Một nền Dân Chủ nào
   cho Việt nam ngày mai ?
  Dân 
  Chủ : từ đặc tính văn hóa đến thể chế chính trị
TS Nguyễn Văn Trần
KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA
   Thường văn hóa được định nghĩa là căn bản về mọi kiến trúc của con 
   người. Nên có thể nói không một nền chính trị nào được xây dựng mà 
   không dựa trên nền tảng văn hóa, bởi xã hội loài người đều trưởng 
   thành trong môi trường văn hóa. Tất cả đều xuất xứ từ văn hóa. Đời sống 
   là văn hóa và văn hóa là sự sống. Chánh trị cũng như văn minh là cái 
   thị hiện của văn hóa. Văn hóa tạo nên nếp sống và nếp tư duy. Văn 
   hóa làm cho ta có một trạng thái tinh thần, một thái độ đối với sự 
   việc. Do đó ta có quan niệm chánh trị. Như vậy, người ta có thể hỏi 
   nếu cùng một văn hóa thì đều có một quan niệm và một đường lối chánh 
   trị giống nhau hay sao ? – Không . Văn hóa giúp ta nảy nở và phát 
   huy và trong sự phát huy có nhiều sắc thái. Chính đây là giá trị 
   đích thực của văn hóa, bởi nó vô cùng đẹp, vô cùng linh biến. Trong 
   sự phát huy đó, ta có ý nghĩ chánh trị, tức là ta có tư tưởng về tổ 
   chức xã hội, tức chánh quyền và quyền hành . Và tư tưởng của con người 
   thì không bao giờ đồng nhứt . Điều tốt là tư tưởng không đống nhứt, 
   bởi đống nhứt thì đưa đến quán tính. Mà quán tính thì ngưng trệ, là 
   khô héo, là chết.1
   Trong vũ trụ, trong sự thị hiện của vũ trụ, xưa nay, không có gì là 
   đồng nhứt, bởi vì chính hiện tượng là vô thưòng .
   TỪ THẦN THOẠI ĐẾN NỀN VĂN HÓA VIỆT
   -         
   ĐẶC TÍNH CỦA HAI 
   NỀN VĂN HÓA ĐÔNG VÀ TÂY
   Hoạt động của con người về mặt tinh thần và vật chất đều do tư duy của 
   con người mà kết thành. Tư tưởng nhơn loại về vũ trụ và con người 
   trước đây được xếp, theo đặc tính, thành hai thể loại khác nhau : 
   tĩnh và động. Tĩnh liên quan đến những vấn đề thuộc bản 
   thể sự vật, thường có tính cách trừu tượng. Còn động là khi bàn đến 
   sự biến dịch, hoặc sự tác động đến sự vật.2 
   Dựa theo nhận xét trên đây, người ta có xu hướng xếp nền tư tưởng 
   Tây phương thuộc loại tĩnh, còn nền tư tưởng Đông phương, 
   trong đó có Việt Nam, thuộc loại động . Về điểm này, giáo sư 
   Nguyễn Đăng Thục nhận xét văn hóa Đông phương « xưa nay vẫn khuôn 
   trong vòng vũ trụ quan Âm–Dương. Âm Dương khác với Vật–Tâm ở điểm 
   chánh yếu này : một đàng là hai trạng thái kinh nghiệm của sự sống, 
   hai thái độ xử thế, tiếp vật, một khuynh hướng vận động của một bản 
   thể đồng nhứt miên tục ; còn một đàng là hai hình ảnh của tinh thần, 
   hai khái niệm trừu tượng hợp lý, biệt lập và đối lập, cái nọ phủ nhận 
   cái kia, không có thể tịnh hành như hai khuynh hướng Âm–Dương ».3
   Đặc tánh này dẫn đến sự khác biệt nền tảng trong nếp tư duy và trong 
   đời sống xã hội giữa Đông và Tây. Đông ứng sử rất rộng rãi về mặt tư 
   tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo, nhưng lại rất khắt khe ở thể chế, thói 
   tục, luật tắc của xã hội. Trái lại, ở bên Tây phương cổ thời lại rất 
   dễ dãi ở thể chế xã hội, trong đời sống, nhưng lại vô cùng nghiệt 
   ngã trong tư tưởng, tôn giáo, suy tư. Ở Đông phương, xã hội nghiêm 
   khắc trong quan hệ nam nữ, vua tôi, cha con, thì ở Tây phương, nhà 
   bác học Galilée bị kết án chỉ vì cho rằng trái đất tròn, cùng với những 
   tinh thể khác vận hành chung quanh mặt trời , điều này trái ngược với 
   điều mà Giáo hội Thiên Chúa giáo dạy. Mãi đến năm 1992, ông mới được 
   Giáo hội “ phục hồi ” !
   Nguyên nhân sự khác biệt trên là do trong nền văn hóa Tây phương 
   trước kia thiếu vắng yếu tố vũ trụ quan âm-dương của Đông phương. Đó 
   là âm-dương tương thôi trong đó chữ tương đề cao hai đức 
   tánh : “ hòa giải / hợp tác ”, ngược lại với “ độc quyền / 
   độc đoán ” và đức tánh “ bổ túc ”, ngược lại với xung 
   khắc, triệt tiêu, từ đây về sau này bắt nguồn“ đấu tranh giai 
   cấp” và “ chuyên chính ”.
   Nền văn hóa tĩnh của Tây phương cổ thời đã sản sanh ra ý hệ 
   xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội « xã hội chủ nghĩa », đạo lý 
   xã hội và gia đình bị buông lỏng, gần như bị phá vở. Điều cấm kỵ tuyệt 
   đối là không được xúc phạm tới chủ nghĩa Mác Lê. Theo ảnh hưởng của 
   nền văn hóa động, xã hội Đông phương vì không bị nghiêm ngặt 
   ở từng tư tưởng nên có diển tiến mà không bị sụp đổ do một cuộc cách 
   mạng như ở phương Tây, Đông Âu và Liên-xô. 4
   -         
   TỪ  NGUỒN GỐC THẦN 
   THOẠI
   Từ cổ sơ, sự hiểu biết của con người được ghi lại bằng thần thoại. 
   Nhờ thần thoại mà những học thuyết về con người và vũ trụ xuất hiện 
   .
   Xã hội Tây phương bắt nguồn từ hai nền văn minh La Mã – Hy Lạp và Do 
   Thái – Ki Tô xây dựng trên nếp sống thần bản. Trong nhân sinh quan 
   này có thần và có người. Nhưng văn minh La-Hi mang đậm màu sắc thần 
   thoại, còn văn minh Do thái – Kitô lại theo lối sống dựa trên  thần 
   quyền.
   Trong nguồn gốc văn hóa La-Hi, thần và người sống ngang hàng nhau, 
   tuy thần không phải sống đan xen với người, nhưng không theo một 
   trật tự trên dưới nghiêm ngặt. Thần chỉ khác người là mạnh hơn người 
   và bất tử. Do đó, thần không có quyền năng phán xét người về thiện 
   ác, mà cho rằng điều đó là sự chọn lựa riêng của người. Chính thần 
   cũng vướng mắc vào chuyện thiện ác như người. Trong thần thoại này, 
   con người là con người tự do, không lệ thuộc thần để bị thần quyết 
   định vận mạng của mình. Tinh thần dân chủ tự do của Tây phương bắt 
   nguồn từ thần thoại La-Hi, mà thành Nhã-điển là điển hình.
