LIÊN TU SĨ HUẾ CỬ HÀNH
NGÀY QUỐC TẾ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
Ngày 2/2/2015 tại Nhà Thờ DCCT Huế
dưới Ánh Sáng Giáo Huấn của ĐTC Phanxicô
Ba Mục Tiêu của Năm Đời
Sống Thánh Hiến
a. Nhìn về quá khứ với niềm tri ân.
b. Sống hiện tại cách say mê.
c. Ôm ấp tương lai với niềm hy vọng.
TOÀN THỂ DÂN CHÚA
TÍCH CỰC SỐNG NĂM ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN - Bài
2
LIÊN TU SĨ HUẾ CỬ
HÀNH NGÀY QUỐC TẾ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN Ngày 2/2/2015 tại Nhà Thờ DCCT Huế
dưới Ánh Sáng Giáo Huấn của ĐTC Phanxicô
Kính
thưa Quý Bề Trên, Quý Cha Giáo, Quý Chị Giáo, Quý Cha, Quý Thầy, Quý Chị và
Toàn Thể Anh Chị Em sống đời thánh hiến,
Trước hết tôi xin cám ơn Ban Đại
Diện đã cho tôi được cùng Liên Tu Sĩ Huế cử hành Ngày Quốc Tế Đời Sống Thánh
Hiến hôm nay. Năm Đời Sống Thánh Hiến do ĐTC Phanxicô thiết
lập mà chúng ta đã long trọng khai mạc tại Nhà thờ Chính Tòa Phủ Cam ngày
13/12/2014 vừa qua. Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Bài
trình bày của tôi hôm nay có hai phần. Phần một giới thiệu tổng quát, phần hai
đào sâu và quảng diễn các giáo huấn, cùng các tài liệu liên quan đến đời sống
thánh hiến của chúng ta, đặc biệt Tông Thư của ĐTC Phanxicô gửi các người thánh
hiến dịp Năm Đời Sống Thánh Hiến.
I.
GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
Trước khi
đào sâu và quảng diễn, tôi xin lược qua các điểm chính của Tông Thư để Anh Chị
Em dễ nắm bắt. ĐTC nhắc lại số 110 Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến của thánh Giáo
hoàng Gioan-Phaolô II để nói lên con đường đi tới hôm nay của chúng ta: “Các con không chỉ có một lịch sử huy hoàng
để nhớ lại và tường thuật, mà còn có một lịch sử oai hùng cần viết nên! Hãy
nhìn về tương lai, nơi mà Chúa Thánh Linh đã dự định thực hiện cùng với các con
những điều trọng đại hơn nữa”[1]. Nội
dung con đường Tông Thư mở ra cho chúng ta gồm ba điểm chính:
1. Ba Mục Tiêu của Năm Đời Sống Thánh Hiến
a. Nhìn về quá khứ với niềm tri ân.
b. Sống hiện tại cách say mê.
c. Ôm ấp tương lai với niềm hy vọng.
2.
Năm Mong Đợi cho Năm Đời Sống Thánh Hiến
a. Luôn luôn thể hiện được niềm vui
b. Sống tính ngôn sứ để “đánh thức
thế giới”
c. Trở nên những “chuyên viên hiệp
thông”
d.
Ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại biên của cuộc đời
e.
Tự vấn về điều Thiên Chúa và nhân loại đang đòi hỏi.
3.
Năm Chân Trời của Năm Đời Sống Thánh Hiến
a.
Các giáo dân chia sẻ lý tưởng, tinh thần và sứ vụ với người sống đời
thánh hiến (các Dòng Ba hay các Hội Cựu Tu sĩ của các Dòng)
b.
Toàn thể Giáo Hội Công giáo.
c.
Những người tận hiến, những huynh đoàn và cộng đoàn thuộc các Giáo hội
ngoài Công giáo.
d.
Những người tu trì trong tất cả các tôn giáo lớn.
e.
Đặc biệt các Giám Mục và các linh mục qua các ngài.
Qua nội
dung Tông Thư, các giáo huấn và việc cử hành Năm Đời Sống Thánh Hiến này, chúng
ta cảm nhận được ba điều rất quan trọng, cần phải tỏ lòng biết ơn: đối với
Chúa, đối với ĐTC và đối với các lãnh đạo Giáo Hội địa phương liên hệ.
1) Thứ nhất,
ngoài tư cách là người kế vị thánh Phêrô lãnh đạo và củng cố đức tin của toàn
thể Giáo Hội, ĐTC Phanxicô là một tu sĩ như chúng ta. Ngài đã kinh qua
vai trò và trách nhiệm của một linh mục, Giám mục, Tổng Giám Mục, Hồng Y và tột đỉnh là Giáo
Hoàng. Ngài đã hiểu rất rõ vai trò, sự hiện diện và đóng góp của giới tu sĩ
trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội với những cái được và cái mất, những
thuận lợi và khó khăn, những niềm vui và nỗi buồn, những hạnh phúc và đau khổ,
những thánh thiện và tội lụy, nên Ngài rất yêu thương, rất tin tưởng và kỳ vọng
nhiều ở anh chị em tu sĩ chúng ta cho sứ mệnh của Giáo Hội. Ngài mong Năm Đời
Sống Thánh Hiến là thời điểm đầy hồng ân giúp chúng ta biến đổi, tân Phúc Âm
hóa bản thân và cộng đoàn, để đáp ứng kỳ vọng mà Giáo Hội và Thế giới đang mong
đợi ở chúng ta.
2) Thứ hai là Năm Đời Sống Thánh Hiến tuy đặc biệt dành cho
những người thánh hiến, nhưng không chỉ cho chúng ta, mà còn cho toàn thể Giáo
Hội Công giáo (giáo dân, Giám Mục, Linh mục), toàn thể dân Kitô giáo (bao gồm
những người tận hiến, những huynh đoàn và cộng đoàn thuộc các Giáo hội ngoài Công
giáo), và cho toàn thể nhân loại qua những người tu trì trong tất cả các tôn
giáo lớn. Đó cũng là Năm Chân Trời, năm đối tượng khác mà ĐTC Phanxicô muốn nói
với. Như thế, chúng ta có thể nói rộng ra rằng toàn thể Dân Thiên Chúa phải cùng
nhau và giúp nhau tích cực sống Năm Đời Sống Thánh Hiền này.
