Môi trường và con người ở miền Sông Tiền, sông Hậu

GS. Thái Công Tụng

 

Môi trường và con người ở miền Sông Tiền, sông Hậu

1.     Nhập đề
Ngày nay, với thế kỷ 21, nhiều vấn đề môi sinh được đặt ra, vì dân số tăng, vì ô nhiễm, vì tài nguyên thiên nhiên thì có hạn mà sự tiêu thụ thì vô hạn; mãi đến những năm cuối cùng của thế kỷ 20, vào năm 1992, nhiều xứ họp tại  Rio ký bản thoả ước về bảo vệ tài nguyên trên trái đất, rồi đến hiệp ước Kyoto về giới hạn các sự phát thải các khí  trên bầu trời ... Dĩ nhiên các đề tài  của những năm cuối thế kỷ 20 sẽ là tiền đề cho các cuộc thảo luận và thực thi để bảo vệ ngôi nhà chung của thế giới tránh khỏi các phá hủy môi sinh như phá rừng, nạn nhân mãn, thiên tai, sự liên hệ môi sinh và sức khoẻ, sự trở về thiên nhiên nối tâm linh vào khoa học. 
Những danh từ mới về môi sinh đua nhau xuất hiện vào các năm cuối thế kỷ 20 như sinh khối (biomass), kiểu sinh học (biotype), sinh cảnh (biotope), quần xã sinh vật (biome), hệ sinh thái (ecosystem), ổ sinh thái (ecological niche), đa dạng sinh học (biodiversity), bền vững (sustainability), lỗ hổng ozon,  sự sưởi ấm toàn cầu (global warming), tái chế biến.. Các tổ chức bảo vệ môi sinh ra đời, đặc biệt nhất là tổ chức phi chính phủ Green Peace. Rồi ngày Earth Day xuất hiện, trong đó nhiều công dân đứng ra tổ chức vận động các chính phủ khuyến cáo các nhà lãnh đạo về năng lượng sạch, tiết kiệm năng lượng. Chân trời của thế kỷ 21 khác với chân trời thế kỷ 20.  Phát triển bền vững trong môi sinh là một vấn đề liên ngành vì nó liên quan đến nhiều thông số của trái đất: giáo dục, kinh tế, dân số, an toàn lương thực, bảo vệ môi sinh; do đó tiếp cận nhiều chiều kích nhằm tìm toàn bộ các khía cạnh văn hoá, môi sinh, kiến thức bản địa, kinh tế để cứu xét vấn đề, ngày nay đã trở nên thông thường.
Bài này chỉ giới hạn trình bày một góc nhìn môi sinh tại đồng bằng sông Cửu long (ĐBCL), quê hương của người dân sông Tiền, sông Hậu và tương tác giữa các yếu tố môi sinh và các vấn nạn môi sinh ngày nay.

2.     Các hệ sinh thái
Hệ sinh thái bao gồm cả quần thể với môi trường quanh ta như như đất: đất phù sa ven sông, đất phèn, đất mặn, đất cát ven biển.., như nước: lụt lội, hạn hán, chất lượng của nước như nưóc mặn, nước lợ, nước ngọt, như không khí ta thở: không khí trong lành, không khí ô nhiễm. Cả ba yếu tố nước, đất, không khí có tác động hỗ tương lên nhau. 
Có bốn thành tố quan trọng trong môi sinh là: thạch quyển tức đá đất, thủy quyển như sông nước, sinh quyển như động vật, thực vật, khí quyển như không khí, bầu trời, khí hậu.

Ảnh hưởng qua lại giữa các yếu tố môi sinh
Sơ đồ trên giúp ta hiểu rõ các mối tương quan giữa nhiều thành tố của môi sinh: khí quyển, thổ quyển, thủy quyển và các thành tố này có ảnh hưởng tương tác nhau. Không có một thực thể nào đứng riêng biệt trên trái đất này.
Khí quyển là không khí ta thở, là mặt trời, là ánh sáng ban mai, là hoàng hôn khi trời lặn, là hai mùa mưa nắng...
Thủy quyển là dòng sông Tiền, sông Hậu, là kinh rạch ngổn ngang trong đó tôm cá, ốc, nghêu sinh trưởng cung cấp cho ta thức ăn hàng ngày mà nếu các hoạt động kỹ nghệ cứ xả nước thải ra không xử lý thì tôm cá chết hay ăn phải ngộ độc. Thạch quyển tức đá mẹ sinh ra đất nuôi ta với lúa, khoai, cây ăn trái.
Sinh quyển tức các sinh vật như nhờ có tác động của con người mới khai thác được: con người đã phải đào không biết bao nhiêu là kinh rạch, nào kinh Vĩnh Tế, kinh Đồng Tiến, kinh trong Đồng Tháp.. để xả phèn, để thoát thủy và cũng con người đã phải đắp đê ven biển, làm cống ngăn mặn .
Và các tương quan, tương tác giữa các thành tố trên như sau:
Tương quan Thủy quyển-Sinh quyển:
Nước ảnh hưởng và có nhiều tương quan với sinh vật vì nhờ nước tưới ruộng nương, vườn tược; nước chứa nhiều tài nguyên như tôm, cá; nước giúp thuyền bè di chuyển trên kinh rạch
Tương quan Khí quyển-Thạch quyển:
Khí quyển với không khí, nhiệt độ, mưa nắng hai mùa ảnh hưởng đến đất đai; nhiệt độ khí quyển có ảnh hưởng đến nhiệt độ đất. Miền nam, nhờ nhiệt độ nóng quanh năm nên có thể làm nhiều vụ trồng trọt quanh năm, khác với Canada, mùa đông, không trồng tỉa gì được
3. Tổng quan về môi sinh ĐBCL
Đồng bằng này bằng phẳng với mạng lưới sông ngòi, kinh rạch ngổn ngang làm cho toàn vùng đều chịu ảnh hưởng của thủy triều hình thành những loại hình nơi  mặn, nơi  chua, nơi  cả  mặn lẫn chua, nơi  bị  ngập  lụt và phèn nặng .