   Trong thần thoại Do thái-Kitô, thần là Đấng Sáng Thế duy nhứt và 
   toàn năng, có quyền tuyệt đối phán xét hành động của người và vạn 
   vật, vì tất cả do thần sáng tạo ra.5 Vì là sản phẩm do 
   thần tạo ra nên người có bổn phận phải thờ thần, nghĩa là lệ thuộc 
   vào thần nên người không được tự do như trong thần thoại La-Hi. Từ 
   đó, có quan niệm con người vốn có tội ngay từ thuở ban sơ ( tội 
   tổ tông ). Muốn hết tội và lúc chết được hưởng an lạc thì con 
   người phải được cứu rỗi, được rửa tội và suốt trong cuộc sống, phải 
   biết ăn năn, sám hối, xin tội mỗi khi phạm phải sai trái. Huyền 
   thoại Do thái-Kitô đã đưa Tây phương miên man trong bóng đêm suốt 
   thời kỳ Trung cổ. Mãi đến thời Phục Hưng, nền văn minh La-Hi cũ mới 
   được khám phá, nhờ đó, mở đường cho các giá trị dân chủ tự do như 
   ngày nay ta biết.
   Còn thần thoại Việt Nam cho thấy dân tộc Việt Nam có ý chí tự ví 
   mình với chim Đại bàng, Việt Điểu. Nhờ cái ý chí lớn ấy mà dân tộc 
   Việt Nam cho mình là con Rồng, cháu Tiên. Rồng khi tịnh thì ẩn mình 
   trong biển cả, khi động thì vùng lên trong vũ trụ, làm mưa để đem lại 
   sự ấm no, thịnh vượng. Tiên tiêu biểu cho vẻ kiều diễm, tinh anh. Biểu 
   tượng kép Rồng-Tiên của huyền thoại nói lên cái dũng 
   và cái đẹp của dân tộc.6  Đó là chơn lý mà huyèn 
   thoại biểu thị đã dẫn dân tộc việt nam hướng lên xây dựng cuộc sống 
   nhằm đạt đến dũng mãnh và thiện mỹ. Con cháu của Rồng-Tiên 
   được sanh ra trong điều kiện bình đẳng và đồng đẳng, tủa ra bốn 
   phương sanh sống, nhưng lúc nào cũng nhớ nguồn gốc, nhờ huyền thoại 
   nhắc nhở. Huyền thoại Rồng-Tiên là biểu tượng của hai nguyên 
   lý Âm-Dương, tức Trời và Đất, và dân tộc Việt 
   Nam lại do Rồng-Tiên phối hợp sanh ra, nên chiếm lấy một ngôi vị 
   trong tam tài : Thiên, Địa, Nhơn. Đồng thời, vì đứng trong tam tài, 
   nên con người hiểu biết có Trời Đất hiện hữu chung quanh. Do đó, văn 
   hóa Việt Nam có nguồn gốc từ con người, nên lấy con người làm cứu 
   cánh. Và trong con người có hai nguyên lý Âm-Dương, nên con 
   người là một vũ trụ nhỏ.
   Ngày nay, khi đọc lại thần thoại, người Việt Nam không khỏi ngạc 
   nhiên và thán phục tổ tiên mình ngày xưa đã trực giác cái không 
   mà có. Thật thế, vũ trụ chỉ là một khồi tinh lực gồm hai loại
   âm và dương, nhưng không phải âm hoặc dương tinh ròng, 
   bởi trong âm có dương và trong dương có âm. Âm-Dương tương khắc 
   nhưng cũng tương dung. Do đó mà con người và vạn vật sanh sôi, nảy 
   nở đến vô cùng tận. Tương quan sanh động này được thấy trong đời 
   sống con người, ra xã hội đến nhơn loại. Nền tảng Tư tưởng Việt Nam, 
   xây dựng trên mối tương quan âm-dương, là một nền tảng của quân bình 
   và điều hòa, và từ đó đem lại hòa bình và trường tồn.
   Tổ tiên người Việt Nam từ ngàn xưa đã biết đem cái luật tương dung 
   của hai nguyên lý âm-dương mà áp dụng vào việc tổ chức xã hội và trị 
   nước. 
   Trong thần thoại, vốn là tiếng nói của tâm thức dân tộc, người Việt 
   nam không đặt thành vấn đề có đấng Sáng Thế hay một thần duy nhứt 
   độc tôn, nên họ không chấp nhận một sự lệ thuộc vào một quyền lực 
   tối thượng duy nhứt nào. Người Việt Nam không thờ một vị thần duy 
   nhứt, mà nếu phải thờ thì họ thờ nhiều thần. Người Việt Nam không hề 
   mang tâm thức tội lỗi nên không cần xin thần ban ơn sủng để được cứu 
   rỗi. Con người là chung thủy. Gốc văn minh Việt Nam từ đấy mang đặc 
   tánh nhơn bản. Cách ứng xử trong đời sống của người Việt Nam cũng 
   rất đặc biệt. Đó là sống theo quan niệm tương dung, mang tấm lòng vị 
   tha, độ lượng mà chế ngự sự ích kỷ, độc đoán, khai triển điều hay 
   của mình, trọng điều hay của người, biết mình nhưng không quên có 
   người, ăn ở hài hòa theo lương tâm, thuận theo đạo lý, tạo nên một 
   cảnh nhơn quần có người, có ta, có gia đình, có dân tộc, có nhơn 
   loại, trong cảnh hòa hợp đại đồng . Trong nếp sống tương dung hòa 
   hợp ấy, không thể có sự phân cách xã hội thành giai cấp đối nghịch. 
   Mọi người đều vui sống với đạo làm người, nhằm tiến lên lấy chơn 
   thiện mỹ làm lý tưởng sống.
   Chẳng may, người Pháp đến, rồi người cộng sản “ giải phóng ”, đã lần 
   lượt ra sức phá vỡ cái trật tự nhơn bản ấy của người Việt Nam. 
KHI NGƯỜI CỘNG SẢN “ GIẢI PHÓNG ”
   -         
   NGƯỜI CỘNG SẢN “ 
   CẢI TẠO ” CON NGƯỜI
   Người Pháp đến để “ giáo hóa ” dân Việt Nam. Thi hành sứ mạng “ giáo 
   hóa ”, họ đã bứng người dân ra khỏi môi trường văn hóa truyền thống 
   và biến những người này thành một lớp người mới xa lạ với bộ phận 
   còn lại của dân tộc. Nhưng đến khi người cộng sản “ giải phóng ” thì 
   mọi người đều bị “ đào tận gốc, bốc tận rễ ”.
   Trật tự xã hội Việt Nam bị người cộng sản phá vỡ triệt để hơn, vì cộng 
   sản thiết lập một chế độ cai trị độc tài toàn trị, với đảng cộng sản 
   nắm trọn vẹn quyền lãnh đạo đất nước bằng chủ thuyết Mác-Lê. Mác xây 
   dựng học thuyết chánh trị dựa trên quan hệ sản suất kinh tế làm nền 
   tảng nhằm kêu gọi phát động cách mạng vô sản để cải tạo xã hội. 
   Lê-nin thuộc giai cấp quí tộc nên tâm đắc giá trị quyền lực. Là người 
   theo Cơ đốc Chánh thống Nga, Lê-nin rất am hiểu sức mạnh tinh thần của 
   tôn giáo là thế nào. Lê-nin san định lại chủ thuyết Mác qua nỗi ám 
   ảnh thần thoại Do thái – Kitô, xây dựng thành học thuyết chánh trị 
   kinh tế Mác-Lê, biến học thuyết Mác-Lê trở thành một hệ thống lý 
   thuyết chiếm quyền và cầm quyền.7
   Có thể nói thuyết Mác-Lê thành hình từ sự “ tục 
   hóa thần quyền ” theo thần thoại Do thái-Kitô, nên đảng cộng  sản 
   khi nắm quyền phải là đảng duy nhứt lãnh đạo toàn xã hội, bởi 
   thần trong thần thoại đó vẫn là thần duy nhứt có toàn năng, vì là 
   đấng Sáng Thế. Vào thập niên 20, Hồ chí Minh trên đường tìm kế sanh 
   nhai ở Âu Châu, bất ngờ bắt gặp tài liệu sơ đẳng về chiến tranh giải 
   phóng do phong trào cộng sản đệ III ấn hành. Vốn ít học, không đủ 
   khả năng nhận thức và đánh giá, nên Hồ chí Minh vội chụp lấy và trân 
   trọng như bức cẩm nang thần kỳ, đem về xứ áp dụng làm chiến tranh 
   giải phóng, đưa Việt nam vào con đường xã hội chủ nghĩa. Khi lấy 
   đảng cộng sản làm đảng cầm quyền, Hồ chí Minh đã học được đường lối 
   chánh trị Mác-Lê theo thuyết “ chuyển hóa thần quyền từ tôn giáo vào 
   chánh trị ”, nghĩa là đã “ cơ đốc hóa quyền chánh ” để cai trị toàn 
   xã hội. Trong cách cầm quyền này, đảng cộng sản là hiện thân của 
   đấng Sáng Thế ở Việt Nam, ban ơn sủng cho dân Việt Nam, một mình 
   đứng trên tất cả và không chấp nhận có hai. Đảng cộng sản xem tất cả 
   dân chúng, người ngoài đảng, chưa “ giác ngộ cách mạng ” đều có tội. 
