Thống Kê Về Giáo Hội Công Giáo Năm 2016

Thống Kê Về Giáo Hội Công Giáo Năm 2016

Hàng năm vào ngày lễ chủ nhật truyền giáo (tháng 10), hãng Fides cho phổ biến các số liệu thống kê về Giáo Hội. Số liệu năm nay được tính vào ngày 31.12.2014.
Dân số thế giới
Vào ngày 31.12.2014 trên thế giới có tổng cộng 7.160.739.000 người, tăng thêm 66.941.000 so với năm ngoái. Trong số tăng này có: Á châu (+ 37.349.000), Phi châu (+23.000.000), Mĩ châu (+8.657.000) và Đại Dương châu (+649.000). Âu châu giảm (-2.714.000)
Tín hữu công giáo
Cùng thời điểm, số tín hữu công giáo thế giới có: 1.272.281.000, tăng hơn so với năm trước 18.355.000 người. Số tăng ở Phi châu (+8.535.000), Mĩ châu (+6.642.000), Á châu (+3.027.000), Đại Dương châu (+208.000). Âu châu giảm (-57.000).
Tín hữu công giáo tăng khoảng 0,9%, chiếm 17,77% dân số thế giới. Số tăng tính theo từng châu lục: Phi châu (+0,38), Mĩ châu (+0,12), Á châu (+0,05), Âu châu (+0,14) và Đại Dương châu (+0,09).
Dân số thế giới và Ki-tô hữu cho mỗi linh mục
Số đầu người tính cho mỗi linh mục là 13.882 người, tăng hơn 130 người so với năm trước. Mĩ châu tăng (+79), Âu châu (+41) và Đại Dương châu (+289); giảm ở Phi (-125) và Á châu (-1.100).
Số tín hữu công giáo cho mỗi linh mục: 3.060, tăng 41 người so với năm trước. Tăng ở Phi châu (+73), Mĩ châu (+59); Âu châu (+22), Đại Dương châu (+83), trong khi Á châu hơi giảm (-17).
Giáo phận và Điểm truyền giáo
Có thêm 9 giáo phận, nâng tổng số lên 2.998. 9 giáo phậm mới gồm: Phi (+1), Mĩ (+3), Á (+3) và Âu châu (+2); châu Đại Dương không đổi.
Tổng cộng có 1.864 điềm truyền giáo có sự coi sóc của một linh mục (giảm 7 so với năm ngoái). Tăng thêm ở Phi (+39) và Âu châu (+2); giảm ở Mĩ (-35), Á (-8) và Đại Dương châu (-5).
Số điểm truyền giáo không có linh mục thường trực tăng 2.703 và như vậy hiện có khắp nơi trên thế giới 136.572 điểm. Số tăng ở Phi (+1.252), Mĩ (+ 2.891) và Đại Dương châu (+115); giảm ở Á (- 1.452) và Âu châu (-2).
Giám Mục
Tăng thêm 64 vị nâng tổng số lên 5.237. Giám mục giáo phận (triều): 3.992 (+47), giám mục dòng: 1.245 (+17). Trừ châu Đại Dương có số giám mục triều giảm (-1), các châu khác tăng: Mĩ (+20), Á (+9), Phi (+1) và Âu châu (+18). Giám mục dòng tăng: Phi (+5), Mĩ (+2) Á (+3) Âu (+6) và Đại Dương châu (+1).
Linh Mục
Tăng thêm 444, nâng tổng số lên 415.792. Giảm ở Âu (- 2.564), Mĩ (-123) và Đại Dương châu (-86), trong khi tăng ở Phi (+1.089) và Á châu (+2.128). Linh mục triều tăng 765, nâng tổng số lên 281.297. Tăng ở Phi (+1.023), Mĩ (+810) và Á châu (+848); giảm ở Âu (-1.914) và Đại Dương châu (-2). Lihn mục dòng giảm 321 người, tổng số còn 134.495. Tăng ở Phi (+66) và Á (+1.280); giảm ở Mĩ (-933), Âu (-650) và châu Đại Dương (-84).
Phó Tế vĩnh viễn
Tổng số 44.566, tăng thêm 1.371. Tăng ở Mĩ (+965), Âu (+311), Phi (+25), Á (+65) và Đại Dương châu (+5).
Tu sĩ nam nữ
Số nam tu giảm 694 người, còn tổng số 54.559. Tăng ở Phi (+331) và Á châu (+66); trong khi giảm ở Mĩ (-362), Âu (-653) và Đại Dương châu (-76). Số nữ tu cũng giảm 10.846, còn lại tổng số 682.729. Tăng và giảm theo châu lục: Phi (+725), Á (+604), Mĩ (–4.242), Âu (-7.733) và Đại Dương châu (–200).
Các tu hội đời
Tổng số thành viên của các tu hội nam: 654, ít hơn năm trước 58 người. Tăng và giảm theo châu lục: Phi (+2), Mĩ (-13), Á (-16) Âu (-31); châu Đại Dương không thay đổi.
Tổng số thành viên các tu hội đời nữ tăng thêm 243, với tổng số 24.198 người. Tăng giảm nơi các châu lục: Á (+44), Âu (-515), Phi (+7), Mĩ (-306) và Đại Dương (-3).
Giáo dân truyền giáo và giáo lí viên
Số lượng thừa sai giáo dân trên thế giới: 368.520, tăng hơn năm trước 841 người. Tăng giảm theo châu lục: Phi (+9), Âu (+6.806) Đại Dương (+41), Mĩ (-5.596) và Á châu (-419).
Số giáo lí viên tăng 107.200, nâng tổng số lên 3.264.768. Châu Phi tăng (+103.084), Á (+6.862), Đại Dương (+1.271), trong lúc Mĩ (-2.814) và Ău (-203) giảm.
Đại chủng sinh
Đại chủng sinh trong các chủng viện giáo phận và trong các học viện dòng tu giảm 1.312 người, còn 116.939. Phi (+636), trong khi Mĩ (-676), Á (-635), Âu (-629) và Đại Dương châu (-8).
Đại chủng sinh triều: 7.301 (-1.236, so với năm trước); đại chủng sinh dòng: 46.638 (-76). ĐCS triều chỉ tăng ở Phi châu (+222), trong khi giảm ở Mĩ (-594), Á (-373), Âu (-471) và Đại Dương châu (-20). D9CS dòng giảm ở Mĩ (-82), Á (-262), Âu (-158), trong khi tăng ở Phi (+ 414) và Đại Dương châu (+12).

