Lời kêu gọi cho quyền Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam

Lời kêu gọi cho quyền Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam

Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam

33  Panorama 95800 Cergy – France – ltqvina@gmail;com – Tél. 01 3422 1861


Kính thưa Ngài Thủ Tướng Canada
Stephen Harber,

Trích chiếu: Lời kêu gọi cho quyền Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam.

Kính thưa Thủ Tướng,

Đã hai lần, bức màn sắt rủ xuống Việt Nam.
Lần thứ nhất, tháng 8, 1945, đảng cộng sản Việt Nam đã áp lực Vua Bảo Đại thoái vị khi nhà Vua vừa thu hồi độc lập hoàn toàn cho quốc gia sau khi quân đội chiếm đóng Nhật Bản đầu hang Đồng Minh. Tiếp theo, chiến tranh Việt Nam, thường được gọi là chiến tranh Đông Dương vì lan qua Cam Bốt và Lào, chấm dứt với Hiệp Định Giơ-Neo ngày 20 tháng 7, 1954, chia đôi nước Việt Nam thành hai phần Nam Bắc, ranh giới ở vĩ tuyến 17. Thay vì thành lập một chế độ dân chủ đặng cho dân chúng tham gia tổng tuyển cử thống nhất đất nước chiếu theo Hiệp Định, cộng sản Bắc Việt đã thiết lập một chế độ độc tài kiểu Staline, nhận chìm Miền Bắc Việt Nam trong một biển máu với hơn một trăm nghìn nạn nhân qua một cuộc cải cách ruộng đất dã man, dài nhất trong lịch sử ( 1953-1956).
Gần một triệu người Miền Bắc kinh hoàng đã phải nắm lấy cơ hội đầu tiên do Hiệp Định Giơ Neo cung ứng để vào Nam, tạo thành một cuộc di cư quan trọng nhất chưa từng xẩy ra trong lịch sử nước này. Nhưng cộng sản Việt Nam vẫn chưa thỏa mản tham vọng quyền lực , chuẩn bị ráo riệt cuộc chiến thứ hai với mục tiêu cuối cùng: thôn tính Miền Nam, bành trướng qua Lào và Cam Bốt.Vì vậy, hiệp ước vãn hồi hòa bình đầu tiên đã bị nhanh chóng vi phạm, lôi cuốn dân tộc Việt vào tấn thảm kịch thứ nhì,sẽ kéo dài hai thập niên nữa:1956-1975!
Lần thứ hai, ngày 30 tháng tư 1975, chúng hoàn tất cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, dẫm nát Hiệp Định Paris ngày 27 tháng giêng 1973 “ chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam” và Văn kiện cuối cùng ( Acte final) ngày 2 tháng 3, 1973 mà chúng đã ký cam kết dưới danh xưng  Chính Phủ Việt Nam


                        2

Dân Chủ Cộng Hòa cùng với mười một chính phủ khác – Pháp,Hoa Kỳ, Anh quốc, Nga Sô, Trung Cọng, Gia –Nã –Đại, Ba lan, Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam VN), Nam Dương, Hung -Gia -Lợi, và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ( công cụ của cộng sản Bắc Việt, bị chúng giải tán sau khi thôn tính Miền Nam VN) – với sự hiện diện của Tổng Thư Ký Liên hiệp Quốc, “cam kết bảo đảm chấm dứt chiến tranh, duy trì hòa bình ở Việt Nam, tôn trọng các quyền quốc gia căn bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam, và đóng góp cùng bảo đảm nền hòa bình ở Đông Dương………”
Và vì vậy, từ gần bốn mươi năm nay, nhân dân Việt Nam tưởng niệm ngày bi thảm 30 tháng tư 1975, ngày từ đấy xứ sở của họ đã trở thành một nhà tù vĩ đại làm nhớ đến nhà tù – goulag – Nga Sô  của hai thập niên năm mươi, sáu mươi thế kỷ trước. Sau khi “ giải phóng “ Miền Nam, non 500.000 người Miền Nam VN, công chức, quân nhân, y sĩ, ký giả, nhà văn, tu sĩ, của “ chế độ củ” bị tống giam trong khoảng một trăm trại giam mạo danh trại “cải tạo”, nơi mà hàng ngàn người đã chết vì kiệt sức, tra tấn, hành hạ. Thời gian giam giữ lao động khổ sai trung bình từ tám đến mười năm nhưng người chiếm kỷ lục dài hạn là ông Nguyễn Hữu Cầu mới được trả tự do sau ba –muơi - bảy năm tù ! Đứng bên cạnh ông, người tù nổi tiếng Nelson Mandella chỉ là một bóng mờ.
Cùng lúc, ở ngoài các trại giam, người dân nào cũng có thể bị đánh đập, bắt bớ, giam cầm vì bất cứ lý do nào, dù chỉ nói lên một lời bất đồng ý kiến với một chính sách của chính phủ, của đảng  cộng sản, hay một sự trưng dụng đất đai mà không bồi thường thỏa đáng.
Hàng ngàn vụ như vậy vi phạm trầm trọng các nhân quyền và dân quyền căn bản đã bị các nạn nhân, các tổ chức bảo vệ nhân quyền tố cáo với các chính phủ dân chủ trên thế giới, với Liên Hiệp Quốc, và gần đây với Hội Đồng Nhân Quyền nhưng thật là trớ trêu tột cùng, Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng vừa vào an tọa chính thức trong chiếc ghế của họ trong Hội Đồng ! Sự trả tự do cho vài công dân bị kết tội một cách phi pháp và đã bị giam cầm nhiều năm chỉ nhằm xoa dịu dư luận  quốc tế trong lúc sự đàn áp gia tăng khắp nước. Ai có thể tin rằng những người Việt yêu nước biểu tình chống hành động xâm chiếm của Trung Cọng – chiếm quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền hợp pháp của Việt Nam  từ nhiều