 Nông dân có vô số từ ngữ để gọi kinh rạch: ngoài các chữ thông dụng như sông, ngòi, mương, lạch, kênh, bàu, ao, hồ, v.v  còn có thêm rạch, xẻo, ngọn, rọc, lung, láng, bưng, biền, đầm, đìa, trấp, vũng, trũng, gành, xáng .
Môi trường sông nước với thủy triều lên xuống cũng có nhiều từ ngữ: ngoài chữ nước lớn (thủy triều dâng) và nước ròng (thủy triều hạ), còn có nước giựt, nước bò, nước nhảy, nước đứng, nước nằm.
Cũng là người Việt di dân, cũng là văn hoá nông nghiệp, nhưng khi người Việt từ miền Thuận Quảng vào vùng đất mới sình lầy vùng đồng bằng sông Cửu long, phải trải qua một quá trình thích ứng nên văn hoá cũng hơi biến đổi :
Người đi dao rựa dắt lưng
Ngó sông sông rộng, ngó rừng, rừng cao
Cũng là miền đồng bằng phù sa mới bồi đắp do biển cả trước kia là một vịnh, cũng có đất phù sa, đất phèn, đất mặn nhưng miền này không bị lụt lội tàn phá như châu thổ sông Hồng. Thực vậy, dòng sông Cửu Long rất dài và đã trải qua nhiều xứ duyên hà như Nam Trung Hoa, Miến Điện, Ai Lao, Kampuchea trước khi vào lãnh thổ miền Nam Việt nam; ngoài ra, nhờ Biển Hồ của Kampuchia trữ được nước lụt rất nhiều và chỉ từ từ hạ nước xuống, đem theo muôn vàn cá con về miệt Kiến Phong, An Giang làm giàu thủy sản nước ngọt ở đây.
4. Các loại đất chính miền Châu Thổ Cửu Long
 Đất cát giồng
Các loại đất cát giồng được thành lập do sóng biển và gió dồn cát lại mà thành. Giồng có địa hình cao hơn các đơn vị trầm tích khác kế cận. Những giải đất giồng chứng tỏ đó là những bờ biển ngày xưa, nay ở trong sâu vì châu thổ tiến dần ra biển. Có thể gặp nhiều giồng dưới dạng những hình vòng cung song song với bờ biển, rải rác ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh (huyện Cầu Ngang, Trà Cú ..) ..Càng gần biển thì tuổi các giồng cát càng trẻ hơn. Đất giồng thường cao ráo nên là nơi có tập trung nhiều làng mạc.
 Đất mặn
Ven biển có nhiều đất mặn, có thảo mộc thiên nhiên là rừng sát gồm cây bần, cây đước, sú vẹt là những thảo mộc chịu mặn:
Quê hương tôi đất mặn đồng chua
 Những đất mặn ở dưới rừng ngập mặn, bị ngập nước triều quanh năm; ngoài ra cũng có những đất mặn không bị ngập triều mà chỉ bị mặn trong mùa khô, thường có cao độ 0.5-0.8 mét .Đất mặn gặp các vùng duyên hải như ở huyện Bình Đại, Thạnh Phú, Ba Tri tỉnh Bến Tre, ở huyện Cầu Ngang, Trà Cú tỉnh Trà Vinh và dĩ nhiên các huyện tỉnh Cà Mau. Vùng duyên hải ven biển, với những 'chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm, nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ', trong một khung cảnh 'khi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng' (Tế Hanh) là những phong cảnh thường gặp.
Trong khung cảnh môi sinh của các rừng ngập mặn, có nhiều đàn cò trú ẩn:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa, sương xuống dần (Xuân Diệu)
Những đàn cò trên cánh rừng làm ta bất giác nghỉ đến ca dao:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Những vùng trước kia là biển nay có nhiều đất phèn.
Đất phèn 
Nhóm đất phèn chiếm nhiều diện tích nhất và có thể gặp:
-vùng Đồng Tháp Mười (các tỉnh củ Kiến Tường, Kiến Phong)
-vùng Tứ giác Long Xuyên (An Giang, Kiên Giang)
Hàm lượng phèn biến đổi theo thời gian và không gian; thực vậy, nước phèn di  chuyển từ vùng cao đến vùng thấp trũng, kéo phèn xuống tích tụ ở các rốn phèn tức những lòng chảo, hứng phèn của các vùng cao xung quanh. Trong mùa mưa, nước lôi phèn xuống các rốn phèn, liên tiếp dồn phèn xuống làm cho dung dịch phèn ngày càng đậm đặc nên các vùng này phải bỏ hoang.
Những chỗ phèn nhiều như Đồng Tháp Mười thì nước kinh rạch rất trong veo vì phèn là những chất sunfat alumin; các chất này hợp với các giao chất sét nên các chất sét bùn trong dung dịch bị kết tủa và lắng chìm: 
Cụ Nguyễn Du nói cuộc đời Kiều, muốn êm xuôi mà ' hết nạn nọ đến nạn kia'  cuộc đời vẫn lên xuống, đã dùng 2 câu thơ sau đây so sánh với nước đã đánh phèn mà bùn cứ không chịu trầm tích trong dung dịch :
 Tiếc thay nước đã đánh phèn
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần. (Kiều)
Đất phù sa
 Đất này được hình thành dọc theo các dòng sông lớn như sông Tiền, sông Hậu. Phù sa ven sông thường ở địa hình cao hơn là các phù sa ở xa sông; độ cao của các bờ sông phụ thuộc vào lượng phù sa và chế độ thủy văn của sông. Ta có thể phân biệt:
Đất phù sa địa hình cao có thể trồng lúa 2-3 vụ hoặc lúa+màu
Đất phù sa địa hình thấp thường ngập nước và chua
Các loại đất phù sa mới được hình thành cách đây chỉ khoảng 6 000 năm nay và không có lớp laterit hoặc sạn sỏi. Có giá trị lớn về mặt nông nghiệp: cây ăn trái, rau cải, hoa màu
Đất than bùn
Nhiều ở rừng U Minh, giàu lớp hữu cơ. Hiện nay, nhiều rừng tràm bị đốt cháy nên lớp hữu cơ cũng bị mất đi và do đó diện tích đất hữu cơ càng hẹp dần.