Tiểu chủng sinh

Cả triều lẫn dòng tăng 1.014 người, nâng tổng số lên 102.942. Chỉ giảm ở châu Đại Dương (-42), còn lại đều tăng: Phi (+487), Mĩ (+1), Á (+174) và Âu (+ 394).
Tiểu chủng sinh triều: 78.489 (-67) và dòng 24.453 (+1.081). Giảm ở Mĩ (-47), Á (-668) và Đại Dương châu (-37). Tăng ở Phi (+291) và Âu châu (+394).
Tiểu chủng sinh trong các dòng: Phi (+196), Mĩ (+48), Á (+842) và Đại Dương (-5).
Trường học và cơ sở giáo dục
Các trường học và cơ sở giáo dục – huấn luyện do Giáo Hội sở hữu gồm 73.580 trường mẫu giáo với 7.043.634 học sinh; 96.283 tiểu học với 33.516.860 học sinh; 46.339 trung học với 19.760.924 học sinh; tổng cộng có 2.477.636 học sinh theo trong các trường chuyển tiếp của Giáo Hội và 2.719.643 sinh viên trong các đại học công giáo.
Cơ sở chăm sóc và trung tâm cứu tế
Giáo Hội điều khiển 5.158 bệnh viện, đa số ở Mĩ (1.501) và Phi châu (1.221); 16.523 bệnh xá, đa số ở Phi (5.230), Mĩ (4.667) và Á châu (3.584); 612 trung tâm trị phong, đa số ở Á (313) và Phi châu (174); 15.679 viện dưỡng lão và chăm sóc người tàn tật, đa số ở Âu (8.304) và Mĩ châu (3.726); 9.492 nhà cô nhi, đa số ở Á châu (3.859); 12.637 nhà trẻ, đa số ở Á (3.422) và Mĩ châu (3.477); 14.576 văn phòng cố vấn gia đình đa phần ở Âu châu (5.670) và Mĩ châu (5.634); 3.782 trường chuyên biệt và 37.601 trung tâm khác.
Các giáo phận truyền giáo thuộc quyền của Bộ Truyền Giáo
Có tổng cộng 1.108 (-3). Đa số ở Phi châu (508) và Á châu (480), tiếp đó ở Mĩ (74) và châu Đại Dương (46).

(Nguồn: Fides, 21.10.2016)