   Điều này thấy rõ ở miền Nam sau 1975. Trong các buổi học tập chánh 
   trị tổ chức cho dân chúng ở các địa phương, người cộng sản thường 
   tuyên bố «  tất cả dân miền Nam đều có tội, kể cả người quét đường, 
   hốt rác »! Phải chăng đây đúng là một thứ tội tổ tông theo quan niệm 
   thần thoại Do thái-Kitô mà người cộng sản học được và đem áp dụng 
   vào chánh trị ?
   Trong thực tế cai trị, thần quyền được đảng cộng sản áp dụng qua 
   hình thức “ tự phê, tự kiểm ”, “ cải tạo ”, “ tiến lên chủ nghĩa xã 
   hội ”, “ tuyệt đối trung thành với đảng ”, “ giữ lập trường giai cấp 
   ” 8. Đó là những biện pháp nhằm cải tạo con người, 
   để biến con người trở thành con người xã hội chủ nghĩa. Giống như 
   trong tôn giáo, con người phải chịu “ phép rửa tội ” để từ “ người 
   lương ” trở thành người “ có đạo ”, tức đã được rửa hết tội và mai 
   kia chết sẽ được lên thiên đường.
   Người lãnh đạo cộng sản lúc sống là “ thần linh ” bất khả  xâm phạm, 
   được mọi người tôn sùng triệt để . Lúc chết, họ được rước vào miếu 
   mạo để tiếp tục được thờ phượng. Về mặt xã hội, chỉ những người giác 
   ngộ giai cấp mới được xem là nhơn dân.Về mặt chánh trị, chỉ những 
   người được “ cải tạo trở thành người xã hội chủ nghĩa ”, tức đã được 
   “ rửa tội ” ( trở thành đảng viên ) mới được hưởng những 
   quyền công dân cao như quyền tham chánh.
   -         
   NGƯỜI VIỆT NAM 
   VỚI NÉT VIỆT TÍNH
   Trở lại vũ trụ quan của người Việt Nam, theo đó con người được quan 
   niệm như giao điểm của Đất-Trời . Trời nói lên phần thiêng liêng, những 
   giá trị tinh thần. Đất bảo đảm cho con người cuộc sống vật chất ấm 
   no . Do đó, hai tiếng Trời-Đất đối với người Việt Nam hàm chứa một nội 
   dung thiết thực, được thể hiện bằng thể chế công điền và đạo thờ 
   cúng Ông Bà . Hai thể chế đi đôi như Đất với Trời.9
   Ngày xưa ở Tây phương và Tàu, chỉ có giới quí tộc, trưởng giả, quan 
   quyền mới có quyền thờ cúng Ông Bà, vì chỉ có Ông Bà của họ mới đáng 
   thờ cúng .Thờ cúng Ông Bà cho họ những quyền lợi về công dân mà những 
   người không thờ cúng Ông Bà không có quyền được hưởng . Khi có quyền 
   công dân, họ có quyền sở hữu tài sản, nghĩa là có quyền sở hữu đất 
   đai .
    Trong lúc đó, ở Việt Nam, từ cổ sơ, người Việt Nam nào cũng có 
   quyền thờ cúng Ông Bà của mình, và việc thờ cúng Ông Bà đối với 
   người Việt Nam đã trở thành “ Việt đạo ”. Thờ cúng Ông Bà ở Việt Nam 
   còn được bảo đảm do chánh quyền cấp phát cho người dân nghèo không 
   có ruộng đất một thửa ruộng để sanh sống mà lo duy trì sự thờ cúng 
   Ông Bà . Do đó, đối với người Việt Nam, đất và thờ cúng Ông Bà, cả 
   hai đều mang một ý nghĩa thiêng liêng . Ông Paul Mus nhận xét rằng “ 
   Đất Trời hay thờ cúng Ông Bà và thửa ruộng đối với người Việt Nam là 
   một thực thể, một quan niệm về đất đầy ấp tình người, hồn người ”10. 
   Đất, nơi ấp ủ hồn thiêng của tổ tiên, nên linh thiêng hơn vật chất 
   bình thường. Người nông dân Việt Nam không bao giờ chịu bán đất, 
   nhứt là đất hương hỏa dành riêng cho việc thờ cúng Ông Bà lại bị cấm 
   bán nhượng, cầm thế . Đối với người nông dân Việt Nam, Đất có một 
   nội dung hoàn toàn  khác với nông dân Tây phương . Bởi, với Tây 
   phương, đất chỉ là đất mà thôi .
   Về mặt kinh tế xã hội, đất với chế độ quân phân tài sản – công điền 
   công thổ - đã đem lại cho người Việt Nam một đời sống điều hòa, tự 
   chủ, nên xã hội Việt Nam không có giai cấp vô sản, khác hẳn với xã 
   hội Tây phương và Tàu ngày xưa . Nói theo ngôn ngữ ngày nay, 
   quyền được làm một con người ở xã hội Việt Nam cổ thời đã được 
   tôn trọng và thực thi . Khi người dân phải đứng lên cùng nhau đánh 
   đuổi ngoại xâm tàn phá “ xã tắc ”, thì họ hiểu thắm thía từ thửa 
   ruộng, mảnh vườn của họ trào dâng lên lòng thương nước, thương nhà 
   mà phải bảo vệ, giữ gìn, chớ hoàn toàn không phải vì một chủ thuyết 
   trừu tượng xa vời nào làm động cơ thúc đẩy họ hết cả . Khi người 
   thực dân Pháp bước chơn đến, đặt xong nền cai trị, thì họ cũng bắt 
   đầu phá vỡ cái “ vũ trụ ” nhơn sinh đó để tiêu diệt tận gốc các mầm 
   mống đề kháng .11 Đến năm 1940, người Pháp đã đem 
   lại sự bất bình sản nghiêm trọng . Ngoài Trung, vì còn Nguyễn triều, 
   nên còn giữ được 26% công điền . Miền Bắc, theo chế độ bảo hộ, nên 
   chỉ còn giữ được 20% công điền . Trong lúc đó, miền Nam là xứ thuộc 
   địa, nên công điền chỉ giữ được có 2,5 % . Nhìn chung ở Nam kỳ, cứ 
   15 người có một điền chủ tư điền . Còn ở Bắc, từ 6 người là có một 
   điền chủ tư điền . Về công điền, ở Bắc, ai ai cũng được cấp phát để 
   sanh sống .12
   Về mặt xã hội, người Việt Nam có 
   nghèo cực nhưng không có ai như thợ thuyền ở Tây phương, đến nỗi 
   phải bán mình vì không còn gì khác ngoài mình để mà bán ! Đã có đất 
   riêng để tự sanh sống, thì phần tinh thần để hướng đến những giá trị 
   chân, thiện, mỹ, cũng được giải quyết thỏa đáng cho mọi người, không 
   hề có sự phân biệt đối xử . Hầu hết, không làng nào không có vài ba 
   ông đồ nho dạy học . Việc học không phải tốn kém lắm . Đã có quyền 
   sống, quyền mở mang trí não, người dân nhờ ở tài đức được thêm quyền 
   tham dự vào chánh sự .