Đất xám
 Đất xám trên phù sa cổ (địa hình cao) thường gặp tại các vùng ranh với biên giới Campuchia như Mộc Hoá, Hồng Ngự, Đức Huệ. Trong đất loại này, có lớp laterit dưới sâu. Tuổi tuyệt đối dùng phương pháp C14 quãng 40 000 năm

5. Nước như một yếu tố môi sinh
Tục ngữ ta có câu: 'Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống' đủ thấy ngay tầm quan trọng của yếu tố nước. 
Nói đến ĐBCL là nói ngay đến nước: thực vậy, kinh rạch ngổn ngang, bàu, ao, sông sâu sóng cả. Tuy nhiều nước như vậy nhưng không phải muốn sử dụng là được: tại vùng Đồng Tháp Mười thì nước phèn, tại vùng duyên hải lại gặp nước mặn, nhất là vào mùa khô. Đó là chưa kể nước sinh hoạt sạch thì vẫn thiếu. Nước lũ sông Cửu Long 40 ngàn m3/ giây, gấp đôi lũ sông Hồng nhưng nhờ có Biển Hồ nên chỉ dâng lên từ từ để làm ngập trên cả triệu mẫu đất trong vùng Châu thổ. Lưu lượng con sông ấy mùa nước kiệt chỉ có 2000 m3/giây từ tháng 3 đến tháng 5 trong khi nhu cầu nước cho sinh hoạt châu thổ trong khoảng thời gian này là 4 tới 5 ngàn m3 /giây và nhu cầu ấy dự trù tăng gấp đôi vào giữa thế kỷ 21. Vào mùa mưa, nhờ lưu lượng nước khá lớn nên có thể đẩy lùi nước mặn từ dòng sông chính và kênh lớn ra biển còn vào mùa khô nước triều biển Đông xâm nhập sâu vào nội địa nên nhiều khu vực bị nhiễm mặn, không trồng lúa được.
Sông Tiền và sông Hậu vừa chuyển vận một dòng nước khổng lồ mang theo hàng trăm triệu tấn phù sa mỗi năm nên động lực dòng nước lủ đã đào xới đáy lòng sông và xói mòn bờ sông để bồi đắp chỗ khác nên tạo ra một mạng lưới sông với cù lao hoặc cồn 'lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu', có nơi uốn khúc, nhiều nơi bãi bồi, nhiều chỗ sụt lở đất bờ sông (Tân Châu)
Nhiều ca dao phản ánh kinh rạch chằng chịt với ghe thuyền buôn bán:
-Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống bưng sợ đĩa lên rừng sợ ma
-Ghe anh đỏ mũi xanh lường,
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em
-Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Có thương em, anh mua cho một chiếc đò
Để em lên xuống thăm dò ý anh
-Anh đi ghe gạo Gò Công
Vô vàm Bao Ngược, gió giông đứt buồm
-Bước xuống bắc Mỹ Tho, thấy sóng xô nước đẩy
Bước lên bờ Rạch Miễu, thấy nước chảy vòng quanh
Anh biết chắc nơi đây là đất Châu thành
Sao tìm hoài không thấy trong đám bộ hành có em
Kinh rạch, sông ngòi là nơi gặp đủ loại ghe buôn bán, chuyên chở hàng hoá và những câu hò chèo thuyền (hò Đồng Tháp, hò Bén Tre, hò Sa dec..) đối đáp của trai  gái  là cả một kho tàng văn học dân gian. Điệu hò mộc mạc, khoan thai từ những ghe thuyền lờ lững trên kinh rạch và phản ánh tình yêu đương trai gái, rất trữ tình:
Chim buồn tình, chim bay về núi
Cá buồn tình, cá lủi xuống sông
Anh buồn tình, anh dạo chốn non Bồng,
Dạo miền sơn cước, xuống tới chốn ruộng đồng mới gặp được người thương
Tình yêu trắc trở, người con gái phải bỏ người yêu để đi lấy chồng như trong thơ của T.T.K.H:
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi người ấy có buồn không
Nhưng chàng trai cũng không oán người yêu:
Ra đi anh có dặn rằng
Đâu hơn bậu lấy, đâu bằng đợi anh
Dọc kinh rạch, người nông dân không có phương tiên bác cầu sắt nên chỉ làm tạm cầu tre:
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo, gập ghềnh khó đi
Khó đi, mẹ dắt con đi
Con đi trường học, mẹ đi trường đời
Và gặp sông lớn, đò đông người thì hãy nhớ những lời khuyên của người mẹ:
Ra đi mẹ có dặn dò
Sông sâu đừng lội, đò đầy đừng đi
Hò trên bộ (có chỗ còn gọi là lý) như hò cấy lúa, gặt lúa đêm trăng. Hò dưới sông thì có hò chèo ghe, đem theo chút thi vị trên sông nước bồng bềnh:
Nước chảy lơ đờ, đôi bờ xuôi ngược
Đường đi non nước rộng rãi, thênh thang
Ta vui đi khắp xóm làng
Mặc cho chớp biển, mưa ngàn vẫn vui
hoặc:
Đèn treo ngọn ái, nước xoáy gò ân
Phải lương duyên thì xích lại cho gần
Kẻo mai kia vắng mặt, hai đứa thầm nhớ thương
Gặp anh vô cớ, em chẳng dám nhìn
Sợ chị lớn ở nhà, chị sanh tâm biến tính, hốt lửa lôi đình
Chỉ rình ngã ba, chỉ đón ngã bảy, không biết chết mình hay hại em
Chất lượng của nước
Trong ĐBCL, có 4 loại nước khác nhau: nưóc ngọt, nước phèn, nước lợ, nước mặn
Nước ngọt (không phải là nước xá xị đâu!) có những đặc tính như nưóc mưa, uống được, dùng trong sinh hoạt
Nước phèn là nước chứa nhiều sắt và nhôm, có nồng độ acid lớn nên không uống được
Nước lợ (nước chẻ hai) là nước pha giữa nước ngọt và nước mặn, gặp ở các vùng trung gian giữa ngọt và mặn
Nước mặn là nước gần vùng cửa biển chứa nhiều clorua natri (ClNa)
Vào mùa nắng, lưu lượng dòng sông thấp nên nước mặn từ các cửa biển vào sâu trong nội địa hơn mùa mưa
Thủy triều
Cũng như nhiều nơi trên thế giới, miền biển châu thổ Cửu long có 2 thủy triều lên và 2 thủy triều xuống trong 24 giờ (chế độ bán nhật triều), còn miền biển Bắc bộ chỉ có một lần thủy triều lên và một lần thủy triều xuống (chế độ nhật triều).Đó là vì có nhiều yếu tố khác như dạng bờ biển, chiều sâu đại dương ..