3) Ngoài ra, còn một điểm nổi bật của tình thương ĐTC
dành cho công cuộc canh tân đời sống nội tâm thiêng liêng của chúng ta trong
Năm Đời Sống Thánh Hiến này, là qua Tòa Ân Giải Tối Cao, ĐTC ban Ơn Toàn Xá với
những điều kiện thông thường (xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý ĐTC) cho
tất cả những ai có lòng ăn năn sám hối thật sự, khi đi viếng Nhà thờ Chính Toà
hay một thánh đường giáo xứ, một nhà nguyện của tu viện hoặc đan viện. Đức TGM
Phanxicô Xavie của chúng ta cũng rộng rãi chỉ định cho chúng ta nhiều địa điểm
thuận tiện cho việc kính viếng để lãnh nhận ơn toàn xá. Thật an ủi là các Anh
Chị Em Tu sĩ vì lý do đau ốm hay những lý do nghiêm trọng nào khác không thể đi
viếng các nơi đã được chỉ định cũng có thể nhận được Ơn Toàn Xá, miễn là sạch
tội và có ý thi hành 3 điều kiện thông thường, viếng các nơi ấy trong tinh
thần, đọc các kinh đã chỉ định, dâng bệnh tật và các đau khổ mình phải chịu lên
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, qua Đức Trinh nữ Maria.
Ân
xá này có thể nhường lại cho các linh hồn nơi luyện ngục. Đây là một việc bác
ái cao độ và thiết thực cho những người đã khuất của chúng ta, vừa trong tương
quan máu mủ huyết thống, vừa trong tương quan gia đình thiêng liêng của đời
sống thánh hiến, trong đó có những người chúng ta phải mang ơn, cũng như những
người chúng ta phải chịu trách nhiệm đền trả, do những thiếu sót hay gương mù
gương xấu của chúng ta. Quả vậy, các linh hồn không thể làm chi thêm công phúc,
nhưng cũng may mắn là họ không còn làm chi thêm tội, mà chỉ lo phải đền trả
những gì đã làm khi còn sống và trông nhờ ở lời cầu nguyện cùng ơn phúc của
chúng ta cho các ngài.
II. ĐÀO SÂU VÀ QUẢNG DIỄN TÔNG THƯ
A. Ba Mục Tiêu của Năm Đời Sống
Thánh Hiến
Trong bài giảng lễ hôm kia[2],
ĐTC Phanxicô nói về hai biểu kế của
người kitô hữu là ký ức và hi vọng: “phải luôn giữ
ký ức về cuộc gặp gỡ đầu tiên của mình với Chúa Kitô, cũng như niềm hy vọng nơi
Ngài để tiến về phía trước với lòng can đảm của đức tin… Nhiều khi hi vọng đó chìm trong tăm tối, nhưng vẫn
tin tưởng tiến tới bởi vì biết rằng khi tìm kiếm Chúa Giêsu, thì hi vọng đó
không bao giờ khiến chúng ta thất vọng.”
1. nhìn vỀ
quá khỨ vỚi niỀm tri ân
a) Tâm
tình Tri ân
Đây là mục tiêu thứ nhất trong ba
mục tiêu mà Tông Thư của ĐTC Phanxicô đã đề ra. Trước hết là tri ân Thiên Chúa
đã nhờ Chúa Thánh Thần mà đi bước trước kêu gọi chúng ta theo sát Đức Kitô, để
chuyển dịch Tin Mừng bằng chính cuộc sống của chúng ta, nhận ra các dấu chỉ
thời đại và đáp ứng các nhu cầu của Giáo Hội. Từ đó, cộng đoàn Dòng chúng ta
được tăng tiến và phát triển, lôi cuốn thêm nhiều phần tử sống trong những
khung cảnh địa lý và văn hóa khác biệt, tạo ra những thể thức, những sáng kiến
và những lối diễn tả mới về lòng bác ái tông đồ thể hiện đặc sủng của mình, tựa
như hạt giống trổ thành một cây lớn cành lá sum sê. Đây là dịp thuận lợi để mỗi gia đình đặc sủng nhớ lại cội nguồn và sự
phát triển lịch sử của mình để tạ ơn Thiên Chúa là Đấng đã cống hiến cho Giáo
Hội biết bao nhiêu hồng ân làm đẹp Giáo Hội và làm cho Giáo Hội được trang bị
với bao nhiêu việc lành thánh thiện[3].
Tiếp
đến, chúng ta cám ơn các bậc tiền bối, nhất là các đấng sáng lập Dòng. Mỗi gia
đình đặc sủng của chúng ta hãy nhớ lại buổi khởi đầu và những chặng đường phát
triển trải qua dòng lịch sử của mình. Thuật lại lịch sử của Dòng là điều cần
thiết để duy trì căn tính cũng như để siết chặt mối hợp nhất gia đình và tăng
thêm ý thức thuộc về Dòng cho các phần tử. Chúng ta đi lại con đường của các
thế hệ quá khứ để nắm bắt được tia sáng gợi hứng, những lý tưởng, những dự
phóng, những giá trị đã thúc đẩy vị sáng lập và các cộng đoàn tiên khởi, ý thức
được cách thức mà tiền nhân đã sống đặc sủng, với những bước đột phá, những khó
khăn đã phải đương đầu và vượt qua.
Khi nhìn lại quá khứ, chúng ta
cũng có thể nhận ra những sự bất nhất do tính yếu đuối của con người, thậm chí
có lúc quên mất những khía cạnh cốt yếu của đặc sủng. Nhưng tất cả các khía
cạnh ấy đều là những giáo huấn và lời kêu gọi hoán cải. Không đào sâu và sống nền tảng thiêng liêng này là mất
gốc - trệch đường - mất hướng, vì chưa được đâm rễ sâu vững chắc vào đặc sủng và linh
đạo của Dòng, vốn là những yếu tố làm cho mình ngày càng gắn bó với Dòng, và Dòng ngày càng tăng
trưởng đầy sức sống như
hiện nay, và ước mong mai ngày còn nhiều hơn thế nữa. Chúa Giêsu đã rất coi trọng việc xây nhà trên móng đá
vững chắc. Đời Sống Thánh Hiến đã trải qua một hành trình rất phong phú của
việc canh tân, dù không thiếu các khó khăn và cực nhọc, cả
ánh sáng và bóng tối, trong sự dấn thân tuân theo
những gì Công Đồng yêu cầu: trung thành với Chúa Kitô, với Giáo Hội, với đặc
sủng riêng của mình và với con người thời nay[4], để trở nên thời điểm của ơn thánh, được đánh dấu
bởi sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.
