước mắt, mà con người cảm nhận qua những nố bất tương phùng giữa ước muốn và thực tế, giữa những thay thay đổi đổi gây nhiều thương đau hơn là đem lại thành quả vui vẻ. Nguyên do gây nên khổ không những không giải thích được, như vô cớ gia đình họ Vương lâm nạn, mà còn nằm trong những việc làm của con người, tốt cũng như xấu theo mẫu mực định giá của nó. Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Bạc Bà... đã gây ra khổ cho Kiều vì ác độc, nhưng nỗ lực cứu Kiều khỏi khổ của Thúc Sinh, những cố gắng của nếp sống thoát tục nơi Quan Âm Các, những cử chỉ hào hiệp của Từ Hải cũng không cứu Kiều khỏi căn khổ nơithân.
Nếu Nguyễn Du  không tiền cảm ba mẫu mực văn hóa con người – homo sapiens (Tề Thiên), homo ludens (Trư  Bát Giới) homo faber (Sa Tăng) - trên đường tìm chân lý cứu thoát như trong truyện Tây Du Ký của Trung Hoa, thì thi sĩ này cũng cho thấy khá nhiều những giải pháp cứu khổ mà lịch sử con người và nhân loại đề nghị:
Thúc Sinh và những tình cảm hết sức là thông thường của con người, những khôn ngoan xoay xở tùy lúc, sự tốt lành bình dị của cuộc sống hằng ngày.
Quan Âm Các, Phật đường - "giữ chùa, tụng kinh" Con đường khổ hạnh, quên lãng.
Tạm qui ngũ giới cho nàng xuất gia
Áo xanh đổi lấy cà sa . . .       (1920-21)
Từ Hải, lòng hào hiệp muốn cứu  đời bằng bạo lực gươm đao, cách mạng:
- Anh hùng đoán giữa trần ai mới già     (2202)
- Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương
  Trông với trời bể mênh mang
  Thanh gươm yên ngựa lên đàng thẳng rong   (2214-16) 
                                                                                                                                                                                        
- Bằng nay bốn bể không nhà      (2225)
- Dọc ngang nào biết trên đầu có ai     (2472)
- Ngẫm từ đấy việc binh đao
  Đống xương vô định đã cao bằng đầu  (2492-94)
                                                               
Những giải pháp đưa ra đó có hay đấy, nhưng tạm bợ và giả tạo làm sao:
Rằng hay thì thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào    (489-490)
hoặc:
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai?   (1246-47)
Phải chăng như giấc mộng đã cho hay:
Rì rằng: nhân quả dở dang
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao
Số còn nặng nghiệp má đào
Người dầu muốn quyết trời nào đã cho   (995-998)
Phải, Nguyễn Du đã có gợi lên vài lần trong truyện Kiều về luật nhân quả luân hồi, đặc biệt khi Kiều muốn tỏ bày mối tình chung thủy với Kim Trọng bất chấp những hoàn cảnh buộc phải phân ly nơi cuộc sống trần ai:
Biết bao duyên nợ thề bồi?
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền ghì trúc mai
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan    (705-710)
                                                    
Nhưng trong toàn bộ câu truyện, Nguyễn Du không lấy luật nhân quả, vay trả trả vay, và ngay cả luân hồi nhiều kiếp để giải thích khổ đau, ít nhất là khổ đau của kiếp làm người. Đối với Nguyễn Du, nghiệp má đào là nghiệp làm người, và tự thân phận làm người có thân đó là một cái nhân, một món nợ phải trả .
Nợ làm người, và đó là thảm kịch. Đôi lúc Nguyễn Du ví món quà Tạo Hóa cho con người có cuộc sống trong thời gian là một cuộc thanh luyện, một cái Khổ giúp người được thanh cao:
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao    (3243-44)    
                                                                                                                 
