Tổng Thống 36 giờ: Dương Văn Minh

Nguyễn Quang.........

Dương Văn Minh

Trước khi viết về nhân vật gây nhiều tranh cải này, chúng ta cùng trở về với bài học lịch sử trong sự tôn trọng Anh hùng các dân tộc mà vốn chúng ta ít hay biết, đó là dân tộc Campuchia với những người mà nhân cách cùng khí tiết sẽ muôn đời là sự chống đỡ cho dân tộc này tồn tại bền vững.
Học từ quá khứ của chúng ta là cách duy nhất có trách nhiệm để chuẩn bị cho chính chúng ta về tương lai, nhất là khi quá khứ đó là chứng tích của thất bại đáng ghi nhớ.” Triết gia George Santayana (1863 – 1952)
Sáng 12.4.1975 Hoa Kỳ thực hiện Chiến dịch Eagle Pull, di tản các nhân viên, các viên chức Mỹ và một số viên chức Campuchia bằng máy bay trực thăng từ thủ đô Phnom Penh tới các hạm đội Mỹ trong vịnh Thái Lan.

Đại sứ Mỹ ở Cambodia lúc đó là ông John Gunther Dean đã thông báo cho các viên chức cao cấp của Cộng Hòa Khmer biết Hoa Kỳ dành cho họ quyền tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ, nhưng Hoàng Thân Sirik Matak, Thủ Tướng Long Boret, Lon Non (em của Lon Nol) và các thành phần nội các của chính phủ Lon Nol đã từ chối, mặc dầu Long Boret và Sirik Matak có tên trong danh sách “Bảy kẻ Phản Bội” (Seven Traitors) bị Khmer Đỏ tuyên án tử hình. Tổng cộng có 150 người trong chính phủ Cộng hòa Khmer đã di tản theo người Mỹ. Còn Hoàng thân Sirik Matak đích thân viết cho Đại sứ John Gunther Dean một lá thư có nội dung như sau:

Tôi thành thật cảm tạ Ngài đã viết thư và còn đề nghị giúp tôi phương tiện đi tìm tự do. Than ôi! Tôi không thể bỏ đi một cách hèn nhát như vậy! Với Ngài và nhất là với xứ sở vĩ đại của Ngài, không bao giờ tôi lại tin rằng quý vị đã nhẫn tâm bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn tự do. Quý vị từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi chẳng thể làm được gì hết. Ngài ra đi, tôi cầu chúc Ngài và xứ sở của Ngài được hạnh phúc dưới bầu trời này. Nhưng xin Ngài nhớ cho rằng nếu tôi phải chết ở đây và ở lại đất nước tôi yêu dấu thì tuy đó là điều tệ hại, nhưng tất cả chúng ta đều sinh ra và cũng sẽ chết vào một ngày nào đó. Tôi chỉ ân hận một điều là đã quá tin và chót tin ở nơi quý vị, những người bạn Hoa Kỳ! Xin Ngài nhận những cảm nghĩ chân thành và thân hữu của tôi.”

Ký tên: Hoàng thân Sirik Matak
Riêng về Thủ Tướng Long Boret, Đại sứ John Gunther Dean kể:
"Long Boret đã từ chối việc di tản. Ông ta là một người tài giỏi. Trẻ hơn nhiều so với Lon Nol hoặc Sirik Matak. Khi cá nhân tôi đến gặp ông vào ngày 12 tháng 4, trong cuộc di tản buổi sáng sớm của chúng tôi, đề nghị ông ta hãy dắt vợ con cùng chúng tôi rời khỏi Phnom Penh vì tôi lo sợ cho sự an toàn của ông ấy, ông ta cảm ơn tôi nhưng [như ông ta nói] nghĩ rằng tính mạng của ông ấy không đáng lo ngại.”
 
Ngày 17.4.1975, lực lượng Cộng hòa Khmer sụp đổ, Khmer Đỏ tiến vào Phnom Penh. Hoàng thân Sirik Matak, Thủ tướng Long Boret, Lon Non và các viên chức hàng đầu của Chính phủ Cộng Hoà Khmer đã bị bắt đưa đi xử tử tại trung tâm thể dục thể thao Cercle Sportif. Các đơn vị thuộc quân đội Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer của Lon Nol còn lại trong thủ đô đều bị tước vũ khí và đưa đi xử bắn toàn bộ tại sân vận động Olympic.