Trong tinh thần này, lòng biết ơn của chúng ta cũng hướng
tới tổ tiên ông bà cha mẹ và gia đình huyết tộc đã sinh thành
dưỡng dục chúng ta nên người, rồi quảng đại hiến dâng cho Chúa; cám ơn Mẹ Hội
Thánh và Mẹ Hội Dòng, qua các Bề trên hữu trách và các anh chị em, là gia đình
thiêng liêng của chúng ta, đã đón nhận, chọn gọi và đào tạo chúng ta nên người và
nên tu sĩ, với rất nhiều lo toan và hy sinh; cám ơn tất cả mọi người đã, đang
và sẽ tiếp tục cảm thông, thương yêu nâng đỡ chúng ta cho đến cuối cuộc đời
trần thế; cám ơn tất cả những ai vì vô tình hay hữu ý, kể cả các hoàn cảnh xã
hội thăng trầm, đã gây nên những thử thách đau khổ, hầu nung đúc cho cuộc đời
làm người, làm con Chúa và làm người tu sĩ của chúng ta được như ngày hôm nay.
Chính ĐTC
Phanxicô đã nêu gương cho chúng ta. Ngài đã nói với các Bề Trên Tổng Quyền Dòng Nữ rằng “Tôi cám ơn chị em về những gì chị em làm để
đời sống thánh hiến luôn là một ánh sáng trên con đường của Giáo Hội… Giáo Hội
biết ơn đối với công việc vốn không luôn dễ dàng của chị em. Giáo Hội sẽ là thế
nào nếu không có chị em? Giáo Hội sẽ thiếu tính hiền mẫu, sự trìu mến, lòng
hiền lành và trực giác của người mẹ”[5].
Còn đối với các Bề Trên Tổng Quyền Dòng Nam thì Ngài nói “Cám ơn anh em, tôi cám ơn vì hành động đức tin mà anh em đã thể
hiện… Xin cám ơn vì những gì anh em đã làm, về tinh thần đức tin và lòng nhiệt
tâm phục vụ. Cám ơn vì chứng tá của anh em, vì những chứng nhân tử đạo vẫn tiếp
tục được dâng hiến cho Giáo Hội, cũng như những tủi hổ cay đắng mà anh em phải
chịu. Đây chính là con đường của Thập giá. Xin hết lòng cám ơn anh em”[6]. ĐHY Tổng
Trưởng Bộ Tu Sĩ, Joao Braz De Aviz, cũng lên tiếng “Chúng tôi mời gọi các Mục tử, các linh mục và giáo dân, hợp với lời cám
ơn của chúng tôi vì ân huệ Đời Sống Thánh Hiến ban cho thế giới và cho chính
Giáo Hội”[7].
b) Tâm tình xin lỗi
Tuy không đích thị dùng tới từ
ngữ chính xác, nhưng một tâm tình tất yếu đi kèm theo tâm tình biết ơn này là
tâm tình xin lỗi. ĐTC nói “Chớ gì Năm Đời
Sống Thánh Hiến cũng là dịp để xưng thú sự yếu đuối riêng của mình, với tâm
tình khiêm nhường và lòng tín thác nơi Thiên Chúa Tình Yêu, để sống đời sống
này như một cảm nghiệm về tình yêu nhân từ thương xót của Chúa; đồng thời là
một dịp để kêu lên cho thế giới biết sức mạnh, niềm hân hoan, chứng tá sự thánh
thiện và sức sống của phần lớn những người được kêu gọi theo Đức Kitô trong đời
sống thánh hiến”. Ngài còn nói mạnh mẽ hơn: “Cuộc sống thật phức tạp, nó bao gồm cả ân sủng lẫn tội lỗi. Ai
không phạm tội thì không phải là một con người. Chúng ta ai cũng mắc lỗi lầm và
cần nhận ra sự yếu đuối của mình. Một tu sĩ nhận ra mình yếu đuối và là một tội
nhân không làm mờ nhạt đi lời chứng rằng người ấy được mời gọi để cho đi, chính
xác hơn người ấy còn làm mạnh mẽ thêm cho lời chứng; và điều này có ích cho mọi
người”. Thậm
chí Ngài còn can đảm nêu ra 15 căn bệnh và cám dỗ của giáo triều, cũng là những căn bệnh và cám dỗ của mỗi
Kitô hữu, mỗi giáo xứ, mỗi cộng đoàn, mỗi Dòng Tu, các phong trào Giáo Hội,
trên bình diện cá nhân và cộng đoàn.
Đúng vậy, chúng ta cần xin
lỗi Chúa vì chúng ta đã nhận lãnh bao nhiêu hồng ân của Chúa, ơn phần hồn ơn
phần xác, nhất là ơn
được chọn gọi làm môn đệ Chúa, mà có khi chúng ta đã không sử
dụng hết và cho nên, lại có khi chúng ta còn có thể phá hư ơn Chúa nữa. Xin lỗi cha
mẹ và gia đình huyết tộc vì có khi chúng ta đã không làm chi đền đáp được hoài
bảo và công ơn, mà lời cầu nguyện có khi cũng còn thiếu sót hoặc lơ là, thậm chí còn làm cho các ngài
buồn lòng vì những tiêu cực sai sót trong đời tu của chúng ta. Xin
lỗi mọi người thân yêu trong gia đình thiêng liêng, là Mẹ Hội Dòng, Bề Trên và Anh Chị Em về
những thiếu sót trong bổn phận, dèm pha nói xấu, ghen tương đố kỵ trong ứng
xử, có khi chúng ta đã
trở nên thánh giá nặng hơn bắt người khác phải vác, nhất là trong việc nêu
gương sống cao độ ba lời khuyên Phúc Âm vâng lời, khó nghèo và khiết tịnh. Xin lỗi tất
cả những ai mà chúng ta đã không làm gương sáng, lại có khi còn gây gương mù
gương xấu. Xin
lỗi tất cả những ai mà bản thân chúng ta vì yếu đuối hoặc vì tính tình hay
thiếu hiểu biết và khả năng nên đã lỗi bác ái cảm thông và công bằng, khiến họ
phải mắc lỗi hay phải
đau khổ, có khi mất cả ơn gọi, vì linh mục và tu sĩ không lên thiên đàng
hay xuống hỏa ngục một mình, mà còn kéo theo nhiều người khác nữa.