Nước lên-nước xuống chi phối đời sống dân ven biển. Một chu kỳ biến động của mực nước-từ lúc nước biển rút xuống đến mức tối đa đến lúc nước biển lên cao đến mức tối đa- kéo dài 15 ngày và được gọi là một con nước .Như vậy, mỗi tháng có 2 con nước.
Tuy miền châu thổ Cửu long có chế độ bán nhật triều (biển Đông)  nhưng biên độ triều của hai lần không đều nhau : ta có nước lớn cao, nước lớn thấp, nước ròng cao, nước ròng thấp; như vậy, ở đây mỗi ngày 24 giờ có một lần nước lớn cao, một lần nước lớn thấp, một lần nước ròng cao, một lần nước ròng thấp .Nhìn nước lớn, nước ròng, nhìn cuộc đời sớm còn, tối mất, người ta ca rằng:
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê
Trước khi đổi con nước, dòng sông ngưng hẳn, gọi là nước đứng:
Nước không chưn sao kêu bằng nước đứng
Cá không giò sao gọi con cá leo?
Mực nước thủy triều có ảnh hưởng lớn đến đồng bằng, từ chuyên chở trên sông rạch đến nông nghiệp. Nước triều cao sẽ dễ dàng lấn sâu vào nội địa và làm nhiễm mặn nước sông và đất đai.Tại vùng châu thổ Cửu long, ảnh hưởng của thủy triều có thể lên đến Nam Vang, còn nước mặn ảnh hưởng nhiều vùng duyên hải như Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà. Mau


Hệ thống sông ngòi miền Nam với các cửa sông Cửu Long: Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Định An, Cung Hầu, Ba Sắc, Tranh Đề (riêng Bến Tre đã có 4 cửa là Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên). Nhưng trong tương lai, sông Cửu Long sẽ chỉ ra biển bằng 8 cửa vì sẽ đắp đập ngăn sông Ba Lai biến sông này thành hồ chứa nước ngọt
6. Khí hậu, một yếu tố môi sinh
Khí hậu là gió, mưa, giông bão, nó tác động lên nhiều yếu tố môi sinh khác như đất đai, hoa màu, nước, sông ngòi, xói mòn, sập lở. Trong văn học dân gian, có vô vàn những câu tục ngữ, ca dao đúc kết các kinh nghiệm của nông dân vì nông dân phụ thuộc nhiều nhất vào khí hậu trong công việc đồng áng:
Trông trời trông đất trông mây
Cũng có nhiều vè nắng hạn như:
Kẻ thời cầm ruộng bán trâu
Không mưa thấy nắng nghĩ lâu thêm sầu
Nắng sao ông nắng li bì
Ngày thời dàng dặc còn gì ruộng nương
Thấy trâu kêu thảm kêu thưong
Nắng sao hết nước, còn xương với sừng
Nắng qúa, không mưa nên chất mặn mao dẫn lên lớp đất mặt không thể cấy lúa được, nhất là tại các ruộng cao:
Ruộng sâu cấy đặng, ruộng đèo khô rang
 Cũng có thể gặp nhiều trận bão từ biển Đông nên dễ xảy đói kém thổi tới, làm ghe thuyền đánh cá chìm ngoài duyên hải, cây cối trong vườn bị cuốn trôi
7. Thảo mộc như một yếu tố môi sinh
Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long trưóc kia toàn là rừng với đầm lầy; vì chỉ mới lồi ra khỏi biển chừng 6000 năm về trước, nên với sự trầm tích của  các phù sa, lúc đó châu thổ mới có nhiều rừng ngập mặn hoặc rừng đầm lầy (swamp forest). Phải kể cây tràm (Melaleuca) vùng U Minh. Vào mùa khô, trái tràm rụng xuống đất và đến mùa mưa, cây tràm con đã lên xanh tốt. Cây tràm nhỏ và thấp hơn cây đước và thân cây thường vặn vẹo không thẳng đứng như cây đước. Những cây thân tương đối thẳng thì dùng làm cột nhà, còn trong xây cất nhà cửa, cây tràm dùng làm cọc chống lún rất bền chắc .Gỗ tràm dùng làm cột nhà mà không bị mọt mối phá hư. Hoa tràm có vị thơm và nhụy hoa ngọt nên loài ong thường đến hút nhụy làm mật. Rừng tràm là nơi ẩn náu nhiều loài chim, cá đồng chưa kể các động vật như trăn, rùa, khỉ, heo rừng. Rừng ngập mặn ven biển thì có cây đước (Rhizophora) phát triển rất nhanh tại các bãi bồi còn sình lầy. Cây đước làm cột nhà, cắm trụ đáy trên các sông và ngoài biển khơi.  Gỗ đước còn dùng làm mái chèo. Ngọn, nhánh đước dùng làm củi và thân cây đước dùng để hầm than: có hàng trăm lò than đước ở huyện Năm Căn (Cà Mau). Vỏ đước dùng để nhuộm chài lưới và là nguyên liệu chế tanin phục vụ cho ngành thuộc da. Cây bần (Sonneratia acida), mọc theo bờ kinh rạch. Mọc gần bùn thì có cây choại (Stenochlaena palustris), mọc gần nước thì có cây dừa nước (Nipa fruticans), cây móp (Alstonia). Những vùng đất bồi ngập mặn có lác (Cyperus malacensis) dùng để dệt chiếu:
Đồng Bến Tre nhiều bưng nhiều lát
Đường về Ba Vát, nặng chĩu sầu riêng
Anh ra đi ba bốn năm liền
Sao không ở lại kết bạn hiền với em
 Cỏ bàng (Leipironia articulata) dùng làm đệm. Cỏ bàng có nhiều vùng đất phèn, miệt Thủ Thừa lên tới Mộc Hoá. Những dân nghèo đến đó cắt đem về bán cho các vựa ở Chợ Đệm và Chợ Đệm có tên như vậy vì đó là nơi sản xuất đệm dùng để phơi lúa, làm buồm chạy ghe.