   Ở Việt Nam ngày nay, người dân lương thiện bình thường, nếu không phải 
   là đảng viên  đảng cộng sản, vẫn chưa đạt được địa vị của người dân 
   dưới thời quân chủ cực thịnh về mặt nhơn quyền và dân quyền . Khi 
   người cộng sản nổi lên ở Việt Nam, họ hô hào đánh Tây, đuổi Mỹ là để 
   chiếm lấy quyền lực và nắm giữ quyền lực trong tay đảng cộng sản, chớ 
   không phải vì Tây, Mỹ đã phá vỡ cái công thể Việt Nam ấy . Về phía 
   người Việt Nam, không ai chấp nhận lệ thuộc ngoại bang, nên khi cộng 
   sản hô hào giải phóng dành độc lập như một cám dỗ, toàn dân đã dấn 
   thân tham gia kháng chiến, lòng họ bổng dưng tràn ngập hứa hẹn về một 
   tương lai huy hoàng . Nhưng trong thực tế, toàn dân đã bị cộng sản Hồ 
   chí Minh phản bội trắng trợn ngay khi chiến tranh giải phóng kết 
   thúc .
   Người Pháp đã phá vỡ chế độ công điền làm nảy sanh một lớp địa chủ mới 
   giàu có, đồng thời làm xuất hiện một tình trạng xã hội mới, đó là sự 
   bất bình đẳng . Để kiếm cách sanh sống ngoài thôn xóm, một số nông 
   dân nghèo, không có đất đai canh tác phải chấp nhận rời xã thôn và 
   gia đình . Hiện tượng này đã phá vỡ sự quân bình tâm lý ở người Việt 
   Nam . Việc bốc người nông dân ra khỏi công thể, sau thực dân Pháp, 
   được người cộng sản đẩy mạnh hơn bằng những đợt “ giải phóng ”. Khi 
   ruộng đất của họ bị tập thể hóa thì người nông dân bị biến thành những 
   cá nhơn đơn lẻ . Họ hoàn toàn bị đoạn tuyệt với nếp sống công thể cũ 
   . Chẳng những họ sống trong sự mất quân bình tâm lý như dưới thời 
   Pháp thuộc, mà họ còn bị vong thân vì phải sống theo đoàn lũ kết hợp 
   bằng những cá nhơn rời rạc, thiếu mối dây liên kết đầy ấp tình người 
   như trước kia . Người nông dân trong chế độ cộng sản không gì khác 
   hơn là những « cu-li » nông nghiệp đi làm theo tiếng kiểng và lảnh 
   lương theo chế độ chấm công .
   Sự sống thành đoàn lũ hay xã hội thợ thuyền có thể hiểu được 
   ở Tây phương, vì ở đấy, ngày xưa, có nô lệ, tiếp tới nông nô thời 
   Trung cổ, khi bước vào thời đại kỹ nghệ, có thợ thuyền làm việc ăn 
   lương . Họ trải qua các giai đoạn lịch sử kéo lê cuộc sống vô sản, 
   thì cộng sản có ý nghĩa nào đó để giải phóng họ và đoàn ngũ hóa họ . 
   Còn ở Việt Nam, có người Việt nghèo, nhưng tuyệt nhiên không có giai 
   cấp vô sản, không có chế độ phong kiến . Chỉ khi người cộng sản giải 
   phóng nông thôn, chẳng những đấu tố địa chủ dã man, mà còn bần cùng 
   hóa nông dân đến cùng cực . Ông Milovan Djilas viết : “ Giai cấp mới 
   , tức người cộng sản cầm quyền, đã thành công trong việc 
   biến hóa các nông dân trở nên tôi mọi và giành lấy phần lớn nhứt 
   trong lợi tức của họ”13 . Ở Việt Nam, phong kiến 
   và giai cấp vô sản, nếu có, thì phải bắt đầu từ khi cộng sản cầm quyền 
   .
   Khi người cộng sản “ giải phóng ” con người khỏi cảnh vong thân, kỳ 
   thật họ làm điều trái ngược . Trước kia, dưới thời Pháp thuộc, họ 
   chỉ bị vong thân có một, thì nay, họ bị người cộng sản nhận xuống 
   thêm mấy độ sâu trong hố vong thân . Và tệ hại hơn nữa, người cộng 
   sản không cho phép họ ra khỏi hố vong thân khi có cá nhơn nào đó 
   chợt nhận ra được mình bị vong thân . Xét dưới ánh sáng văn hóa Việt 
   Nam, thì khi nói giải phóng, tiến lên chủ nghĩa xã hội, người cộng 
   sản đã bỏ nội ngã của mình, rồi bỏ gia đình, sau đến bỏ quốc gia mà 
   muốn đi thẳng đến quốc tế, nên họ xéo qua người thân yêu, bước lên 
   đồng bào để đi phục vụ quốc tế vô sản14. Chúng ta 
   nhận thấy ngay cái quốc tế đó, tự nó, đã thiếu nội dung chơn thật vì 
   hoàn toàn rỗng nghĩa . Nó chỉ còn là danh từ che đậy một sự vong 
   thân trầm trọng của chính mình, của gia đình tan hoang, của cảnh 
   đồng bào bị tàn sát tập thể oan uổng, của đất nước bị tụt hậu, nghèo 
   đói, phá sản .
   Như vậy, không thể nói chủ thuyết Mác-Lê là khoa học được, vì nó 
   thiếu thực tiễn và không có khả năng đi vào tương lai . Riêng đối 
   với Mác, cái thực tiễn mà Mác đã thu thập được chỉ có 75 ngày qua 
   công xã Paris . Trước sau, chủ thuyết Mác-Lê mà cộng sản Hà nội ngày 
   nay vẫn còn theo đuổi chỉ là những ước mơ trừu tượng hóa thực tiễn, 
   nên khi va chạm thực tiễn liền bị đời sống phức tạp, đa dạng, với 
   sức vận hành luôn luôn đổi mới mảnh liệt của xã hội đánh bại, vỡ tan 
   ra từng mảnh như bọt bèo .
   Nhận định về Mác và chế độ cộng sản chuyên chính, triết gia Mác-Xít 
   trẻ tuổi người Ba Lan, ông Leszeck Kolakowski, cho rằng Mác là người 
   mang nặng “ nỗi ám ảnh quá khứ ” theo nghĩa thần học . Cuộc cách 
   mạng dân quyền và khoa học ở Âu Châu đã tách xã hội ra khỏi giáo 
   quyền, khiến con người cứ hoài vọng trở về đời sống nhất quán nguyên 
   sơ cũ, điều mà ông Leszeck Kolakowski gọi là “ Huyền thoại về tự ngã 
   nhơn loại ”. Theo ông, chủ nghĩa Mác-Xít là một cố gắng thống nhứt 
   trở lại các trật tự cũ đã mất về chánh trị, kinh tế, xã hội và tâm 
   linh . Trong suy tư, Mác đã mơ về một nhơn loại hồn nhứt chỉ có ở 
   thiên đường mà loài người đã đánh mất từ khi bị đuổi ra khỏi vườn 
   Địa đàng . Đây là một trạng thái tâm thần của một con người bị ám 
   ảnh thần học về cội nguồn ! Trong thực tế, chủ thuyết Mác được người 
   cộng sản áp dụng để xây dựng một xã hội thuần nhứt, không có giai 
   cấp, không người bốc lột người, vì mọi người làm việc tùy theo khả 
   năng và hưởng thụ theo nhu cầu . Xã hội của Mác như vậy chỉ là một 
   thứ huyển tưởng . Mà dùng bạo lực triệt để của số đông nhằm biến 
   huyển tưởng thành hiện thực là một tội ác tày trời . 
