Những ý thức hệ thế kỷ hai mươi ảnh hưởng vào Việt Nam

Những ý thức hệ

thế kỷ hai mươi ảnh hưởng vào Việt Nam
 Nguyễn Quang

Triết lý của Sartre đã ảnh hưởng cả một thế hệ trí thức mới: một nhóm học giả trẻ học ở Tây phương cuối thập niên 1940, đầu 1950, giai đoạn đầy sự bất trắc của xã hội Việt Nam trong cuộc chiến chống Pháp. Hiện sinh trở thành phần chính của các tạp chí như Bách Khoa và Đại Học. 

Các triệu chứng rối loạn cảm xúc trong chiến tranh như cảm xúc hai chiều, nạn nhân chiến tranh trước một sự việc nào đó lại có hai loại cảm xúc trái ngược nhau như vừa yêu vừa ghét, vừa thích cười vừa không thích, thường gặp trong tâm thần phân liệt. Có khi đó là cảm xúc trái ngược, người bệnh có cảm xúc trái ngược như nghe tin người thân mất mà lại tỏ vẻ mừng mừng, nhận được tin vui mà lại buồn rầu. Thường gặp trong bệnh tâm thần phân liệt như các lãnh tụ miền Bắc khi nghe tin chiến thắng từ miền Nam, nghĩa là nhiều đồng bào miền Nam bị sát hại thì tỏ ra vui mừng, trong khi Stalin – một lãnh tụ Liên Xô khát máu qua đời thì khóc lóc qua thơ Tố Hữu ‘Thương Cha thương một, thương ông thương mười’.     
      

 Lo âu, nạn nhân có cảm giác luôn luôn bị đe doạ bởi một cái gì rất đáng sợ. Hiện tượng nầy hay gặp trong nhiều bệnh tâm thần và là triệu chứng chủ yếu trong loạn thần kinh lo âu. Lo âu của người dân về cuộc chiến sẽ đi về đâu, có đi đến thành công hay không của các lãnh tụ miền Bắc. Họ luôn cảm nhận các nguy cơ khó tránh, nhưng không xác định được đó là cái gì, kèm theo bực bội, cảm thấy bất lực trước nguy cơ đó. Lo âu nặng hơn sẽ kèm theo xao xuyến, cảm thấy hồi họp, ngộp thở, khó ngủ, mệt và khó chịu toàn thân, nạn nhân thường có hội chứng chung về sự mệt mỏi chán chường gọi là thái độ buồn nôn đối với chiến tranh, hậu quả đi đến phản chiến trong chiến tranh, như kêu gọi hoà bình…


 Sau những trận đánh trên đường phố ở Sài Gòn thời gian Tết Mậu Thân 1968, nhà thơ Thái Tú Hạp chào năm mới bằng những lời chúc cay đắng và châm biếm:

Chúc một năm nhiều súng đạn
Chúc một năm nhiều thêm thù hận đau thương
Năm mới chạy giặc lầm than
Nước mắt bà mẹ già nua nhỏ trên xác con
Đạn còn ghim trong buồng phổi

             
Theo Frances Fitzgerald trong cuốn sách Fire in the Lake, giải Pulitzer năm 1973, tầng lớp tinh hoa Sài Gòn không còn có thể “ung dung khi Rome bốc cháy”. Còn nhà nhân học Neil Jamieson thì nói: “Thái độ thay đổi, đặc biệt trong giới trung lưu thành thị, những người lần đầu tiên chứng kiến tận mặt thực tế chiến tranh.” 


Quả là không chỉ trí thức, nhà văn, nhà báo nhưng tất cả những ai sinh sống trong các thành thị miền Nam, họ đều không còn hờ hững với chiến tranh nữa. Một thái độ lập lờ với quan điểm bảo vệ chế độ tự do miền Nam mà chính họ đang được hưởng và trưởng thành, một thái độ ‘trí thức’ thể hiện rõ từ những năm 60, đó là tinh thần hướng ngoại với chủ nghĩa hiện sinh và dần có thái độ nghi hoặc đối với giới chính trị. Văn hóa ngoại vi của Mỹ cũng bắt đầu xuất hiện trong thời kỳ này như sự kiện chính trị và giá trị xã hội từ châu Mỹ so với sự sâu đậm hơn của những gì từ Âu châu truyền đến nước này. Số đầu tiên của Bách Khoa giới thiệu tác phẩm của Saint-Exupery, vai trò của nhạc Jazz trong nghệ thuật hiện đại, và một tiểu luận về lịch sử văn học Mỹ. 


