Vài lời về Khổng Tử và Học viện Khổng Tử
Hôm
27/12, Học viện Khổng Tử đã chính thức được thành lập tại trường Đại
học Hà Nội để “thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy tiếng Trung Quốc, góp
phần củng cố và phát triển quan hệ Việt – Trung”, theo lời vị Hiệu
trưởng.
Hiện nay, xét riêng số
Học viện Khổng Tử đặt tại các trường đại học trong khu vực, Hàn Quốc có
17 viện, Nhật Bản có 13, Thái Lan có 12, Indonesia có 7, Philippines có
3, Singapore có 2. Đây là lần đầu tiên, Học viện Khổng Tử đặt tại Việt
Nam. Mặc cho những phản ứng muôn hình muôn vẻ của người Việt trong ngoài
nước, đây là câu chuyện đã rồi, và là câu chuyện trên bàn tròn của
những người anh em cộng sản hai nước. Việc thiết thực có thể làm hiện
nay là theo dõi sát sao động tĩnh của học viện này, và phản ứng kịp thời
khi nó có những hoạt động can thiệp nằm ngoài bổn phận.
Tuy
nhiên, tôi muốn lưu ý mấy điểm dưới đây, hầu mong những người phản đối
Học viện Khổng Tử hiểu rõ hơn mình đang phản đối thứ gì, tư tưởng gì.
Khổng Tử của đời thật và sau khi bị các chính thể lợi dụng
Bản
thân Khổng Tử là người chính trực, nghiêm túc, kiên trì đến độ đáng
thương, “biết đạo không thể thi hành mà vẫn làm”. Ông ta không được
trọng dụng ngay khi còn sống. Trong bối cảnh văn hóa suy đồi, chính trị
băng hoại thời Xuân Thu, tinh thần chấn hưng lễ nghĩa, quảng bá học
thuật của Khổng đã khiến ông nửa đời lang bạt các nước như ‘con chó mất
nhà’ theo cách ví của Tư Mã Thiên.
Vào thời Hán, lần đầu tiên, đạo
Khổng được trọng dụng. Nhưng tư tưởng nguyên sơ của Khổng đã bị uốn bẻ
theo những cách thức khác nhau, trải qua các triều đại khác nhau. Hán
Nho khác Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho... Tương tự, tư tưởng Nho giáo
trải qua các triều Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn tại Việt Nam cũng không đồng
nhất. Có thể đơn cử khái niệm Tam tòng tứ đức, thứ chuẩn mực đạo đức
đối với phụ nữ này là do các nhà Nho Trung Quốc thời Tống Minh cổ xúy.
Bản thân Khổng Tử chưa một lần nói đến việc đàn bà phụ nữ phải giữ trinh
tiết. Vậy nên có thể nói, có một Khổng Tử của đời thật, nhưng có nhiều
Khổng Tử của các chính thể lợi dụng. Tư tưởng của Khổng có nhiều điều
hay, cũng có nhiều hạn chế.
Nhưng trước khi hiểu rõ con người, tư
tưởng Khổng thì đừng vì phản đối Học viện Khổng Tử mà vội quy chụp tư
tưởng đó là thứ “bốc mùi”, gọi Khổng Tử là “thằng”!
Chính quyền
Trung Quốc tiến hành cách mạng văn hóa vào những năm 1966. Trong thời kỳ
này, tư tưởng Khổng bị lên án gay gắt. Tượng Khổng trong Khổng Miếu Sơn
Đông bị dán lên dòng chữ ‘Thằng khốn nạn hàng đầu’, rồi bị kéo đổ, đập
nát. Hồng vệ binh định đào mả Khổng, nhưng nhanh chóng bị can ngăn.
Và
giờ đây, khi nền chính trị, tư tưởng của Trung Cộng không đủ sức hút
đối với thế giới, càng không phải giá trị phổ quát. Họ bám víu và giương
chiêu bài quảng bá văn hóa; họ dùng Khổng Tử làm công cụ chính trị. Bởi
vậy đừng nghĩ đơn giản rằng, Học viện Khổng Tử là nơi truyền bá đạo
Khổng. Trung Cộng không có tư cách đó.
Văn hóa Trung Hoa và chính quyền Trung Quốc
Không
thể phủ nhận sức ảnh hưởng lan tỏa của văn hóa Trung Hoa trong quá khứ
đối với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Tạm không bàn đến vấn đề bản quyền của các thành tố văn hóa tương đồng
giữa Trung – Hàn – Việt. Bằng vào những tư liệu hiện có, có thể thấy các
chính thể quân chủ Việt Nam đã từng chủ động sử dụng Hán văn làm ngôn
ngữ hành chính, thi cử, sáng tác văn học, từng châm chước chế độ lễ
nghi, áo mũ, phong tục của các triều đại Trung Hoa; từng tự phụ là ‘cõi
văn hiến không kém Trung Quốc’; và khi Trung Quốc bị cai trị bởi những
tộc người Mãn, Mông, lại tự nhận là quốc gia gìn giữ văn minh Hoa Hạ
chính thống. Bất kỳ thứ văn hóa ngoại lai nào khi được du nhập vào dị
vực đều bị bản địa hóa, bởi vậy khi văn hóa Hán đã hòa vào văn hóa Việt,
trở thành một phần của văn hóa Việt thì đừng vì ghét Trung Cộng mà quay
lại cầm dao tự xẻo thịt mình!