   Hồ chí Minh do thiếu học và thiếu suy nghĩ, đã chọn chủ nghĩa Mác-Lê 
   áp dụng ở Việt Nam là một tội ác . Đảng cộng sản Hà nội ngày nay vẫn 
   còn theo con đường Mác-Lê là tiếp tục dấn thân vào tội ác . Dù có 
   nhơn danh thứ gì đi nữa, thì sự sụp đổ của cộng sản ở Liên sô và 
   Đông Âu cũng đã quá đủ để tố cáo chủ thuyết Mác-Lê là hoàn toàn 
   không có tính hiện thực khoa học, bởi nó không có giá trị áp dụng để 
   xây dựng xã hội và phát triển đất nước . Hà nội nên khôn ngoan mà 
   sớm từ bỏ cộng sản để tránh gây thêm tội ác với nhơn dân .
TINH THẦN DÂN CHỦ ĐẾN THỂ CHẾ DÂN CHỦ
   -         
   TINH THẦN DÂN 
   CHỦ DƯỚI CHẾ ĐỘ QUÂN CHỦ VIỆT NAM
   Nói đến dân chủ không thể không đề cấp đến Hiến pháp, bởi chánh 
   quyền dân chủ là một thể chế do dân lập ra để cai trị chính mình . 
   Từ năm 1946, Việt Nam có tất cả 6 bản Hiến pháp, trong đó miền Nam 
   có 2 bản : 1956 và 1967. Bản Hiến pháp 1946 chỉ có giá trị tài liệu 
   văn khố, vì không được ban hành áp dụng . Các bản Hiến pháp sau đó 
   của miền Bắc chỉ là công cụ cho phép nhà cầm quyền Hà nội đàn áp xã 
   hội về mặt luật pháp để bảo vệ chế độ độc tài toàn trị . Hai bản 
   Hiến pháp của miền Nam dưới chế độ đệ I và đệ II Cộng hòa , tuy chưa 
   xây dựng được cho miền Nam lúc bấy giờ một chế độ dân chủ đúng mức, 
   nhưng cũng đã đặt được cho miền Nam một nền tảng tối thiểu của một 
   chế độ dân chủ tự do . Như vậy, trước khi mất độc lập, Việt Nam chưa 
   có một chế độ dân chủ nhưng không có nghĩa là quốc dân Việt Nam đã 
   không hưởng được điều mà ngày nay người ta gọi là quyền công dân.
   Dưới thời quân chủ, luật pháp của nhà vua chỉ nhằm ngăn cấm người 
   dân làm những việc phương hại đến kỷ cương xã hội, mà không qui định 
   và bảo vệ những điều mà người dân phải được hưởng theo như ngày nay 
   chúng ta gọi là quyền . Mãi đến thế kỷ thứ 19, tiếng Quyền 
   (Droit/Right) mới được du nhập vào Việt Nam qua ngã Nhựt Bổn . 
   Và nhờ đó, chúng ta ngày nay có được từ ngữ quyền quen thuộc 
   như nhơn quyền, dân quyền, quyền dân sự và chánh trị…
   Dưới thời quân chủ Việt Nam, mặc dù chưa có tiếng quyền theo 
   sự hiểu biết của ngày nay, người dân không vì thế mà hoàn toàn bị 
   đặt dưới sự khống chế của những nhà lãnh đạo . Nền chánh trị Việt 
   Nam lúc bấy giờ được xây dựng trên chủ trương là mọi người, từ vị 
   thiên tử đến thứ dân, đều có nhiệm vụ phải chu toàn . Nếu chánh 
   quyền làm tròn nhiệm vụ của mình thì người dân được hưởng điều mà 
   ngày nay chúng ta gọi là quyền ( nhơn quyền, dân quyền ). 
   Tuy đó chỉ là thứ quyền tiêu cực theo quan niệm luật học Tây phương 
   sau này . Nhiệm vụ của nhà cầm quyền, tức nhà vua, gọi là thiên 
   mệnh . Còn nhiệm vụ của thứ dân gọi là dân bản .
   Theo tư tưởng chánh trị cổ thời đông phương, nhà lãnh đạo quốc gia 
   là người được Trời chọn và ban cho cái mệnh, nhờ đó, người ấy 
   có cái quyền sai khiến hết mọi người và trừng phạt những ai không 
   tuân lệnh hoặc làm trái lệnh của mình . Quan niệm dân bản 
   được hiểu dân là gốc của nước . Gốc có vững thì nước mới yên !
   Tư tưởng thiên mệnh và dân bản dẫn đến chủ trương là 
   nhà lãnh đạo quốc gia phải hết lòng phục vụ mọi người . Có được một 
   nhà lãnh đạo làm tròn sứ mạng do Trời giao phó, thì dĩ nhiên muôn 
   dân sẽ được sống yên vui thuận theo đạo lý. Trời theo dõi người thi 
   hành thiên mệnh qua dân, nên “ Trời thấy như dân thấy, Trời 
   nghe như dân nghe ”, bởi vì “ Trời thương dân, nên ý dân là ý Trời 
   ”.15 Nếu nhà lãnh đạo không làm tròn nhiệm vụ, mà 
   còn cư xử hung bạo với dân, làm cho dân oán than thì Trời sẽ thể 
   theo ý dân mà thu hồi cái mệnh đã ban cho .
   Về mặt cơ cấu, chế độ quân chủ thời xưa được chia ra làm nhiều thứ 
   bực phân minh khác nhau theo thứ tự từ chí cao đến chí thấp . Ngôi 
   vua được trao truyền theo lối thế tập . Những chức vụ và phẩm tước 
   khác, người dân bình thường do tài đức qua thi tuyển mà có được . Từ 
   đời nhà Lý ( thế kỷ thứ 11- 13 ), những quan chức đều được 
   chọn lựa trong từng lớp dân chúng qua các kỳ thi công cộng . Việc tổ 
   chức thi cử và mở trường dạy học đã được các đời vua sau tiếp nối . 
   Nên nhớ, việc mở trường dạy học thời ấy đã hoàn toàn tự do và miễn 
   phí, miễn thầy dạy học không dạy điều gì phạm đến đạo lý . Người học 
   giỏi chẳng những được tuyển dụng làm quan mà còn được xã hội trọng 
   vọng .
   Nhờ thế, ở thời quân chủ cực thịnh, mọi người dân Việt Nam bình 
   thường đều có thể  tham gia chánh sự nếu có tài đức . Sự bình đẳng 
   và phổ quát về việc này được đề cao trong sách vỡ lòng dạy chữ nho 
   cho trẻ con ngày xưa  (Ấu học ngũ ngôn thi) :
                               “ Tướng tướng bản vô chủng
                                 Nam nhi đương tự cường”.   