Tại sao món quà cho làm người được gọi là nợ, và được cảm nhận là khổ?
Nợ phải chăng vì phận làm người không phải do con người tự mình làm ra?
Khổ phải chăng vì con người còn có khả năng và tự do để đạt quyền sở hữu phận mình và quên nguồn gốc nguyên sơ?
Cũng vì thế tài và mệnh tương giao trong một nỗi ghen, một cuộc chiến đấu của chân lý và mê hoặc. Và phải chăng vì thế, Kiều phải trả lại cuộc đời, toàn cuộc đời, khi chết đi con người oan nghiệt của chữ tài trên sông Tiền Đường để ngộ được, hay giác được duyên của mệnh trời.
đến với con người khi con người muốn biết được điều lành điều dữ.  Thời gian đó cũng là sự khuất mặt của Thượng Đế. Nỗi khổ cuộc đời để sống còn là máu trong sự sinh đẻ của đàn bà và mồ hôi trên trán trong lao động của đàn ông [5].
Đức Giêsu  Kitô, khi nhập thể làm người Ngài mang  trọn thân phận khổ đau của con người trong thời gian. Luca kể lại : "Trong cơn khổ, Ngài cầu nguyện một cách khẩn thiết hơn, và mồ hôi Ngài đã trở thành như những giọt máu rơi xuống đất" (Lc. 22, 44).
Và nỗi khổ của Ngài là gì, mà Ngài phải đổ mồ hôi máu, và khẩn thiết xin Cha Ngài:
Lạy Cha, nếu Cha muốn,  xin cất chén đắng này cho con! Nhưng, xin đừng theo ý con nhưng hãy theo ý Cha!   (Lc. 22, 42)
Nỗi khổ đó được Mar-cô và Mat-thêu ghi lại trong câu nói của Chúa Kitô:
Lạy Chúa Thiên Chúa  tôi, lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài đã bỏ tôi?   (Mt 27, 46; Mc 15, 34)    
                                                                  
Phần Gioan, thì ghi lại câu nói của Chúa:
Ta khát  (Gioan 19, 28)
Sau câu nói lạ  lùng đó, Chúa nói:
“Mọi sự hoàn  tất".  Ngài đã gục đầu và tắt thở (Gioan 19, 29) 
                                                
Đây là ý nghĩa trọn vẹn của thời gian gọi là "Khổ" mà  Đức Kitô mang vào thân Ngài. Khổ là nỗi khát khao vô tận chính Thiên Chúa, và trong nỗi khát khao đó cảm nhận sự vắng bóng của Ngài.
Đây cũng là nỗi khổ mà các nhà thần học gọi là Ngài đã đi vào địa ngục của thời gian, nỗi tăm tối cùng cực nhất khi cảm thấy Thiên Chúa bỏ rơi.
Và với cái chết, Đức Giêsu Kitô đã trọn công tác làm người để gặp chính mặt Cha Ngài trong vinh quang khi Ngài được Thiên Chúa Cha làm sống lại.
Đây không phải là sự giải thích thuần lý về khổ,  đây là sự thực hiện nỗi khổ tột cùng của kiếp người. Qua nỗi khổ đó, con người nhận ra cuộc sống của mình thực ra là mối  tương giao với một Kẻ  Khác, đó là Thiên Chúa, và từ đó với những người khác. Tương giao đó là tình yêu không đòi hỏi một cái gì cho mình, nên cũng không bực tức phải mất cái gì nơi mình. Kẻ khác không phải là hỏa ngục, sự đe dọa làm tự thân ta phải mất đi, như Nietzsche, Marx,  Jean-Paul Sartre cũng như con người vị kỷ ngày nay lập luận. Nhưng thiếu vắng kẻ khác vì cái ngã của ta đã đặc dày thì bấy giờ đúng là hỏa ngục tuyệt đối, nơi mà con người không phải chịu đau khổ, nhưng đến bước khốn cùng vì đã hết cảm xúc về cái khổ cứu độ mất rồi!
_____________
[1] Fr. NIETZSCHE, La naissance de la tragédie, (trd. Française,  Gallimard - Paris  - 1940 tr. 33)
[2] Sđd. 39
[3] Micea ELIADE, Le Mythe de l'Eternel Retour, Ed. Gallimard, 1969, các trang 114-11
[4]  Xem sách Cách  Ngôn 3, 33-35; 10, 16; 12, 21; 13, 21;  Sách Judith 5, 17-19; 7, 28; 8, 18-19


[5] Xem Sáng Thế 3, 1-19