Trên kinh rạch, đủ loại bèo: bèo tai chuột (Salvinia), bèo lục bình (Eichornia), bèo cám (Pistia)

8. Sinh vật như một yếu tố môi sinh
Nói đến đồng bằng Cửu Long thì phải nghĩ ngay đến cá: "ăn cơm không cá như má không con" vì miền này có đủ loài cá:
Nhóm cá đen như cá lóc, cá rô, cá trê, cá trạch là những loài thích sống trong đồng ruộng hoặc ao đầm ; nhóm cá  này xuất hiện nhiều sau những trận mưa trên ruộng đồng nhưng khi nước cạn dần trên ruộng, chúng lại rút xuống các ao đầm chứ không phải xuống sông rạch như nhóm cá trắng. Những nơi nổi tiếng cá đen (cá đồng) có thể kể ra như Cái Nước, Đầm Dơi, U Minh
Nhóm cá trắng thích sống ngoài sông rạch như cá mè, cá bống, cá linh, cá he, cá chẽm. Nhóm này lúc nước ruộng bắt đầu rút khi mùa mưa chấm dứt thì theo dòng nước lũ ào ra sông rạch; đó là lúc đua nhau chài lưới và đặc biệt là bắt cá linh. Cá linh tươi từ miệt Châu Đốc, Tân Châu theo các ghe để bán khắp các chợ còn số cá ngộp, yếu sức thì đem cân ký cho các lò làm  mắm. Cá linh rẻ nhất trong nhóm cá trắng và làm được nhiều món: cá linh nấu mắm ăn với rau bông súng, cá linh chiên ăn với rau sống và nước mắm, chanh tỏi ớt, cá linh nấu chua với bông so đũa.
Xưa kia cá đồng rất nhiều nhưng ngày nay, với dân số đông, với thuốc sát trùng, môi sinh bị hủy hoại nên cá đồng hiếm dần. Do đó phải nuôi cá bè: cá được nuôi ăn bằng thực phẩm, thay vì phải đi tìm mồi. Một trong những loài cá được ưa chuộng trong việc nuôi cá bè là loài cá chình (Anguilla anguilla) vì cá này xuất cảng dễ dàng, nhất là sang Nhật.
Ngoài cá, có tôm sú, cua, nghêu cũng là những thủy sản của vùng châu thổ Cửu long:
Muốn ăn bông súng, mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm
Gió đưa, gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua
Trong châu thổ Cửu Long, cũng có vô số rắn, chuột như các bài vè sau đây đã mô tả:
Vè rắn U Minh kể ra rắn lục, rắn ngựa, rắn hổ, rắn roi, rắn nước..:
U Minh nước đỏ,
Choại, dớn, cóc kèn
Ăn ở cho hiền
Dạo chơi với rắn
Bất kỳ sâu cạn,
Rắn nước, rắn râu
Bay trêntrời cao,
Rắn rồng uốn khúc
Chạy ngang chạy dọc,
Rắn ngựa phóng theo
Hút gió thật kêu
Là con rắn lục
           v.v..
Vè chim chóc thì kể rất nhiều loài chim như chim mỏ nhát, sa sả, chèo bẻo, cà cưỡng, sáo, qụa, manh manh, bìm bịp
Các động vật (cá, tôm, lươn, nghêu, mực..) cùng các thực phẩm từ cây rau cải, cây quanh vườn đã tạo ra một văn hoá thức ăn khác với miền Bắc hay miền Trung. Thực vậy, bắp chuối, thân chuối, rau đắng, giá sống, khổ qua, trái thơm, cải bẹ xanh, cùng với nhiều loại rau quế, dấp cá, kinh giới, ngò gai, bông súng, ngó sen, đọt xoài, đọt điều, hẹ, cùng với nhiều loại mắm được chế biến từ mắm đồng (mắm sặc, mắm linh, mắm lóc) đã tạo cho món ăn miền sông Tiền, sông Hậu những nét cá biệt:
Hà tươi cửa bể Tourane
Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà
                          (Tản Đà)
9. Các tiểu vùng sinh thái
Các yếu tố đơn độc như nước, như núi, như mây trời đều tác động lẫn nhau chứ không đứng riêng rẽ, để tạo ra nhiều tiểu vùng sinh thái. Có những núi cao, có những đồi thấp, có những động cát duyên hải, có những đồng bằng. Núi cao như vùng Bảy Núi nam Châu Đốc có những phong cảnh thực vật khác các vùng đầm lầy, úng nước. Địa hình ảnh hưởng đến đất đai; từ địa hình, ta có một loạt tiền đề về nước lưu chuyển, sự mùn hoá, sự xói mòn, các loại thảo mộc.