   ( Các quan và tướng đều không phải thuộc một dòng giống nào. Vậy 
   kẻ làm  trai phải tự sức của chính mình mà đạt được ).16
   Chế độ quân chủ Việt Nam thời trước chẳng những quan tâm lắng nghe ý 
   kiến của người khác, của cả dân chúng, mà còn khuyến khích việc phát 
   biểu ý kiến. Từ đời nhà Lý trở đi, mỗi triều đại đều có lập những cơ 
   quan có nhiệm vụ phê phán những sai trái của triều đình, gọi là Ngự 
   sử Đài hay Đô sát viện . Ngoài ra, các quan chức khác hoặc thường 
   dân cũng có quyền dâng sớ lên vua để bày tỏ ý kiến của mình . Ông 
   Chu văn An dâng sớ xin vua chém đầu bảy nịnh thần vốn là bầy tôi yêu 
   quý của vua Dụ Tông ( thế kỷ 14 ) nhưng không được nhà vua chấp 
   thuận . Ông bèn từ quan . Sau đó nhà vua mời ông ra giúp nước, ông vẫn 
   từ chối. Thế mà nhà vua không xữ phạt ông như tội khi quân . Trái lại, 
   nhà vua còn tỏ ý kính trọng lòng cương trực của bậc sĩ phu . Cho đến 
   đời Minh mạng ( thế kỷ 19 ) nhà vua nhiều lần ngỏ ý muốn nghe 
   lời phê phán triều chính ngay thẳng của cấp dưới . Và quả thật, vua 
   Minh Mạng đã nghe và đã tôn trọng những ý kiến chánh đáng của cấp 
   dưói .17
   Nhà vua Việt Nam phần lớn biết tôn trọng ý dân, lấy dân làm gốc, tức 
   tôn trọng tinh thần dân chủ hay dân bản, quan tâm đến việc tổ chức 
   sự cai trị dân dựa trên luật pháp. Nhờ đó mà những quyền lợi chánh 
   đáng của dân được luật pháp bảo vệ . Mọi người không ai có thể vô cớ 
   bị những kẻ có nhiều quyền thế áp bức . Về mặt này, Việt Nam có hai 
   bộ luật được xữ dụng cho đến năm 1975 ( với nhiều cải tiến ), vẫn 
   còn tồn tại đến ngày nay để có thể nghiên cứu học hỏi . Đó là bộ 
   Quốc Triều Hình Luật, hay luật nhà Lê ( thế kỷ 15-18 ) và bộ 
   Hoàng Việt Luật Lệ hay Luật nhà Nguyễn ( thế kỷ 19-20 ) . 
   Hai bộ luật cổ này là sản phẩm của chế độ quân chủ nhưng lại chứa 
   đựng một nội dung có nhiều điểm tiến bộ hơn so với luật pháp của Tây 
   phương ngày nay. Theo đấy, án tử hình phải được nhà vua duyệt xét 
   rồi mới thi hành . Vua Minh Mạng thường bảo các quan chức rằng mạng 
   người rất quý nên các quan chức xữ án phải xem xét mỗi án tử hình 
   nhiều lần, dẫu cho nhà vua đã xem qua . Và phải tâu lại nếu thấy cò 
   chỗ đáng nghi ngờ . Đặc biệt, phụ nữ không bị án tử hình .18
   Các nhà vua thời trước còn cho phép và khuyến khích dân chúng đệ đơn 
   kêu oan cho bản thân hay cho người trong họ . Người dân còn được 
   phép đón đường vua đang đi để trình bày các nỗi oan ức của mình hoặc 
   đạo đạt nguyện vọng chánh đáng của địa phương . Vua Minh Mạng đã cho 
   đặt trống Đăng Văn để người dân có điều gì muốn trình tấu thì chỉ cứ 
   việc đánh trống . Các quan chức Lục Bộ và Đô Sát Viện đi theo nhà 
   vua để  thu nhận mọi thỉnh nguyện hoặc ý kiến phê phán chánh sách 
   cai trị của triều đình .19
   Dưới thời quân chủ cực thịnh ở Việt Nam, người dân có quyền tự do đi 
   học, đi thi và tham chánh . Về những quyền tự nhiên của con người, 
   người dân được luật pháp quân chủ bảo vệ tương đối tốt khi nhà vua 
   chu toàn thiên mệnh . Quan niệm về “ thiên mệnh ” và sự chu 
   toàn thiên mệnh ở Đông phương thời xưa  nhắc nhớ lại lý 
   thuyết chánh trị của Tây phương thời Trung cổ về “ Minh Vương ” ( 
   roi juste ). Quan niệm “ Minh Vương ” được ghi vào luật Trung cổ 
   như sau : “ Nhà vua được chọn và tấn phong để đem lại công lý cho 
   mọi người ”. Đem lại công lý cho mọi người, tức cho toàn dân, là ý 
   muốn nói nhà vua được chọn và tấn phong để phục vụ cho quyền dân sự 
   . Theo qưan niệm “ Minh Vương ” cũng như “ Thiên mệnh ” ở 
   Việt Nam thì Nhà nước quân chủ, ngay từ khi ra đời, hành sử chức 
   năng của vị “ thẩm phán tối cao ” và chính vì thế mà Nhà nước quân 
   chủ được hiểu như được thiết lập trên cơ sở luật pháp . Như vậy, 
   thuyết “ Minh Vương ” của thời Trung cổ Tây phương cho thấy luật 
   pháp là đại diện cho chủ quyền quốc gia . Luật pháp thể hiện chủ 
   quyền qua hành động của nhà cầm quyền . Nếu nhà cầm quyền - như nhà 
   vua - tự tách rời khỏi luật pháp thì sẽ không còn là vị “ Minh Vương 
   ” nữa, mà sẽ trở thành bạo chúa . Cũng như khi nhà vua không biết 
   cai trị nghiêm chánh thì vương hiệu “ vua ” sẽ bị mất .20 
   Ở Việt Nam thì “ thiên mệnh ” sẽ bị Trời thu hồi !
   Lúc bấy giờ ở Tây phương và Việt nam vì quyền dân chủ chưa 
   được biết đến nên chưa được thể chế hóa . Do đó, người dân chưa biết 
   hành sử “ quyền người dân ” của mình như ngày nay mà thôi . Đời sống 
   của họ, tốt hay xấu, hoàn toàn phụ thuộc vào tư cách cai trị của nhà 
   vua .
   DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ NÀO ?
   -         
   Ý NIỆM CƠ BẢN VỀ 
   DÂN CHỦ
   Như đã trình bày trên đây, Việt Nam cho đến ngày mất nước, vẫn chưa 
   có được một chế độ dân chủ hoàn chỉnh, tuy tinh thần dân chủ vẫn thể 
   hiện rõ nét qua nếp sống văn hóa dân tộc, ngay cả dưới thời quân chủ 
   . 
   Ngày mai này, khi chế độ cộng sản độc tài không còn nữa, người Việt 
   Nam sẽ phải thiết lập cho mình một chế độ chánh trị dân chủ để cai 
   trị đất nước, hầu giữ cho Việt Nam vĩnh viễn không còn bị một chế độ 
   độc tài nào trở lại nữa . Khi muốn làm dân chủ, chúng ta nên học hỏi 
   những kinh nghiệm lịch sử quí báu của các nền dân chủ Tây phương và 
   Huê kỳ, để giúp chúng ta hiểu rõ hơn những vấn đề sẽ đặt ra cho xứ 
   sở chúng ta và giúp chúng ta chủ động hơn trong việc giải quyết vấn 
   đề, vì các nền dân chủ ấy sẽ giúp chúng ta thấu hiểu ba ý niệm cơ 
   bản để xây dựng đất nước ngày mai . Đó là những quyền bất khả 
   nhượng, chủ quyền và dân chủ . Vậy :
           - những quyền bất khả nhượng  là những 
   “ quyền tự nhiên của con người ” mà mọi Nhà nước không thể tước đoạt 
   và cũng không thể ban phát cho chúng ta, bởi những quyền ấy là sở 
   hữu của chúng ta.21 Đó là quyền an ninh thân
   thể, quyền tự do tinh thần và quyền chống lại áp 
   bức của Nhà nước . Các dân tộc Anh, Mỹ, Pháp 
   đã nhơn danh những quyền này làm những cuộc cách mạng của họ, ngày 
   nay đem lại cho họ một đất nước dân chủ tự do và phú cường.
   -  Chủ quyền 
   quốc gia thuộc về toàn dân, nghĩa là người dân tự mình cai trị
   chính mình .  
   -  Dân chủ 
   là sự cai trị bởi dân và vì dân .