                        3

thế kỷ nay – lại bị ngay chính quyền đương hành trừng trị nghiêm khắc ?   
Quả thật là quá đáng ! Một chính sách khủng bố của Nhà Nước như vậy phải được chấm dứt.Gần khắp nơi trong nước, từ bắc chí nam, nông dân và thị dân, thợ thuyền và trí thức, sinh viên trẻ và cán bộ già cộng sản thức tỉnh,tướng lãnh và sĩ quan hưu trí và thất vọng của Quân Đội Nhân Dân VN, các tu sĩ Phật giáo, Công giáo,Tin Lành, Hòa hảo, Cao Đài, tất cả đều cùng nhau đòi hỏi tự do và dân chủ. Toàn dân Việt Nam nhất quyết hơn bao giờ cả tranh đấu giành lại quyền dân tộc tự quyết thiêng liêng từ tay lãnh đạo cộng sản và sẳn sang chấp nhận mọi hy sinh. Họ dư biết rằng phải đổ máu mới được tự do. Nhưng họ không bao giờ quên rằng các quyền lực  kể trên của thế giới này còn nợ họ sự thực hành lời cam kết trong Hiệp Định Paris “ bảo đảm sự tôn trọng các quyền căn bản của dân tộc Việt Nam, kể rõ: nền độc lập, chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam cùng quyền tự quyết của  nhân dân Miền Nam Việt Nam ……! Một sự cam kết cần phải luôn luôn nhắc lại vì đấy chính là một hiệp ước quốc tế không bị vô hiệu hóa bởi thời gian  (prescription par le temps- statute of time limitation) và Hiệp Định Paris nói riêng không thể  xem là xưa củ ,lỗi thời ( caduc – lapsed ) vì sự đề kháng kiên trì  không ngưng nghĩ của dân chúng Việt Nam trong nước và ở hải ngoại suốt các thập niên qua chống lại bạo quyền cộng sản xâm lược, tố cáo chúng công khai vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris 1973.
Quả vậy, mọi hiệp ước quốc tế phải được tôn trọng, qui luật căn bản của luật pháp quốc tế, nếu không được áp dụng thì thế giới của chúng ta chắc chắn sẽ bị phó mặc cho hổn độn, bất ổn kinh niên, cho lý lẽ của kẻ mạnh áp đảo kẻ yếu đối với cá nhân cũng như các dân tộc.

Kính thưa Thủ Tướng,

Được biết Ngài là một trong những nhà lãnh đạo hiếm hoi cùa thế giới, binh vực các dân tộc bị áp bức  đổng thời là đại diện một quốc gia quan trọng ký kết  Văn kiện cuối cùng ( Acte final) của Hiệp Định Paris 1973, nên với tư cách Quốc – Vụ -Khanh trong Nội Các của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã ký kết hai văn bản ghi trên, và thay mặt cho dân tộc khốn khổ chúng tôi, tôi thành khẩn thỉnh cầu Ngài can thiệp mạnh mẻ với các vị lãnh đạo các chính phủ đồng ký Văn  kiện cuối cùng đặng thi hành sự cam kết bảo đảm quyền tự



                            4

quyết của dân tộc Việt Nam gồm có, như HĐ và Văn kiện xác định: tổng tuyển cử tự do, dân chủ đặng quyết định thể chế chính trị cho quốc gia, thống nhất xứ sở, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, các quyền căn bản của công dân.

Xin Ngài Thủ Tướng thể nhận nơi đây sự tôn kính và lòng tri ân sâu xa của dân tộc Việt Nam chúng tôi.

Pháp Quốc, ngày 1 tháng 12, 2014

TM. Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam
        Chủ Tịch


Lê Trọng Quát
Quóc-Vụ-Khanh Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa Đệ Nhị
Chủ Tịch các Ũy Ban Nội Vụ, Quốc Phòng Quốc Hội VNCH Đệ Nhất
Hội Thẩm Viện Bảo Hiến VNCH Đệ Nhất