Thảo mộc thiên nhiên khác xa, tùy theo điều kiện môi trường; thực vậy, cây cối phụ thuộc nhiều vào đất và nước.
Tại miền châu thổ, đồng bằng mới nhìn qua thì bằng phẳng nhưng về ẩm độ trong đất, có vùng nước ngập nông cạn, có vùng đất ngập sâu. Ruộng cao thì dễ thoát nước hơn, nước trong ruộng ít hơn, khó tát nước hơn; ruộng sâu úng thủy, đất nặng hơn nên kỹ thuật canh tác cũng khác:
Ra đi mẹ có dặn dò
Ruộng sâu cấy trước, ruộng gò cấy sau
Không phải chỉ là nước ngập nhiều, nước ngập ít mà lại còn nước phèn, nước mặn, nước lợ nên có những tổ hợp như những vùng đất phèn ngập cạn, những vùng đất phèn ngập sâu, những vùng đất phù sa ngọt ngập cạn, phù sa ngập sâu. Ta có thể phân biệt 12 tiểu vùng sinh thái sau:
* Vùng đất phèn-đất mặn dưới rừng sát cửa sông Saigon, Đồng Nai: vùng này có đất vừa phèn vì có bùn non chứa pyrit, vừa mặn vì nước mặn xâm nhập do thủy triều lên xuống
 * Vùng đất mặn-phèn cửa sông Cửu Long: đây là vùng đất vừa bị mặn, vì gần cửa biển, vừa bị phèn tiềm tàng trong đất
 * Vùng đất mặn Sóc Trăng, Bạc Liêu chỉ làm lúa mùa mưa, còn mùa nắng phải bỏ hoang vì không đủ nước ngọt
 * Vùng đất mặn-phèn dưới rừng sát Năm Căn, Cà Mau
 * Vùng đất than bùn phèn tiềm tàng dưới rừng U Minh: đất nhiều chất hữu cơ do cây tràm bị hủy hoại lâu này tích tụ ở trên đất
 * Vùng đất trũng phèn Tây sông Hậu, ở miệt Kiên Giang Rạch Giá, Hà Tiên
 * Vùng đất phèn ngập nông (cạn) tứ giác Long Xuyên.
 * Vùng dất trũng phèn ngập sâu Đồng Tháp Mười: vùng này dễ bị ngập lụt hơn các vùng khác
 * Vùng đất xám Thất Sơn An Giang: vùng này ở các gò đồi chân núi
 * Vùng đất ngọt ngập sâu An Giang, Đồng Tháp (Sadec, Cao Lãnh): vùng này chính là vùng lúa nổi vì nước ngập sâu, có mực nước cao hơn 1 m, có nơi 3-5mét., nhưng nước lên từ từ.  Hết mùa mưa, khi nước rút dần, có thể làm một vụ hoa màu khác như bắp, đậu nành, lúa miến vì đây là đất ngọt, không phèn, không mặn
Men sông Hậu, nhất là Tân Châu, hiện tượng sụt lở ven bờ sông thường xảy ra, nhất là những năm gần đây vì chế độ thủy văn mất thăng bằng do đào nhiều kinh thoát lũ nhưng cũng đồng thời thay đổi hướng chảy ngay trong các sông chính, thay đổi luôn động lực của dòng sông.
Sông Tiền và sông Hậu đón nhận lượng nước của cả toàn lưu vực sông Cửu Long gần 500 tỉ khối/ năm, trong đó mùa lũ chiếm tới 400 tỉ khối. Dòng nước đó chuyên chở 250 triệu tấn phù sa và ở những chỗ nền địa chất của vỏ lòng sông mềm yếu thì lượng trầm tích vĩ đại kia có cơ hội đào xới, dòng chảy xoáy mạnh, tạo ra những vực sâu và sụt lở bờ sông, bên bồi bên lở, phân dòng, rẽ nhánh
* Vùng đất phù sa ngọt ngập sâu Cần Thơ-Sóc Trăng: nước trong ruộng từ 30 đến 100cm. Xưa kia, đây là vùng lúa cấy 2 lần vì đất ngập sâu nên sau khi cấy lần đầu, lại phải nhổ mạ cấy lần thứ hai để cây lúa chống được nưóc sâu. Ngày nay nhờ du nhập nhiều giống lúa khá cao chịu đựng được cấy một lần dù mực nước 50-60cm, nên càng ngày càng hiếm thấy lúa cấy 2 lần 
 * Vùng đất phù sa ngọt ngập nông Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bến Tre: vùng này không có vấn đề nên hiện nay, nông dân sử dụng đất vào các lại cây cho lợi tức cao hơn lúa như cây ăn trái, rau cải
Trong mười hai tiểu vùng sinh thái thì có bốn tiểu vùng hoàn toàn có tính cách hướng lâm, không nên khai thác trong nông nghiệp như vùng 1, 2, 4 và 5. Các vùng khác thì phải hoặc sống với lũ, hoặc chống lũ. Sống với lũ có nghĩa là thích nghi với lũ như chỉ trồng trọt khi nước lũ xuống, trồng giống lúa vượt lũ. Còn chống lũ thì phải đắp đê bao, xây bọng để thoát nước v.v
10. Các vấn nạn môi sinh - Overpopulation
Năm 1979, toàn ĐBCL có 11.914.000 người và chỉ 14 năm sau (1993), đã tăng lên đến 15.531.600 người, nghiã là tăng thêm 2.2% mỗi năm.
Theo đà đô thị hoá và tăng gia dân số, nhịp độ chuyển từ đất nông nghiệp sang đất xây dựng (đất nhà ở, đất trường học ..) ngày một nhanh do đó, tỷ lệ đất nông nghiệp cũng sẽ giảm nhanh, kéo theo sự sút giảm diện tích canh tác cho mỗi lao động nông nghiệp. Diện tích canh tác nhỏ dần kéo theo tình trạng khiếm dụng nhân công (underemployment) đang xảy ra ở thôn quê: phần lớn hiện nay chỉ làm việc dưới 200 ngày trong một năm và kéo theo tình trạng thất nghiệp vì không có việc làm. 