   Chúng ta nên nhớ dân chủ không phải được định 
   nghĩa bởi nguồn gốc quyền lực, mà do người dân bị 
   cai trị có kiểm soát được thường xuyên và hữu hiệu người cầm quyền 
   cai trị mình hay không. Dân chủ như vậy thực sự chỉ là những 
   định chế do người dân thiết lập ra để thực hiện an ninh trong xã 
   hội và bảo vệ những quyền tự do căn bản của họ . Trong một chế độ 
   dân chủ tự do, Nhà nước không gì khác hơn là một tập hợp những 
   định chế do con người sáng tạo . Quyền lực cho phép Nhà nước 
   hành sử chức năng của mình mà không cho phép Nhà nước có quyền đứng 
   trên xã hội . Bởi trong chế độ dân chủ, luật pháp biểu thị chủ quyền 
   quốc gia . Nói cách khác, dân chủ thật sự thì phải là dân chủ 
   pháp trị.
   -         
   NGỘ 
   NHẬN VỀ DÂN CHỦ
   Khi nói dân chủ, trong số những nguời Việt Nam 
   ngày nay ở hải ngoại tranh đấu cho dân chủ, có người cổ súy dân
   chủ đa nguyên để nhằm phản bác lại thứ dân chủ mà cộng sản Hà 
   nội đang hô hào xây dựng cho Việt Nam, đó là dân chủ xã hội chủ 
   nghĩa .
   Cụm từ “ dân chủ đa nguyên ”rất gợi hình, 
   nên làm cho nhiều người tưởng tượng rằng trong nền dân chủ ấy, nhiều 
   sự khác biệt được tôn trọng . Phải chăng phải “đa nguyên ” 
   mới nói lên đầy đủ những đặc thù về chánh trị, văn hóa, xã hội,…của 
   một quốc gia ? Còn đa nguyên dân chủ nữa ? Nhưng, nếu suy nghĩ về 
   mặt thể chế thì sẽ thấy “đa nguyên ” lại không giúp hội ý 
   được về cơ sở của một nền dân chủ . Như vậy, phải chăng khi nói “ 
   dân chủ đa nguyên ” là muốn đem cái “ dân chủ đa nguyên ” ấy đối lập 
   với “ dân chủ xã hội chủ nghĩa ” mà thường bị hiểu sai lạc là “ 
   dân chủ tập trung ” ? Thật ra không có dân chủ tập trung.
   Theo người cộng sản, thì về thể chế chánh trị, 
   đại loại chỉ có hai nền dân chủ hoàn chỉnh và phổ biến hơn hết. Đó 
   là dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hai nền 
   dân chủ này được định hình trên hai hình thái kinh tế khác nhau : 
   kinh tế tư sản và kinh tế tập trung, tức kinh tế xã hội chủ nghĩa. 
   Như vậy, rõ ràng với người cộng sản không có “ dân chủ tập trung ” 
   như bị hiểu sai lạc, mà chỉ có “ dân chủ xã hội chủ nghĩa ” và 
   tập trung dân chủ .
   Khi nói đến dân chủ xã hội chủ nghĩa, thì về 
   phương diện hoạt động và thể chế, dân chủ phải có quan hệ hữu cơ, 
   gắn liền với tập trung để “ chế độ dân chủ kết hợp chặt chẽ với chế 
   độ tập trung ”. Từ mối liên hệ này, tập trung dân chủ trở thành một 
   nguyên tắc, một đòi hỏi tất yếu trong thể chế của chủ nghĩa xã hội. 
   Đây là “ nguyên tắc cốt tủy ” của đảng cộng sản trong lãnh đạo chánh 
   trị đối với xã hội và lãnh đạo Nhà nước .22 Nguyên 
   tắc tập trung dân chủ cho phép người cộng sản đảm bảo cho đảng cộng 
   sản có sức mạnh thống nhứt về tư tưởng, chánh trị và tổ chức, để 
   biểu hiện và khẳng định đó là đảng cầm quyền, tập trung vào đảng 
   trọn vẹn quyền lực quốc gia để thực hiện một chế độ độc tài toàn trị 
   trên cả nước .
   Như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa hay tập trung 
   dân chủ chỉ là phương pháp thi hành quyền lực lên xã hội dưới 
   sụ lãnh đạo của đảng cộng sản, chớ hoàn toàn không có gì liên hệ đến 
   quyền của người dân làm chủ đất nước và vận mạng của mình hết cả . 
   Bởi dân chủ xã hội chủ nghĩa hay tập trung dân chủ không tôn trọng 
   nguyên tắc căn bản là chủ quyền quốc gia thuộc toàn dân, nên người 
   dân không có quyền kiểm soát nhà cầm quyền và quyết định nhiệm kỳ 
   cầm quyền . Thực tế ở Việt Nam ngày nay cho thấy người dân bình 
   thường, không phải đảng viên đảng cộng sản chẳng những không có 
   quyền tham gia chánh sự như dưới thời quân chủ, mà còn không có 
   quyền phát biểu ý kiến khác hơn ý kiến của nhà cầm quyền . Những bản 
   án những nhà dân chủ ở việt nam ngày nay như Ls 
   Lê thị Công Nhân, Ls Nguyễn văn Đài, Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn,… 
   là bằng chứng điển hình. Những người này ở tù chỉ vì đã không biết “ 
   nghĩ trong những điều đảng nghĩ ” !
   Tóm lại, « dân chủ xã hội chủ nghĩa », « Dân 
   chủ nhơn dân »,…đều không phải là dân chủ, mà đó chỉ là những mỹ 
   từ trang điểm cho chế độ độc tài toàn trị theo ý hệ cộng sản . Dân 
   chủ đa nguyên, tuy phản bác lại dân chủ xã hội chủ nghĩa, 
   nhưng chỉ mới đọng lại ở từng gợi hình mà thôi . Ta có thể nói dùng 
   cụm từ “ dân chủ pháp trị ” để chỉ nền dân chủ thật sự, hàm 
   chứa đầy đủ ý nghĩa chánh trị của một chế độ dân chủ của dân và vì 
   dân . Dân chủ pháp trị sẽ áp dụng ở Việt Nam để vĩnh viễn thay thế 
   chế độ cộng sản ngày nay . Xây dựng cho Việt Nam một chế độ dân chủ 
   chẳng những không xa lạ, mâu thuẫn với tinh thần truyền thống dân 
   tộc, mà còn là mong đợi thiết tha của toàn dân ngày nay .  
   
   -         
   MỘT 
   LIÊN BANG CHO VIỆT NAM
   Về mặt tổ chức lãnh thổ, thiết tưởng nên tổ chức 
   Việt Nam thành một Cộng hòa liên bang (Cộng hòa liên bang 
   Việt Nam ) . Liên bang để thống nhứt đất nước trong sự tôn 
   trọng những đặc thù địa phương do lịch sử để lại trên một lãnh thổ 
   có chiều dài hơn 2000 km (dân số với mật độ khác nhau, tài nguyên, 
   nhơn lực, không được phân phối đồng đều, nhiều vùng địa lý khác nhau…) 
   .
   Cũng giống như tổ chức thể chế chánh trị, liên 
   bang ở Việt Nam chắc chắn sẽ không tạo ra những xung đột xã hội, bởi 
   nếu trở về đầu thế kỷ XIX, chúng ta sẽ thấy vua Gia Long đã tổ chức 
   nước Việt Nam thành nhiều vùng nhằm đáp ứng những đặc tính 
   tâm lý và địa phương khác nhau ( miền Trung gồm 4 doanh, 7 trấn ; 
   miền Bắc gồm 5 nội trấn và 6 ngoại trấn ; miền Nam gồm 5 trấn ). 