2. SỐNG HIỆN TẠI CÁCH SAY MÊ
Trong sứ
điệp cho lễ khai mạc Năm Đời Sống Thánh Hiến, ĐTC Phanxicô đưa ra ba từ mấu
chốt là vui tươi, can đảm và hiệp thông: “Vui
tươi để cho thấy sự theo Chúa và thực hành Tin Mừng của Người tràn ngập tâm
hồn. Can đảm trong việc yêu mến Chúa và gửi gắm nơi Ngài tất cả niềm tin tưởng
của mình, giống như các Đấng sáng lập Dòng đã làm. Hiệp thông trước hết phải
được bén rễ trong mối tương quan giữa cá nhân với Thiên Chúa để trở nên những
người xây dựng tình huynh đệ qua việc thực hành tình bác ái tương trợ phát xuất
từ Tin Mừng đối với người nghèo khó”[8].
Đối với ĐTC, sống đời sống hiện
tại cách say mê là sống Phúc Âm như các vị sáng lập Dòng đã sống: Chúa Kitô là
lý tưởng, Phúc Âm là luật tuyệt đối, mọi luật khác chỉ là cách diễn tả và
phương thế sống Phúc Âm, các lời khấn khiết tịnh, khó nghèo, vâng lời là biểu
lộ tình yêu say mê của các ngài. Vậy chúng ta có để cho Phúc Âm cật vấn và Phúc
Âm có là sách gối đầu giường, là điểm qui chiếu và chuẩn mực cho cuộc sống hằng
ngày, cùng các chọn lựa của chúng ta không? Chỉ đọc và suy niệm Phúc Âm thôi
không đủ, Chúa Giêsu đòi chúng ta phải thực hiện Phúc Âm, phải sống các lời của
Ngài. Vậy Chúa Giêsu có thực sự là tình yêu trước hết, trên hết và sau hết của
chúng ta không? Nếu được như vậy thì chúng ta mới hiểu được tình yêu là gì và
mới thực sự yêu thương mọi người chúng ta gặp trên hành trình của mình, vì
chúng ta có được trái tim của Chúa Giêsu.
Các vị sáng lập Dòng đã cảm
nghiệm lòng cảm thương của Chúa Giêsu trước đám đông bơ vơ như chiên không
người chăn, mà Ngài đã ban lời của Ngài, chữa lành các bệnh nhân, ban bánh cho
họ ăn, ban cả chính mạng sống của Ngài. Và các vị sáng lập Dòng đã phục vụ nhân
loại này với những cách thế rất khác nhau, như cầu bầu, rao giảng Phúc Âm, dạy
giáo lý, giáo dục, săn sóc người nghèo, người bệnh. Lòng bác ái của các ngài là
vô giới hạn và mở ra vô số con đường để mang hơi thở Phúc Âm vào các nền văn
hóa và các môi trường xã hội đa dạng.
Còn chúng ta? Chúng ta có trung
thành với sứ mệnh đã được trao phó cho chúng ta không? Các tác vụ, các hoạt
động và sự hiện diện của chúng ta có đáp lại những đòi hỏi của Chúa Thánh Thần
không? Chúng ta có theo sát các mục đích của sứ mệnh chúng ta trong xã hội và
Giáo Hội không? Chúng ta phải thay đổi điều gì? Chúng ta có cùng ước vọng đam
mê với dân chúng không? Chúng ta có gần gũi họ đến độ cùng chia sẻ các niềm vui
các đau khổ của họ, thực sự hiểu được và có thể đáp ứng các nhu cầu của họ
không? Sự đam mê này liên quan tới tình yêu thương, tình bạn chân thực, sự hiệp
thông sâu xa làm nên vẻ đẹp cho đời sống của người khấn giữ các lời khuyên Phúc
âm để bước theo thật
gần hơn nữa với Chúa Kitô.
Lòng quảng đại và tinh thần từ bỏ
do Chúa Thánh Thần thúc đẩy của các vị sáng lập Dòng phải đánh động chúng ta,
giúp chúng ta giữ sống động các đặc sủng, tiếp tục làm phong phú và thích nghi
với thời đại, mà không đánh mất đặc tính nguyên tuyền của Dòng mình, hầu phục
vụ Giáo Hội và xây dựng Nước Trời. Các ngài đã say mê sự hiệp nhất của nhóm 12 Tông
đồ vầy quanh Chúa Giêsu và sự hiệp thông của cộng đoàn tín hữu đầu tiên tại
Giêrusalem, để rồi các ngài họa lại các mẫu Phúc Âm đó nơi cộng đoàn riêng của
mình cho nó được sống động, là chỉ có một con tim, một linh hồn tràn ngập sự
hiện diện của Chúa[9].
Trong một xã hội có sự chống đối
nhau, có sự khó chung sống giữa các nền văn hóa khác biệt, có sự bất bình đẳng
và người yếu thế bị chèn ép, thì người thánh hiến được kêu gọi cống hiến một
gương mẫu cụ thể về đời sống cộng đoàn huynh đệ, nơi địa vị của mỗi người được
nhìn nhận và ân huệ của mỗi người được chia sẻ, nhờ vậy mà chúng ta trở nên
những con người của tình hiệp thông: can đảm hiện diện ở đâu có khác biệt và
căng thẳng, để trở nên dấu chỉ đáng tin về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần,
Đấng đổ đầy sự đam mê vào các con tim khiến tất cả nên một[10].
Chúng ta hãy sống tính nhiệm hiệp của sự gặp gỡ, tức phải có khả năng cảm thấy
và lắng nghe người khác, khả năng cùng đi tìm con đường, cùng đi tìm phương
pháp, dõi theo ánh sáng mối liên hệ giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, là mẫu gương của
mọi mối tương quan giữa người với người.