Chính vì tăng gia dân số qúa nhanh nên vấn đề an toàn lương thực, vấn đề xuất cảng gạo để có ngoại tệ được đặt ra; do đó phải làm nhiều công tác thủy lợi như đào kinh, đắp đê ven biển. Đào kinh rẽ một dòng nước vĩ đại làm thay đổi chế độ thủy văn, thủy chế của dòng sông, chưa kể các chương trình xây đập nước trên thượng lưu nên cân bằng nước trong lưu vực bị đảo lộn, sinh thái thay đổi đột ngột: sụt lở, nước mặn vào sâu trong đất liền
Chính vì tăng gia dân số qúa nhanh, số người tràn vào đô thị ngày càng tăng: Phố phường chật hẹp, người đông đúc, nên đô thị gặp thêm một số vấn đề ô nhiễm khác: ô nhiễm tiếng động, ô nhiễm bụi bặm, những khu kỹ nghệ nằm xen vào khu dân cư, nhiều khu ao hồ bị lấp đi để mở rộng đất xây dựng, gây thêm nạn ngập úng. Saigon, hiện nay, chỉ sau một cơn mưa thì đường sá như một dòng suối! Nhiều nguồn thải các nhà máy (nhà máy đường, nhà máy dệt, biến chế thực phẩm..) đưọc thải ra sông rạch  mà không xử lý, do đó môi trường nước bị ô nhiễm với hàm lượng các chất ô nhiễm hữu cơ cao hơn nhiều lần  mức chấp nhận được.
 Overfishing 
Nhiều vùng có mật độ đáy phân bố trên sông rất dày. An Giang, Đồng Tháp có những đáy dài đến 100-150 mét và các đáy có mắt lưới rất nhỏ nên nhiều cá con kể cả con ruốc cũng bị chết nên không thể làm giống để nuôi được do đó nhiều người  gọi  đáy là ngư cụ 'lọc nước lấy cá'; đối với đáy cá tra bột ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp khi vớt cá tra bột cũng đồng thời vớt các loại cá cám, cá chỉ, số lượng các loài cá này lại gấp 3 lần số lượng của cá tra bột mà sau đó ngư dân loại  bỏ đi, làm hao hụt nguồn giống các loài cá này .Đối với  cào cũng vậy: mắt  lưới nhỏ và cào sát đáy nên cũng lạm sát cá-tôm đồng thời  gây cản trở lưu thông trên sông. Lại thêm cào điện làm mọi loài cá đều bị chết. Nhìn chung thì sản lượng khai thác cá tôm ở ĐBCL có tăng gia nhưng so với sự gia tăng của số lượng ngư cụ  và biện pháp cải tiến kỹ thuật thì sự gia tăng này không cân đối; chứng tỏ việc khai thác bừa bãi làm ảnh hưởng đến nguồn lợi cá tôm ở ĐBCL. Nhiều loài cá có giá trị trên sông trở nên hiếm như cá hô, cá tra dầu, cá bống tượng. Tránh overfishing: quy định khoảng cách các nền đáy; nghiêm cấm cào điện; mỗi địa phương phải phân lô khai thác: chỉ khai thác ở một số trọng điểm còn những chổ khác phải cấm đánh bắt để bảo vệ cá-tôm sinh sản, quy định cỡ mắt lưới cho các ngư cụ lạm sát cá tôm như đáy và cào
 Overpumping
 Sự an toàn lương thực đòi hỏi tài nguyên nhiều hơn, trong khi nguồn nước là một vấn đề nan giải vì nước sinh hoạt, nước trồng tiả, nước dùng trong kỷ nghệ, nhà máy có giới hạn của nó. Bơm nước nhiều làm nước mặn xâm nhập sâu hơn vào đất nội địa, chưa kể dến cản trở lưu thông trên sông ngòi vì lượng nước thấp tàu bè trọng tải lớn không chạy được.
 Overhunting
Tại miền châu thổ, có nhiều bãi chim sống tại các rừng tràm; ven duyên hải nhiều loại cò : cò quắm, cò xám, cò nâu, cò vàng, cò trắng mỏ đen, cò trắng mỏ vàng, cò trắng đầu đỏ và nhiều chim các loài như cưỡng, sáo. Có thể sử dụng các bãi chim làm du lịch sinh thái, thay vì giết hàng loạt hoặc đốn rừng khiến chim muông không nơi trú ẩn.
 Overcutting
Những sự so sánh bằng không ảnh, vệ tinh cho thấy diện tích rừng ngập mặn ven duyên hải biển Đông bị suy giảm nghiêm trọng: phá rừng nuôi tôm trong khi đó rừng này là nơi tôm cá sinh trưởng; phá rừng bừa bãi làm giảm luôn đa dạng sinh học. Rừng rú chứa nhiều thực vật hoang dã vốn là cả một kho gen vĩ đại; trong nông nghiệp cũng có nhiều giống lúa, có giống chịu hạn, có giống chịu mặn, có giống chịu ngập. Đa dạng các giống lúa giúp bớt đi các bất trắc rủi ro trong trồng trọt. Các thực vật chứa nhiều gen có thể dùng để tháp gen vào các chương trình di truyền thực vật như có giống lúa có gen kháng rầy nâu, kháng cháy lá có thể sử dụng để lai giống, để bớt đi lượng thuốc sát trùng, vì thuốc sát trùng cũng vào đất, vào nước
Phá rừng nên chim không còn nơi trú ẩn, vắng hẳn tiếng hát líu lo của chim; nhiều loài thực vật biến hẳn do phá rừng và nhiều loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng.