   Lui về thời gian, xã thôn Việt Nam vẫn giữ được nhiều quyền tự trị 
   đối với triều đình. Chánh quyền xã thôn hoàn toàn do dân chọn lựa 
   theo tiêu chuẩn tài đức . Nhìn Việt Nam qua hệ thống xã thôn tự trị, 
   người ta có cảm tưởng như đó là một liên bang xã thôn . Địa 
   phương tản quyền, trung ương tập quyền. Tản mà hợp . Đây là sức mạnh 
   dân tộc, bởi hạ từng cơ sở Việt Nam là một hệ thống hài hòa, sinh 
   động, toát lên một tinh thần đoàn kết toàn dân đích thực !   
   
KẾT LUẬN
   Việt Nam hiện tại bị cai trị bởi một chế độ cộng 
   sản độc tài toàn trị . Thật bất hạnh ! Nhưng trước đây, ai có thể 
   nói Liên Xô và Đông Âu sẽ sụp đổ ? Điều quan trọng là Việt Nam có 
   một nền văn hóa chánh trị dân chủ đích thực . Người cộng sản, cả Hồ 
   chí Minh, hoàn toàn không hiểu biết về văn hóa dân chủ, nên chế độ 
   cộng sản đang cai trị Việt Nam không do người Việt Nam chọn lựa và 
   chấp nhận, mà do cộng sản lợi dụng được hoàn cảnh lịch sử cướp chánh 
   quyền, áp đặt lên đất  nước . Đó thật sự chỉ là tai nạn lịch sử nhứt 
   thời . Mà quá trình cộng sản cũng đã kết thúc ! Tai nạn lịch sử này 
   sẽ phải được dẹp bỏ . Người Việt Nam sẽ cùng nhau tái lập dân chủ 
   cho đất nước . Dân chủ được tái lập, tức dòng văn hóa Việt được khai 
   thông . Sự tái lập sẽ được thể chế hóa theo hiến định .
   Biến cố Đông Âu và Liên xô sụp đổ trọn vẹn sẽ 
   giúp cho người Việt Nam, và nhứt là người cộng sản, rủ bỏ ảo tưởng 
   rằng một khi đất nước bị cộng sản cai trị thì đời đời sẽ “ cộng sản 
   ”, không ai có thể thay đổi được bởi mọi hiện tượng chống đối,
   phản kháng đều bị nhà cầm quyền độc tài dập tắt, đàn áp dã man
   . Người cộng sản Hà nội phải thấy những biến cố ở Đông Âu và 
   Liên xô là những bài học quí báu về chuyển hóa đất nước từ cộng sản 
   qua dân chủ mà không đổ máu . Những quốc gia cựu cộng sản này, ngày 
   nay đã thực sự ổn định để bắt đầu hội nhập vào cộng đồng Âu châu và 
   thế giới . 
   Đó là những tiền lệ lịch sử chánh trị, những tấm 
   gương sáng về chuyển hóa dân chủ mà Hà nội cần sớm học hỏi để áp 
   dụng . Ngày xưa nỗi nhục mất nước đã thôi thúc nhìều người dấn thân 
   tranh đấu giành độc lập . Ngày nay, đất nước không có dân chủ, tức 
   người dân không có chủ quyền trên đất nước của mình, cũng là một nỗi 
   nhục lớn không khác gì nỗi nhục mất nước ! Ý thức được nỗi nhục này 
   sẽ thôi thúc mọi người, như trước kia, phải dấn thân tranh đấu cho 
   dân chủ . Bởi Việt Nam cần phải có dân chủ và phải có sớm, chẳng 
   những có dân chủ để giúp động viên nội lực toàn dân phát triển đất 
   nước, kịp sớm đưa đất nước thoát tình trạng khủng hoảng hiện nay, mà 
   dân chủ còn giúp Việt Nam chủ động được trong mọi tình huống, nhứt 
   là để đối phó với hiểm họa mất đất, mất chủ quyền quốc gia trước chủ 
   trương bá quyền của phương Bắc . Dân chủ để mọi người Việt Nam tìm 
   lại cho mình quyền làm một con người.
   Hơn nữa, về mặt địa lý chánh trị, Việt Nam cần 
   một chế độ dân chủ để hội nhập hài hòa với các nước dân chủ tự do 
   trong vùng, tạo được niềm tin chánh trị bởi cùng một thể chế .
   
   Ngày nay, Đông Nam Á vẫn còn là vùng tranh chấp, 
   xung đột, làm trở ngại cho nhiều dự án phát triển của các quốc gia 
   địa phương, do thiếu ổn định . Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) 
   là một nỗ lực lớn từ hơn bốn mươi năm nay, giúp các quốc gia hội 
   viên trao đổi, hợp tác và phát triển . Nhưng ASEAN không đủ khả năng 
   giữ vững quốc phòng chung, để có thể bảo đảm an ninh quân sự địa 
   phương . Vì tầm quan trọng chiến lược vùng Nam Thái Bình Dương, mà 
   một tổ chức có khả năng quốc phòng cao như Tổ Chức Liên Phòng Đông 
   Nam Á ngày xưa ( SEATO ) cần sớm được các nước trong vùng bắt 
   tay nhau vận động thành lập . Úc và Tân Tây Lan sẽ là hai nước có 
   vai trò đem lại những nỗ lực đóng góp lớn và cụ thể, do đã có những 
   liên hệ chặt chẽ và lâu đời với các quốc gia trong ASEAN .
   Trước những nỗ lực an ninh và phát triển địa 
   phương ấy, Âu châu và Huê kỳ chắc chắn sẽ không có lý do gì khác hơn 
   để giữ thái độ thờ ơ mà không tích cực hợp tác . Vùng Đông Nam Á sẽ 
   trở thành một khối có quốc phòng vững mạnh, giúp cho các quốc gia 
   thành viên an ninh được bảo đảm, chỉ còn dồn nổ lực cho phát triển . 
   Mọi âm mưu bá quyền sẽ không còn lý do để tồn tại . 
    ___________________
   Ghi chú
   :1    Trần 
   văn Ân, Hình thành nền triết lý Nhà nước, Saigon, 1971.
   2    Kim 
   Định, Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây, Saigon, 
   1969
   3    Nguyễn 
   đăng Thục, Vũ trụ Âm Dương, Sử địa số 5, Saigon, 1967.
   4    Kim 
   Định, sđđ.
   5  Hồ sĩ 
   Khuê, Hồ chí Minh, Ngô đình Diệm, Mặt trận Giải phóng miền Nam, 
   Văn nghệ, Huê kỳ, 1992.
   6   Trần văn 
   Ân, sđđ
   7   Hồ sĩ 
   Khuê, sđđ
   8   Hồ sĩ Khuê, sđđ
   9   Paul Mus, La sociologie d’une guerre, 
   Paris,1952.
   10  Paul Mus, 
   sđđ
   11  Mgr. Pugignier, 
   Archives, MEP. Paris.
   12  Bernard Fall, Les deux Vietnam, Paris, 1967.
   13  Milovan Djilas, La nouvelle classe, Plon, 
   Paris, 1962
   14  Kim Định, Căn bản triết lý trong văn hóa Việt Nam, 
   Saigon, 1967.
   15 Thư kinh Châu thư, được Nguyễn ngọc Huy trích dẫn 
   trong “ Địa vị Hồ chí Minh trong diễn tiến Nhơn-quyền ở Việtnam 
   ” ( Sự thật về thân thế và sự nghiệp ), Nam Á, Paris, 1990.
   
   16  Thư kinh Châu thư, Nguyễn ngọc Huy trích dẫn, sđđ
   17  Nguyễn ngọc Huy, sđđ
   18  Nguyễn ngọc Huy, Quốc triều Hình luật, Canada, 
   1988.
   19  Minh Mạng chánh yếu, Nguyễn ngọc Huy trích dẫn, nt
   20  Michel, Senillart, La théorie médiévale et la 
   raison d’Etat, Paris, 1989.
   21  Fitche, Considérations sur la Révolution française 
   1793, Paris.
   22  Nguyễn tiến Phồn, Dân chủ và tập trung dân chủ, 
   Hànội, nhà xb Chánh trị Quốc gia, 2001.
