Văn Chương và Dân Chủ
Bùi Hạnh Nghi
Offenbach a M, Đức
Tài liệu Tập San Định
Hướng
Văn chương vừa là phản ảnh của đời sống vừa tác động vào đời sống trên bình
diện cá nhân cũng như xã hội. Nói cách khác văn chương liên hệ mật thiết với mọi
lãnh vực của cuộc sống, và tất nhiên với lãnh vực chính trị. Trong khi niềm khát
khao dân chủ của dân tộc ta ngày càng lớn mạnh và càng ngày càng nhiều trí thức
tại quê nhà công khai đòi hỏi và tranh đấu cho dân chủ bất chấp đàn áp và tù tội,
chúng ta, những nhà văn nhà thơ, những người yêu văn chương nên tự hỏi: văn chương
có mối tương quan nào đối với việc đòi hỏi và thực thi dân chủ, và nhà văn nhà
thơ có thể đóng góp gì cho giấc mộng lớn của dân tộc hiện nay?
Đại cương về Dân chủ
Trong phạm vi bài
nầy tôi sẽ không đào sâu ý niệm dân chủ dưới khía cạnh thể chế và luật pháp cũng
không bàn về luật chơi dân chủ. Đó là lãnh vực và sở trường của các nhà chính
trị và các luật gia. Ở đây chỉ xin dẫn nhập bằng một định nghĩa thông thường,
ngắn gọn trích từ tự điển: Dân chủ là một
thể chế quốc gia trong đó chủ quyền thuộc về dân. Những đặc tính quan trọng
nhất của dân chủ là: bầu cử tự do được tổ
chức định kỳ dưới hình thức phổ thông đầu phiếu; quyết định theo nguyên tắc thiểu
số phục tùng đa số nhưng vẫn có biện pháp
thích ứng bảo vệ các nhóm thiểu số; quyền lực quốc gia phải được đặt trên nền tảng
hiến pháp; phải bảo đảm những quyền căn bản như tự do tư tưởng, ngôn luận, tín
ngưỡng, tự do lập hội và tự do đi lại; phải phân quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Có hai hình thức chính của thể
chế dân chủ: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Để nền dân chủ được điều hành
tốt đẹp phải bảo đảm cho các đảng đối lập được tự do hoạt động và phải tạo điều
kiện thay đổi chính quyền bằng lá phiếu của người dân.
Thiết tưởng không
phải là quá đáng nếu chúng ta quả quyết rằng dân chủ nếu không phải là thể chế
lý tưởng tuyệt đối thì cũng là thể chế tốt đẹp và nhân bản nhất mà mọi người công
dân có ý thức, trong đó có những người cầm bút, đều phải góp phần đòi hỏi, xây
dựng và bảo vệ. Có dân chủ thực sự mới đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh. Phản
dân chủ tức là phản dân tộc. Độc tài Việt cộng là thể chế phản dân chủ trắng trợn
và độc hại nhất, tuy ngoài mặt vẫn huênh hoang dân chủ và hiến pháp 1992, chương
5 có qui định đầy đủ các "quyền và nghĩa vụ công dân" như bất cứ hiến
pháp nào trên thế giới.
Winston Churchill
trong bài diễn văn đọc tại Hạ Nghị Viện Anh quốc tháng 11 năm 1947, đã tuyên bố
một câu mà cho đến ngày nay vẫn còn nhiều người nhắc lại mỗi khi bàn về dân chủ
"Không ai cho rằng dân chủ là thể chế
tuyệt hảo. Nhưng trong tất cả các thể chế thì dân chủ là thể chế ít khuyết tật
nhất".
Đặc tính căn bản của
dân chủ là tự do và mọi người phải được hưởng mọi thứ quyền đã được ghi trong bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948 và trong hai Công Ước
Quốc Tế Nhân Quyền (Công Ước
về những Quyền Dân Sự và Chính Trị và Công Ước về những Quyền Kinh Tế Xã Hội và
Văn Hóa, l966). Helmut Schmitt, cựu thủ tướng Đức, gọi dân chủ là thành trì bảo vệ quyền tự do của mọi người. Đồng thời trọng
trách bảo vệ tự do nầy cũng là bí quyết bảo đảm sự trường tồn của dân chủ [1].