3. Ôm Ấp tương lai vỚi niỀm hy vỌng
Trong cuộc họp báo trình bày Năm
Đời Sống Thánh Hiến, ĐHY Tổng trưởng Bộ Tu sĩ nhắc lại rằng thời điểm hiện tại
thật tế nhị, khó nhọc[11],
và cơn khủng hoảng đụng chạm trọn vẹn đến đời sống thánh hiến chúng ta. Còn
Tông Thư của ĐTC nói rằng trước những khó khăn đa dạng mà chúng ta phải đối mặt
như sự giảm bớt ơn gọi, nhân sự trở nên già nua, vấn đề kinh tế đi theo khủng
hoảng tài chánh thế giới, các thách đố toàn cầu hóa, âm mưu của thuyết tương
đối hóa, bị loại ra bên lề, bị đánh giá thấp… thì niềm hy vọng của chúng ta quả
thật là kết quả của niềm tin vào Chúa của lịch sử, Đấng đã bảo “Đừng sợ, vì Ta
ở cùng con”[12].
Niềm hy vọng của chúng ta không
đặt nền tảng trên các con số hoặc công việc, nhưng dựa vào Chúa mà chúng ta tín
thác, vì đối với Ngài “không gì là không thể”[13].
Niềm hy vọng đó không làm chúng ta thất vọng và sẽ giúp chúng ta tiếp tục viết
ra một lịch sử vĩ đại trong tương lai, khi chúng ta hướng con mắt về Chúa Thánh
Thần, Đấng thúc đẩy chúng ta và tiếp tục cùng chúng ta làm nên những điều cao
cả. Chúng ta đừng để bị cám dỗ về con số và tính hiệu quả, và tệ hại hơn nữa là
chỉ tin tưởng nơi sức riêng mình. Hãy cẩn mật canh chừng đi tìm các chân trời
của cuộc sống. Đừng vào hùa với các ngôn sứ giả chỉ loan báo sự kết thúc hay sự
vô nghĩa của đời sống thánh hiến trong thời đại chúng ta, song hãy mặc lấy Chúa
Giêsu Kitô và mang lấy khí giới sự sáng[14],
lòng tỉnh thức và canh chừng”[15],
biết chắc chắn rằng đời sống thánh hiến không bao giờ có thể biến mất, vì “đời
sống này được chính Chúa Giêsu muốn như một phần không thể lấy đi khỏi Giáo Hội
của Ngài”[16].
Hãy luôn tiếp tục hành trình với niềm tín thác nơi Chúa. Trong Ngài, không ai
lấy đi được niềm hy vọng của chúng ta.
Hướng về các thế hệ tương lai,
ĐTC nói: Hỡi những người trẻ, các con là
hiện tại, vì các con sống tích cực, cống hiến một sự đóng góp quyết định và
quảng đại bởi sự lựa chọn của các con trong Hội Dòng; đồng thời các con cũng là
tương lai, vì sắp tới các con sẽ được mời gọi nắm giữ việc hướng dẫn linh hoạt,
huấn luyện, phục vụ, và công tác truyền giáo. Các con sẽ đi đầu trong việc đối
thoại với thế hệ các con. Trong tình hiệp thông huynh đệ, các con sẽ làm cho
mình nên phong phú về kinh nghiệm và khôn ngoan, để tái đề nghị cho thế hệ này
lý tưởng mà từ đầu họ đã biết, góp phần mở tung ra sự tươi mát và hăng say của
các con, cùng nhau đưa ra các hình thức mới để sống Phúc Âm và các câu trả lời
thích hợp cho việc chứng tá và loan báo Tin Mừng.
Như thế, ngoài việc kể lại lịch sử vĩ đại đã có trong quá
khứ, chúng ta còn được mời gọi viết ra một lịch sử không kém đẹp đẽ và lớn lao
về tương lai[17], tiếp tục
việc canh tân mà Công Đồng Vaticanô II đã đề ra, đặc biệt qua Sắc Lệnh Đức Ái
Trọn Hảo và Hiến Chế Tín Lý Ánh Sáng Muôn Dân, chương VI nói về đời sống thánh
hiến, là những điểm quy chiếu bắt buộc phải hướng tới,
làm mạnh mẽ mối liên hệ với Chúa Kitô và đời sống huynh đệ trong cộng
đoàn, trong sứ mệnh, đồng thời lưu tâm đến việc huấn luyện xứng hợp với các
thách đố của thời đại, dõi theo kinh nghiệm của các Vị sáng lập cách can đảm và
trung tín, nhưng
cũng đầy năng động sáng tạo[18].
Bộ Tu Sĩ nhấn mạnh khâu huấn luyện, vì biết rằng việc huấn luyện giữ vai trò
quan trọng trong hiện tại và tương lai của đời sống thánh hiến. Cần trân trọng giữ hài hòa một chuyển tiếp truyền thống giữa các thế hệ
như cha ông chúng ta thường nói “khôn đâu
đến trẻ, khỏe đâu đến già hay bảy
mươi học bảy mươi mốt” và ĐTC lại bảo rằng nếu không có người già thì không
có ký ức và kinh nghiệm khôn ngoan, còn nếu thiếu người trẻ thì thiếu sức sống đầy
hy vọng hướng về tương lai. Nhiều người trong chúng ta rất dễ quên điều đó lắm,
để rồi bị mất cân bằng và thiếu tính liên tục giữa cũ và mới!
Thật cảm động khi nhìn thấy hình ảnh và tấm gương mối
liên hệ của ĐTC Phanxicô và ĐGH hưu trí Biển Đức XVI. Chính ĐTC Phanxicô chia
sẻ: “Chúng tôi gặp gỡ nhau luôn. Trước khi tôi lên đường đi Hàn quốc,
tôi đã đến thăm ngài.
Hai tuần trước đó, ngài đã gửi cho tôi một bản văn đặc biệt và
hỏi ý kiến của tôi. Chúng tôi vốn liên
hệ bình thường với nhau… Mối liên hệ của chúng tôi thực sự là mối liên hệ anh em. Tôi cũng đã
nói rằng tôi cảm thấy như thể tôi có một
người ông trong nhà bởi đức
khôn ngoan của ngài. Ngài là một con người khôn ngoan, cảm
nhận đáng tôi nghe ngài. Và ngài phấn
khích tôi khi cần thiết nữa”[19].
Trong bối cảnh hướng về tương lai này, ĐTC Phanxicô cũng
đã thông báo quyết định duyệt lại qui luật về tương quan giữa các Dòng Tu và Giám Mục địa
phương để thăng tiến sự quí chuộng hơn đối với đoàn
sủng của mỗi Dòng.