Những số về sau có điểm nhấn tương tự, như loạt bài về đạo Hồi ở Việt Nam, tiểu sử nhiều nhân vật văn hóa, khoa học phi cộng sản như Alexander Solzhenitsyn và Albert Einstein, về quan hệ Việt – Mỹ, kể cả thảo luận về những chính sách như chương trình Việt Nam hóa. 


Đặc điểm thứ hai của trí thức miền Nam là nhiều người hâm mộ các chủ đề hiện sinh. Thuyết này được biết tới qua các tác phẩm của Emmanuel Mounier, người nhấn mạnh một hình thức hiện sinh Công giáo. Mounier bước vào thế giới quan của nhiều trí thức Việt Nam nhờ thời gian họ học thần học hoặc triết học trong các trường dòng, tu viện. Đến cuối thập niên 1940, Mounier phải cạnh tranh với “chủ nghĩa hiện sinh vô thần” của Jean-Paul Sartre, cho rằng con người phải gắng tận dụng thời đang sống vì chẳng có đấng tối cao nào hiện hữu. 


Triết lý của Sartre đã ảnh hưởng cả một thế hệ trí thức mới: một nhóm học giả trẻ học ở Tây phương cuối thập niên 1940, đầu 1950, giai đoạn đầy sự bất trắc của xã hội Việt Nam trong cuộc chiến chống Pháp. Hiện sinh trở thành phần chính của các tạp chí như Bách Khoa và Đại Học. Từ sau năm 1968, những chủ đề lớn này vẫn tồn tại, mặc dù từ giữa thập niên 1960, trí thức Việt Nam Cộng Hòa quan tâm nhiều hơn văn hóa đại chúng Mỹ, và bớt quan tâm những diễn biến tương tự của văn hóa cao cấp Pháp. Những chủ đề qua các ấn phẩm trí thức ở Sài Gòn in nhiều bài báo liên quan văn hóa Mỹ, như Malcolm X, tổ chức Báo Đen, hippy, và dân quyền.


Họ ngày càng chịu ảnh hưởng bởi những chủ đề hiện sinh trong tiểu thuyết của William Faulkner, âm nhạc Bob Dylan, và bớt lấy cảm hứng từ Albert Camus hay Jean-Paul Sartre. Sự biểu hiện của trí thức miền Nam nói lên tính nhân bản của một xã hội tự do cho dù chỉ ở mức của một nền dân chủ hạn chế. Đồng thời với miền Bắc hầu như các nhà trí thức có thái độ biểu hiện tư tưởng đều phải đi cải tạo, tẩy não trong các trại tập trung như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường … là tiêu biểu.


Tương tự, chủ nghĩa hiện sinh đem lại cho trí thức phương tiện đương đầu với hoàn cảnh thời chiến. Người Việt phải tìm ra ý nghĩa giữa thời đại đầy bạo lực. Chính ý này là chủ đề lớn trong văn của Sartre, Camus và những nhà hiện sinh khác. Đây có thể là lý do vì sao những chủ đề này, tuy cũng rất rõ rệt trước Tết Mậu Thân, đã trở nên mãnh liệt sau những thảm sát kinh hoàng tại Huế và khắp các tỉnh thành miền Nam. 


Giới trí thức dùng ngôn từ hiện sinh không chỉ để phê phán trí thức miền Bắc mà còn cả các chính thể của Việt Nam Cộng Hòa và những diễn biến chính trị ở nước ngoài. Sự tự do phê phán nền chính trị và xã hội, đó là đặc điểm của một xã hội dân sự đến tự do dân chủ, nhưng vốn triết lý của người Đông Phương ‘âm trung hữu dương, dương trung hữu âm’ nên mặt sau của nó, đó là đối phương đã lợi dụng sự tự do để tạo mâu thuẫn bên trong nhằm lật đổ chế độ tự do dân chủ còn non trẻ ở miền Nam. 

Nguyễn Quang