Tự do và bình đẳng
Tự do và bình đẳng trước pháp luật là hai yếu tố căn bản của dân chủ. Nhận định này không phải mới lạ gì. Cách đây hơn hai ngàn năm triết gia Hy Lạp Aristote (384 – 322 trước Tây lịch) đã tuyên bố : "Dân chủ được hình thành lúc nào người ta theo đuổi mục tiêu tự do và bình đẳng cho tất cả mọi công dân... Hai đặc tính căn bản của dân chủ là quyền lực phải thuộc về đa số và mọi người phải được tự do. Tự do bao gồm cả công bằng và bình đẳng. Tự do có nghĩa là mọi người được quyền hành động theo ý muốn của mình” [2].
Trước Aristote, Platon (427 – 347 trước Tây lịch),
một trong những triết gia được xem là sư tổ của triết học Tây phương cũng đã định
nghĩa thể chế dân chủ như sau:
"Đặc tính đầu tiên của dân chủ là mọi người dân
phải được tự do và quốc gia phải thực hiện tự do và bảo đảm quyền tự do ngôn luận"
[3]. Khi bàn về dân
chủ Platon đã nhìn nhận một cách rất xác đáng rằng: một trong những quyền tự do
căn bản là quyền tự do ngôn luận. Từ thời đại Platon đến nay nhân loại đã trải
qua hơn hai ngàn năm. Nhưng đối chiếu lời nhận định của Platon với tình trạng tự
do ngôn luận hiện nay tại nhiều vùng trên thế giới ta phải kết luận rằng: nhân
loại tuy có những bước tiến nhảy vọt về kỹ thuật, nhưng về tinh thần thì phát
triển chậm như rùa. Đường tiến hóa của nhân loại là một con đường cam go, tiến
một bước lại lùi hai bước và sự man rợ vẫn luôn luôn rình rập để chiếm lại những
phần đất mà văn minh đã khổ công khai phá. Một trong những thiên chức của người
cầm bút là gây ý thức và tác động trên tâm thức quần chúng để bảo vệ văn minh. Đó
là một công trình lâu dài đòi hỏi kiên trì và nhẫn nại.
Montesquieu được
xem là một trong những cha đẻ của tư tưởng dân chủ hiện đại cũng cho rằng:
trong một thể chế dân chủ, yêu nước tức là yêu dân chủ, mà yêu dân chủ tức là yêu
bình đẳng [4].
Ông chủ trương thực hiện bình đẳng bằng chính sách thuế khóa và những đạo luật
bắt người giàu phải đóng góp nhiều hơn để làm giảm bớt gánh nặng cho tầng lớp
nghèo. Nói cách khác một nền dân chủ đích thực luôn bao gồm tinh thần xã hội.
Những lời trích dẫn
trên đây tiêu biểu cho truyền thống dân
chủ của Tây phương. Còn Đông phương? Theo truyền thống Khổng Mạnh, thể chế quân
chủ được xem là định luật tất nhiên, một định luật do thiên mệnh, nghĩa là do ý
muốn và sự ủy thác của thượng đế. Nhưng quân chủ theo lý thuyết Khổng Mạnh (chưa
bị biến dạng bởi Tốâng Nho) không phải là quân chủ chuyên chế mà là quân chủ
duy dân. Câu ngạn ngữ La-tinh “Vox
populi, vox Dei” (Ý dân là ý Trời) vốn được xem là phương châm của tinh thần
dân chủ Tây phương đã được Khổng Tử tuyên bố từ mấy thế kỷ trước: "Thiên căng vu dân, dân chi sở dục, thiên
tất tòng chi" (Trời thương dân, dân muốn điều gì Trời cũng theo) [5].
Và mọi người chúng ta đều nhớ câu "Dân
vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" của Mạnh Tử.