Ngài nói: “Văn kiện “Liên hệ hỗ tương”[20]
hồi đó là hữu ích, nhưng nay đã lỗi thời rồi… Do kinh nghiệm, tôi biết những
vấn đề có thể nảy sinh giữa một Giám Mục và các cộng đồng dòng tu… Tôi cũng
biết rằng các Giám Mục không luôn luôn biết rõ những đoàn sủng và công việc của
các tu sĩ… Cần phải duy trì sự đối thoại giữa Giám Mục và các tu sĩ, để các
Giám Mục đừng coi các tu sĩ như những dụng cụ hữu ích chỉ vì thiếu hiểu biết về
các đoàn sủng của các tu sĩ”[21].
Với các linh mục triều thì tình trạng thiếu hiểu biết và cảm thông lắm khi
còn đáng lo ngại hơn nữa, như nhiều chị em đã nếm trải khi làm mục vụ giáo xứ.
Điều đáng mừng là Đức Cha Tổng Thư Ký Bộ Tu sĩ cho biết theo chỉ thị của ĐTC, sự
cộng tác chặt chẽ và khẩn thiết giữa Bộ Tu sĩ và Bộ Giám Mục đang có những bước
tiến đầu tiên trong việc xét lại văn kiện Các mối liên hệ hỗ tương giữa Giám Mục và các Tu Sĩ.
Ngoài ra, ĐTC Phanxicô mở ra tầm nhìn tương lai còn triển
vọng hơn nữa khi Ngài nói: “Cha hài lòng
vì biết rằng các Tu sĩ trẻ của các Hội Dòng khác nhau sẽ có nhiều dịp gặp nhau.
Chớ gì cuộc gặp gỡ này trở nên thường xuyên để hiệp
thông, nâng đỡ lẫn nhau và hiệp nhất với nhau”. Qủa thật các cuộc gặp gỡ như thế
giúp tu sĩ các Dòng khác nhau trở nên hòa đồng, thân thiện và cộng tác với nhau
dễ dàng hơn trong các công việc chung của Giáo phận và Giáo Hội. Phẩm chất của
các tu sĩ cũng được nâng cao và thăng tiến hơn, nhờ vừa học được cái hay cái
tốt của người vừa nỗ lực rèn luyện phát huy cái hay cái tốt và thanh danh của
Dòng mình.
Tuy
nhiên để đạt tới điều đó, các thành phần trẻ của Hội Dòng (Thanh Tuyển, Nhà
Thử, Nhà Tập) cần được huấn luyện chiều sâu của những nét độc đáo riêng biệt,
cũng như thực hành đặc sủng và linh đạo của Dòng, hầu được đâm rễ sâu vững chắc
vào đặc sủng và linh đạo của Dòng, vốn là những yếu tố làm nên căn tính cá biệt
người tu sĩ của mỗi Hội Dòng, khiến họ càng gắn bó vững chắc với Dòng. Công
việc này là bổn phận và trách nhiệm của mỗi Dòng, đặc biệt là của các Bề trên
và những người phụ trách việc đào tạo ở trong Dòng. Người khác có thể dạy
chuyên môn hơn và hay hơn, nhưng vẫn là chung chung của đời sống thánh hiến
thôi, cách dạy bằng chính gương sống, bối cảnh và bầu khí của Dòng sẽ tác động
mạnh và tích cực cho các thành viên của mình. Các ứng sinh và những thành phần
còn non trẻ của Dòng có quyền đòi hỏi và chờ đợi, không những được học về đặc
sủng và linh đạo của Dòng, mà còn được thấy gương sáng thúc đẩy từ các thành
viên lớn tuổi khác trong việc thực hành sống đặc sủng và linh đạo của Dòng. Hy
vọng chúng ta luôn quan tâm tầm quan trọng đó.
B. Năm Mong Đợi của Năm Đời Sống Thánh Hiến
1. Luôn luôn thỂ hiỆn đưỢc niỀm vui
Trong lời mở đầu Tông Thư, ĐTC đã
nhấn mạnh tới niềm vui: “Chúng ta cùng
nhau tạ ơn Chúa Cha đã đổ tràn đầy con tim chúng ta Thánh Thần của Ngài, Đấng
ban cho chúng ta niềm vui”. Phải, “ở đâu có các Tu Sĩ thì ở đó phải có
niềm vui”, vì
cảm nghiệm được Thiên Chúa làm đầy con tim mình khiến mình hạnh phúc khi sống
tình huynh đệ cộng đoàn, và điều đó nuôi dưỡng niềm vui của tu sĩ. Việc dấn
thân phục vụ Giáo Hội, các gia đình, các người trẻ, các người già, các người
nghèo cũng đem lại niềm vui cho tu sĩ. ĐTC mong đợi chúng ta đừng tỏ ra cho
nhau khuôn mặt buồn sầu, không hài lòng, không thỏa mãn, dù chúng ta cũng có
các khó khăn, những đêm tối tinh thần, những thất vọng, những bệnh tật, tuổi
già sức yếu. Nếu trong hoàn cảnh này mà chúng ta học nhận ra được nơi bản thân
mình và anh chị em chân dung của Chúa Kitô, Đấng vì yêu thương chúng ta mà
không từ chối thập giá, thì chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm vui và niềm vui
của chúng ta sẽ trọn vẹn.
Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng trích
lại lời ĐGH Biển Đức XVI “Hội Thánh phát
triển không phải bằng việc chiêu dụ, nhưng bằng sức thu hút”[22].
Đúng vậy, chính niềm vui và hạnh phúc của chúng ta sẽ lôi kéo các thanh thiếu
niên nam nữ và làm cho đời sống thánh hiến được tăng triển, chứ không phải bằng
những kế hoạch tranh đua tìm kiếm cổ vũ ơn gọi. Chúng ta nhớ lời nhận xét của
lương dân về cộng đoàn tín hữu đầu tiên “xem kìa, họ thương yêu nhau là dường
nào”, nhờ đó lương dân gia nhập Đạo làm Giáo Hội phát triển. Cũng thế, công
việc tông đồ của chúng ta chỉ hữu hiệu nhờ đời sống tỏa chiếu niềm vui và hạnh
phúc của chúng ta khi sống Phúc Âm và đi theo Chúa Giêsu, chứ không phải do các
phương tiện mạnh mẽ và hiệu năng. Giá trị của Giáo Hội tự nền tảng là do sống
Phúc Âm và làm chứng tá cho đức tin, thực sự là muối đất và ánh sáng trần gian.