Các rừng tràm bị đốn phá lấy củi; nước mặn làm hủy hoại rừng tràm vì tràm chịu vùng nước lợ mà thôi. Tóm lại phải có cân bằng sinh thái song song với lợi ích kinh tế xã hội vì khi  cán cân sinh thái đã nghiêng rồi thì cũng khó lập lại  cân bằng.
Và sự cọng lại của các cái O như trên (Overcutting + Overfishing + Overhunting + Overpopulation..) tạo ra một hậu qủa là sự giảm đa dạng sinh học
11.  Kết luận
ĐBCL, cách đây 300 năm, là nơi 'muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội như bánh canh' ngày nay đã là một vùng giàu có nhất nước: lúa, cây ăn trái, kỹ nghệ, đó là nhờ nhiều công trình thủy lợi, ngay từ đời nhà Nguyễn, qua Pháp thuộc mãi cho đến ngày nay: kênh mương, công trình ngăn mặn, rửa phèn . Tuy nhiên càng ngày càng có những dấu hiệu hạn chế do nhiều lý do:
a/  sự bùng nổ dân số, sự đô thị hoá làm quỹ đất canh tác càng ngày càng giảm dần
b/ các công trình thủy lợi trên thượng lưu sông Mekong làm giảm lưu lượng trên sông, khiến nước mặn xâm nhập sâu hơn vào nội địa nên không thể làm lúa vào mùa nắng ở các vùng nhiễm mặn. Thực ra, lúa là một cây lương thực có nhiều nhu cầu nước, vả lại không đem nhiều lợi tức vì chi phí sản xuất qúa cao (Phân bón, thuốc sát trùng, nhân công) so với giá bán ra, do đó nên giảm bớt diện tích trồng lúa để trồng các loại cây ít nhu cầu nước mà tiêu thụ dễ, thu nhập nhiều như cây ăn trái. Thực vậy, nhà nông làm quần quật suốt ngày mà thu nhập chẳng bao nhiêu. Nghề làm nông rất vất vả vì phụ thuộc nhiều yếu tố môi sinh (mưa, nắng, đất, nước..), kinh tế (thị trường tiêu thụ trong nước, ngoài nước, nhân công). Hãy nghe vài câu ca dao:
Rạng ngày vác cuốc ra đồng
Tay cầm mồi lửa, tay dòng thừng trâu
Ruộng đầm nước cả bùn sâu
Suốt ngày cùng với con trâu cày bừa
Việc làm chẳng quản nắng mưa
Cơm ăn đắp đổi muối dưa tháng ngày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Biết công kẻ cấy người cày mấy nao!
Hoặc:
Thân anh khó nhọc trăm phần
Sáng đi ruộng lúa, tối nằm ruộng dưa
Vội đi quên cả cơm trưa
Vội về quên cả trời mưa ướt đầu
 c/ sự phá rừng bừa bãi trên các giải duyên hải để nuôi tôm bán thâm canh, sau những năm đầu phấn khởi nhưng ngày nay, hàng loạt tôm chết trong khi đó các đìa nuôi tôm thành hoang phế mà rừng duyên hải là nơi tôm cá sinh sản và giúp chống sự xói  mòn các sóng biển
d/ vì quỹ đất canh tác càng ngày càng hẹp dần do dân số tăng nhanh nên cần có những giải pháp lâu  dài  và đồng bộ như tạo ra những nguồn thu khác nhau trong nông nghiệp (cây ăn trái, rau đậu, hải sản) lẫn ngoài nông nghiệp như các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, thương mãi, chuyên chở ..Cần đẩy mặn sự chế tạo các sản phẩm xuất cảng được ngay ở vùng nông thôn để sử dụng nhân công dư thừa, song song với việc phát triển cơ sở hạ tằng ở nông thôn (điện, nước, đường ) chứ không nên tập trung quá đáng vào các vùng đô thị và cận đô thị .
Thực vậy, mọi người đều đồng ý có sự liên quan giữa dân số với tài nguyên thiên nhiên. Phân tích những động lực và cản trở phát triển, đi tìm những khả năng và hạn chế trong xu thế phát triển  là tìm kiếm một chính sách phát triển lâu bền.
Trong sự phát triển bền lâu, phải có sự cân đối giữa 3 khía cạnh sau đây:
Phát triển kinh tế (nông nghiệp, công nghệ), tiến bộ xã hội (y tế, giáo dục, nâng cao dân trí, sinh đẻ có kế hoạch ..) và bảo vệ môi sinh; đó là 'cái kiềng ba chân' của sự phát triển bền vững (PTBV); đó là khai thác đúng mức tài nguyên, không lạm thác, không cạn kiệt để cho các thế hệ sau cũng còn hưởng lợi nữa. 
Tóm lại, sự cần thiết có một sự hài hoà giữa con người và thiên nhiên, hài hoà giữa thiên nhiên  và phát triển kinh tế, một sự hài hoà mà chính hệ thống triết học Á Đông luôn luôn đề cao, nghĩa là cần tránh 5 LESS sau đây:  
Ruthless: hiện nay sự phân hoá giàu nghèo qúa cách biệt nên cần có phát triển hài hoà, sao cho các thành tựu phát triển kinh tế cũng phải được phân phối đồng đều, chứ không có cảnh người qúa giàu, kẻ qúa nghèo
Rootless: phát triển nhưng phải giữ căn tính, bản sắc văn hoá dân tộc
Jobless: phát triển nhưng tạo công ăn việc làm, chứ không phải phát triển với các dự án không tạo thêm công việc: cần các dự án sử dụng nhiều nhân công như phát triển hạ tằng cơ sở: cầu, đường, trường, điện
Futureless: phát triển nhưng phải lo bảo toàn môi sinh vì chính môi sinh như đất, nước, rừng phải được sử dụng trong đường lối phát triển bền vững để cho các thế hệ sau này còn được hưởng dụng.
Voiceless: phát triển nhưng trong sự trong sáng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, khiến người dân nào cũng có thể nói mà không sợ bị bắt bớ, giam cầm
                              Thái Công Tụng