Trong Hồi ký “Ending the Vietnam War” Kissinger nói rằng chính quyền Ford đã bất ngờ và xấu hổ vì trên thực tế các quan chức hàng đầu của Campuchia đã từ chối rời khỏi đất nước, bao gồm Hoàng Thân Sirik Matak, Thủ tướng Long Boret và em trai cựu Tổng thống Lon Nol là Lon Non, mặc dầu họ nằm trong danh sách mà Khmer Đỏ đã tuyên án tử hình.

Riêng đối với Việt Nam, chính quyền Ford có sự bất ngờ và xấu hổ hay không, xin lướt qua nhân cách của những nhân vật cầm đầu miền Nam trước khi mất nước như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Tổng Thống Dương Văn Minh ít ai không cảm thấy đau buồn.

Quay ngược dòng thời gian với Dương Văn Minh, theo  Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Giám Đốc Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã kể lại hai chuyện liên quan đến những sự vi phạm nghiêm trọng của Dương Văn Minh, nhưng được Tổng Thống Diệm bỏ qua cho:

Vụ thứ nhât: Chôm thùng phuy vàng của Bình Xuyên

Ông cho biết vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Họ thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông cho mò tìm và vớt được hai thùng, một thùng đựng bạc giấy và một thùng đựng vàng. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Dương Văn Minh chẳng báo cáo gì về vụ vàng này. Ông Diệm đã ra lệnh điều tra. Hai người được trao nhiệm vụ điều tra là Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội. Đại Tá Xuân báo cáo số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh. Nhưng sau khi suy nghĩ, ông Diệm nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó đi cho yên!”

Vụ thứ hai: Chứa chấp gián điệp Việt Cộng.

Vào đầu năm 1960, nhân viên tình báo thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra.

Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người trông mặt mày và hình dáng rất giống Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. 

Ông đã trình vụ này cho Tổng Thống Diệm, nhưng sau khi nghe, Tổng Thống đã đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.” Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cam-bốt và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: Nếu trở lại sẽ bị thanh toán. 

Dương Văn Minh bị dẫn tới Đài Phát Thanh Sài Gòn

Bản tuyên bố đầu hàng do Chính Trị Viên Bùi Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30:

Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng Thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam.”

Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống chỉ 36 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng, kết thúc cuộc đời làm con bài thí của Mỹ trong những thời điểm khác nhau..

Không có ai chiến thắng
Tất cả chỉ là ảo, chỉ tội nghiệp cho những con người Việt Nam và Đồng minh đã đi qua cuộc chiến ấy... Không thể có con số thống kê, rõ ràng có bao nhiêu cô nhi, quả phụ, tử sĩ của cả hai miền Nam Bắc Việt Nam, bao nhiêu người ra đi cho tới ngày cuối cùng của cuộc chiến không tìm thấy xác, nhiều người đinh ninh cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt ngày 30 tháng 04 năm 1975. Nhưng hòa bình chỉ là sự tiếp diễn cho cuộc chiến khác khốc liệt hơn. Một cuộc chiến thuần Việt, vẫn còn đó sự hận thù đến trả thù trong miên viễn.

Xin được trích danh ngôn của Lâm ngữ Đường: Là con người ai cũng muốn mình chiến thắng, song số phận đã không cho phép tất cả mọi người.

Nước Mỹ có một đài tưởng niệm ghi công những quân nhân hy sinh trong cuộc chiến tranh Việt Nam, được làm bằng đá hoa cương, rất trang trọng tại Washington D.C .

Nhà nước Việt Nam có rất nhiều nghĩa trang “hoành tráng" trên những vùng đất "thép", trên đường mòn Hồ chí Minh, ở Hàng Dương - Phú Quốc.v.v…

Vẫn còn đó những ngộ nhận, những oán thù, những phân tranh, những ly tán sau hơn nửa thế kỷ khi cuộc chiến chấm dứt. Một đất nước nghèo nàn, khổ đau vì những ý thức hệ trái ngược nhau tròng lên số phận của một dân tôc vốn hiếu hòa, ẩn nhẫn coi trọng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Những đồ tể thời đại mà “Trái tim đeo ngoài túi áo”*đã để lại bao oan nghiệt cho bao số phận con người trót có mặt trong những năm tháng không thể quên, khó lòng nguôi ngoai ấy, kẻ chiến thắng, người chiến bại nếu xét cùng tận đều có nhiều mất mát, đau thương.

Chính nó là tội ác, một khi sai lầm đó là chúng ta đã tin vào nó!

* Thơ của Tô Thùy Yên

Nguyễn Quang