Giáo Hội được kêu gọi làm cho men Nước Chúa hiện diện trong xã hội, và Giáo Hội
thực hiện được điều đó bằng chứng tá tình huynh đệ, sự liên đới và chia sẻ[23].
ĐTC
Phanxicô đã liên hệ sự vui vẻ và sự thánh
thiện: “Chúng ta chưa bao giờ nghe nói có
một ông thánh buồn hay một bà thánh có bộ mặt đưa đám ma! Tín hữu Kitô là người có tâm hồn chất chứa bình
an vì họ biết để niềm vui của họ vào Chúa khi đi qua những lúc khó khăn trong
cuộc đời. Có đức tin không có nghĩa là không gặp khó khăn, nhưng có đức tin là
có sức mạnh để vượt lên khó khăn, biết rằng chúng ta không một mình trước các
khó khăn này. Và đó là bình an của Chúa cho các con của Người”[24].
Đối
với tu sĩ chúng ta, những con người đi tìm chính Chúa hơn là công việc của Chúa,
thì niềm vui vừa là một khả thể vừa là một đòi hỏi cho sứ mệnh chứng tá. Quả
thế, việc dấn thân vì chính Chúa
giúp chúng ta nhận biết Chúa là tuyệt đối và
có qui chiếu tối hậu nơi Ngài, đến đỗi ngay cả giữa những cơn thử thách lớn lao
và ngờ vực của đêm tối đức tin, chúng ta cũng cảm nhận được Chúa Là Tất Cả. Xác
tín này cổ vũ dấn thân sống bền đỗ đời sống và sứ vụ ơn gọi trong mọi hoàn cảnh
cuộc đời. Nó đem lại bình an và kích hoạt sức mạnh cần thiết để chúng ta sống
vui tươi cuộc đời ơn gọi của mình, như ĐTC Phanxicô mong muốn các
nữ tu phải thể hiện niềm vui và một diện mạo nhân bản xuất phát từ việc nhận
biết Chúa Giêsu: “Khi chị em bước vào
cuộc hành trình suy niệm về Chúa Giêsu Kitô, cầu nguyện và sám hối với Ngài,
lòng nhân bản của chị em phát triển. Làm thế nào để một nữ tu thể hiện lòng
nhân bản của mình? Thông qua niềm vui, và ngày càng hân hoan hơn nữa! Tôi thật
buồn khi nhìn thấy các nữ tu với khuôn mặt buồn rười rượi. Họ có thể mỉm cười,
nhưng đó là một nụ cười giả tạo như những nụ cười của một tiếp viên hàng không.
Không! Chị em hãy cho thấy nụ cười hân hoan đến từ niềm vui nội tâm nhé?”[25].
Quả thế, một con tim đầy Thiên
Chúa là một con tim hạnh phúc, chiếu tỏa và làm lan rộng niềm vui cho tất cả
những người quanh mình, người ta sẽ nhận thấy ngay điều đó. Chính niềm vui ngời
lên trong nụ cười và ánh mắt này biểu lộ việc chúng ta sống cao độ ba lời khấn
Dòng của chúng ta, như ĐTC Phanxicô nhắc nhở: “Đức khiết tịnh, nghèo khó, vâng lời trở
thành một chứng tá vui vẻ của tình yêu Thiên Chúa trong cách chúng ta bám trụ
vững vàng trên tảng đá của lòng thương xót… Chỉ khi nào chứng tá của chúng ta vui vẻ thì chúng ta mới lôi cuốn được
giáo dân đến với Chúa Kitô; niềm vui này là ơn phúc được nuôi dưỡng bằng đời
sống cầu nguyện, chiêm niệm Lời Chúa, cử hành các bí tích và sống đời sống huynh
đệ cộng đoàn. Khi thiếu những chuyện này, thì lúc đó yếu đuối và khó khăn sẽ xuất
hiện, làm đen tối niềm vui mà chúng ta đã từng biết một cách mật thiết ở buổi
ban đầu con đường chúng ta đi”[26].
2. SỐng tính ngôn sỨ đỂ đánh thỨc
thẾ giỚi
Tính cách
tận căn của Phúc Âm là đòi hỏi cho tất cả mọi người. Nhưng điều làm nên đặc
tính của người thánh hiến là đặc tính ngôn sứ, như Chúa Giêsu đã sống trên trái
đất này[27]. Vị
ngôn sứ nhận từ Thiên Chúa khả năng thấu hiểu và giải thích các biến cố lịch
sử: như người tuần canh trong đêm tối biết lúc hừng đông xuất hiện[28]. Ngôn
sứ hiểu biết Thiên Chúa cũng như hiểu biết anh chị em mình, có khả năng phân
định và tố cáo các sự dữ cùng các bất công, nhưng không phải trả lời cho ai khác
ngoài Thiên Chúa; ngôn sứ sống tự do, vì chỉ quan tâm cái thuộc về Thiên Chúa,
chứ không phải tư lợi nào khác. Ngôn sứ thường đứng về phía người nghèo, người cô
thân cô thế, vì biết rằng Thiên Chúa đứng về phía mình.
Sứ vụ ngôn
sứ bao gồm hai khía cạnh: Loan báo và sống tình yêu nồng cháy của Chúa Giêsu
đối với Thiên Chúa, Nước Chúa, và dân chúng; đồng thời tố cáo thói giả hình,
bất công, áp bức,… dù phải trả giá đắt của thập giá và cái chết. Tuy sứ vụ ngôn
sứ là một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm, vì phải đóng vai chỉnh sửa ở trong
Giáo Hội cũng như ở ngoài Xã Hội, khi có quá nhiều áp bức bất công về xã hội,
chính trị, kinh tế và tôn giáo cực đoan, nhưng trong mọi tình huống, đều phải
theo nguyên tắc của thánh Phêrô: “Các ông
nghĩ thế nào cho phải lẽ trước mặt Chúa, vâng lời các ông hay là vâng lời Chúa?
Chúng tôi vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người”[29].