Sau Cách mạng văn hóa, văn hóa
Trung Quốc đã xuống dốc. Trí thức Trung Quốc đương đại lưu truyền câu
nói “sau Tống không còn Trung Quốc, sau Minh không còn Hoa Hạ, sau Mãn
không còn Hán tộc, sau Cách mạng văn hóa không còn đạo đức”. Và trong
mắt tôi, văn hóa Trung Quốc đương đại là một sản phẩm què quặt. Bởi vậy,
hãy nhìn nhận cho rõ thứ văn hóa Trung Cộng quảng bá là văn hóa gì, tư
tưởng gì, đừng tóm tất cả mọi thứ vào một khái niệm đơn nhất là ‘văn hóa
Tàu’!
Tiếng phổ thông Trung Quốc và ngữ văn Hán Nôm
Hiển nhiên, nội dung quảng bá của Học
viện Khổng Tử là tiếng phổ thông Trung Quốc, tức thứ ngôn ngữ sống, lấy
ngữ âm phương Bắc làm chuẩn, sử dụng bộ văn tự đã được giản lược sau năm
1949. Còn ngữ văn Hán Nôm là một thứ ngôn ngữ chết (tử ngữ), được người
Việt Nam sử dụng để ghi chép, thi cử v.v. trước thế kỷ 20.
Chữ
Hán được sử dụng tại Việt Nam ngót 2000 năm. Trong quá trình du nhập,
truyền bá, cho đến ngày hôm nay, người Việt có một hệ thống cách đọc chữ
Hán riêng biệt (thiên địa, nhật nguyệt v.v. thay vì /tian di/, /ri
yue/). Nhiều chữ Hán được người Việt viết theo lối riêng, có những kết
cấu, hình thể riêng, tương tự như trường hợp chữ Hán của Nhật Bản. Vào
khoảng thời Lý Trần, người Việt mượn cách đọc của chữ Hán để ghi âm
tiếng Việt, tạo ra một hệ thống chữ mới gọi là chữ Nôm. Về ngữ pháp,
người Việt cũng như người Trung, Hàn, Nhật trước đây sử dụng ngữ pháp
Hán văn cổ đại (một thứ tử ngữ, gọi là văn ngôn), mà không dùng lối nói
khẩu ngữ đương đại. Văn tự Hán Nôm được diên dụng tại miền Bắc đến năm
1956 trước khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành cải cách giáo dục, và
tại miền Nam đến năm 1975 trước khi Việt Nam Cộng hòa diệt quốc.
Học
tiếng Trung hiện đại chắc chắn không thể đọc hiểu hoành phi, câu đối,
sách vở do người Việt trước thời Nguyễn viết. Còn trong bối cảnh hiện
đại, nếu học một lượng chữ Hán Nôm cơ bản, có thể hiểu sâu hơn về tiếng
Việt. Bởi vậy, khi phản đối Học viện Khổng Tử thì đừng bài xích văn tự
Hán Nôm, đừng coi nó là thứ chữ lạ, và đừng nâng cao quan điểm rằng, một
ngàn năm Bắc thuộc mới sắp bắt đầu, Việt Nam sẽ quay trở lại dùng chữ
Hán. Cần phải hiểu rõ, chữ Hán là chữ Hán nào. Chữ Hán của người Việt
hay chữ Hán của Trung Cộng.
Việc thoát Trung là thoát ở sự lệ
thuộc chính trị, kinh tế, ở những thứ văn hóa thô bỉ, quê mùa tập nhiễm
từ Trung Quốc đương đại, chứ không phải tẩy chay bất kỳ nét văn hóa hay
đẹp nào chỉ cần biết nó có nguồn gốc Tàu!
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, người viết cuốn sách khảo cứu Ngàn năm áo mũ (2013).
Chú
thích ảnh Khổng Tử (từ trên xuống dưới, trái qua phải): 1. Hình tượng
Khổng Tử của Trung Quốc thời Minh. 2. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam
thời Lê. 3. Hình tượng Khổng Tử của Hàn Quốc thời Joseon. 4. Hình tượng
Khổng Tử của Nhật Bản thời Edo. 5. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam Cộng
hòa đặt tại Miếu Khổng Thánh (chụp năm 1969), nay là đền Hùng trong
Thảo cầm viên, Sài Gòn. Pho tượng đã bị di dời. 6. Tượng Khổng Tử tại
Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ Thằng khốn nạn hàng đầu, trong
thời Cách mạng Văn hóa (1966 - 1976). 7. Tượng Khổng Tử đặt tại Thiên An
môn năm 2011, bị di dời chỉ sau 100 ngày. 8. Biếm họa chân dung Khổng
Tử sau khi chính quyền Trung Quốc dựng lên Học viện Khổng Tử.