Thật lắm khi chúng
ta cảm thấy bị cám dỗ muốn bỏ trốn và thoái thác trách nhiệm như ngôn sứ Êlia
và Giôna, vì thấy quá nặng nề, mệt mỏi, chán nản. Nhưng hãy biết rằng chúng ta
không cô đơn, vì Chúa vẫn trấn an chúng ta như đã trấn an ông Giêrêmia: “Đừng sợ, Ta ở với con để che chở con”[30].
Chính trong tinh thần ấy mà ĐTC Phanxicô đã nói: “Hãy đánh thức thế giới! Hãy trở nên những chứng tá của một lối cư
xử, một lối hành động, một lối sống khác! Sống một lối sống khác biệt là điều
có thể trong thế giới này. Chúng ta đang nói dưới viễn tượng cánh chung về các
giá trị của Nước Trời đã nhập thể tại đây, trong thế giới này. Vấn đề ở đây là
từ bỏ mọi sự mà bước theo thầy Giêsu bằng một cách thức đặc biệt, cách thức
ngôn sứ. Đó chính là lời chứng mà tôi mong đợi nơi anh chị em. Các Tu sĩ cần
trở thành những người nam và nữ có thể đánh thức thế giới”[31].
Vì thế,
chúng ta đừng dừng lại ở ranh giới phàm trần, mà phải biết tạo ra “các nơi chốn
khác”, ở đó người ta sống lý luận của Phúc Âm, của ơn tận hiến, của tình huynh
đệ, của việc đón nhận các khác biệt, của tình yêu hỗ tương. Chúng ta phải làm
cho những nơi mình đang sống và làm việc, cũng như những nơi mà đức ái và tính
sáng tạo của đặc sủng làm nảy sinh, trở thành men bột Phúc Âm cho xã hội, có
thể nói lên sự thật và quyền năng của lời Chúa. ĐTC coi sứ vụ ngôn sứ của Nước
Trời là điều ưu tiên trong đời sống thánh hiến, nhưng phải là ngôn sứ thực sự,
không được giả hình giả bộ. Ma quỉ sẽ cố gắng cám dỗ chúng ta tỏ ra giống ngôn
sứ, chỉ đóng vai ngôn sứ mà thôi. Không, các tu sĩ phải là những người thắp
sáng con đường đi vào tương lai. Nhưng có một điều quan trọng khác mà ĐTC nhắc
chúng ta trong Sứ điệp Mùa Chay 2015 là chúng ta đừng nghĩ chúng ta là ngôn sứ
đi đánh thức thế giới, hay đánh thức người khác, mà chúng ta còn cần
thức tỉnh lương tâm chúng ta, khi nghe lại lời các ngôn sứ nữa, như Ca Dao Việt
Nam thường nhắc “Nói người hãy nghĩ đến
ta, thử sờ lên gáy xem xa hay gần”.
Kính
thưa Anh Chị Em,
Vì
thời gian không cho phép, tôi xin dừng lại ở đây. Anh Chị Em có
thể đọc các bài tiếp theo của tôi đăng trên blog www.cvlctt.net của tôi và hai
trang mạng Xuanbichvietnam.net,
conggiaovietnam.net, rồi một số trang mạng
khác cũng có chia sẻ về trang
của họ. Anh Chị Em cũng có thể vào Google đánh tên của tôi
Micae-Phaolô Trần Minh Huy và bấm tìm
kiếm, Google sẽ cho các đường dẫn đến các
bài viết và sách vở của tôi. Xin chân thành cám ơn Anh Chị Em.
Và cũng nhân
đây, xin cho phép tôi được mừng trước Năm Mới, Tuổi Mới các Bề Trên và tất cả
Anh Chị Em. Xin Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn mới. Cùng với ĐTC Phanxicô,
chúng ta ký thác cuộc sống và sứ vụ chúng ta cho Đức Mẹ. Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho
đến kiện toàn viên mãn những gì Ngài đã thương khởi sự với chúng ta, cho chúng
ta và qua chúng ta. Amen.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS
[1] Tông huấn Vita
Consecrata, số 110.
[2] Ngày
30/1/2015 tại Nhà nguyện thánh Matta.
[3] X. Hiến chế tín lý về Giáo Hội, Ánh sáng muôn dân,
số 12.
[6]
CNS 3-1-2014 - http://vietcatholic.org/News/Html/120037.htm
[7] Cuộc họp báo ngày 31-01-2014 trình bày NĂM CỦA ĐỜI
SỐNG THÁNH HIẾN 2015.
[8]
http://vietcatholic.org/News/Html/133063.htm.
[9] xem Đức ái trọn hảo, số 15.
[10] xem Ga 17, 21.
[11] Tông
huấn Đời Sống Thánh Hiến của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, số 13.
[12] Gr 1,8.
[13] xem 2 Tm 1,12; Lc 1,37.
[14] xem Rm 13,11-14.
[15] ĐTC Biển Đức giảng lễ ngày 2/2/2013.
[16] ĐGH Bênêđictô XVI nói với các Giám Mục Brazil, ngày 5-11-2010.
[17] xem Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến, số 110.
[19] ĐTC Phanxicô trả lời
Phỏng Vấn trên chuyến bay từ Nam Hàn về Rôma Thứ hai 18/8/2014.
[20] do Bộ các Dòng tu ban hành ngày 14/5/1978.
[21] ĐTC đã thông báo tại cuộc tiếp kiến 120 Bề Trên
Tổng Quyền Các Dòng Nam họp Đại Hội ở Rôma từ 27-29/11/2013 để thảo luận về
việc giải quyết những thách đố đang đặt ra cho giới tu sĩ.
[22] Tông
Huấn Niềm Vui của Tin Mừng, cuối số 14.
[23] ĐTC giảng Lễ Vọng Chúa Thánh Thần ngày 18 tháng 5
năm 2013.
[24] Nói trong buổi Kinh Truyền Tin Chúa Nhật
14/12/2014.
[26] ĐTC Phanxicô nói khi gặp các tu sĩ trong cuộc thăm
viếng mục vụ Hàn Quốc.
[27] ĐTC đã nói với các Bề Trên Tổng Quyền ngày
29/11/2013.
[28] xem Is 21, 11-12.
[29]
Cv 4,19; 5,29.
[31] ĐTC Phanxicô trả lời các Bề Trên Tổng Quyền Dòng
Nam ngày 29/11/2013 tại Rôma.