Cũng trong tinh thần
đó, Trần Trọng Kim đã khẳng định trong chương tổng kết cuốn khảo luận về Nho giáo:
"Cái uy quyền chính đáng của những bậc
nhân quân là do ở sự chịu mệnh trời mà giữ hạnh phúc cho muôn dân. Khi nào kẻ
nhân quân không làm được chức vụ ấy nữa, là cái mệnh trời hết rồi, dù có lấy thế
lực mà áp chế, thì cũng là thế lực của một lũ đạo tặc mà thôi, cho nên Nho Giáo vẫn cho kẻ nhân giả được điếu
dân phạt tội" [6].
Một câu hỏi thường
được đặt ra là nếu xem dân chủ là sản phẩm của Tây phương thì có thể phù hợp với
con người Đông phương hay không? Hay là phải chấp nhận lập luận của một số nhà độc
tài Á châu trong những năm gần đây đã viện ra để bào chữa cho chính sách độc tài
của ho? Họ cho rằng dân chủ theo kiểu Tây phương không thể áp dụng cho các dân
tộc Á châu. Đó là một ngụy biện nguy hiểm nhưng phạm vi bài này không cho phép đi
sâu vào vấn đề này chỉ xin nói rằng tuy về phương diện xuất xứ lịch sử của lý
thuyết dân chủ thì sáng kiến dân chủ có thể được xem là sản phẩm của Tây phương
nhưng nội dung của sáng kiến này là quyền căn bản của tất cả nhân loại. Sự xuất
hiện của dân chủ là hiện tượng lịch sử của một thời đại nào đó, nhưng không thể
dựa vào đó để nói rằng dân chủ chỉ phù hợp với thời đại và địa điểm nó phát
sinh. Cũng như các tôn giáo lớn, tuy phát xuất từ một địa phương vào một thời đại
nhất định, nhưng không phải chỉ giới hạn vào dân tộc nơi xuất xứ mà là kho tàng
chung của tất cả tín đồ trên khắp thế giới. Dân chủ là vốn liếng chung của nhân
loại, nếu có điểm dị biệt trong truyền thống thì chỉ là khác nhau về hình thức,
về lễ nghi. Có thể hạn chế phần nào việc thực thi dân chủ tùy hoàn cảnh và tùy
trình độ dân trí nhưng không một chính quyền nào được quyền nhân danh văn hóa đặc
thù và truyền thống dị biệt, để bắt bớ người một cách ngang ngược, để áp đặt những
cấm đoán phi lí và dùng bạo lực đàn áp đày
ải nhân dân rồi ngang nhiên tuyên bố với thế giới rằng: đó là việc nội bộ của
chúng tôi, theo truyền thống văn hóa của chúng tôi, xin quí vị đừng can thiệp, đừng
xâm phạm vào nội bộ của chúng tôi.
Đáng thất vọng biết
bao nhiêu khi mà một số nhà cầm quyền của các nước dân chủ Âu, Mỹ hiện nay vì
muốn ve vãn cộng sản để tìm thị trường nên đã lặp lại những luận điệu xảo trá nầy
như một giáo điều để biện hộ việc họ bán rẻ dân chủ và nhân quyền cho lợi lộc
kinh tế.
Lúc nói về việc
thi hành dân chủ cần phân biệt một điểm khác biệt giữa Đông và Tây. Tây phương đặt
nặng vấn đề thể chế. Chỉ cần tạo được một thể chế dân chủ tốt với một hệ thống điều
hành và kiểm soát chặt chẽ. Nhà cầm quyền được dân chúng bầu ra chỉ cần có tài
kinh bang tế thế chứ không đặt nặng vấn đề đức độ. Còn Đông phương lại cho rằng
thể chế là vấn đề phụ thuộc, điểm chính yếu là đức độ của nhà cầm quyền. Nhà cầm
quyền có đức thì dù thể chế nào cũng sẽ mang hạnh phúc về cho dân, còn nhà cầm
quyền thất đức thì dù thể chế có tốt đẹp đến mấy cũng sẽ đưa dân vào vòng lao lý.
Lý tưởng là làm thế nào kết hợp và dung hòa được Đông Tây, vừa tạo được một thể chế dân chủ tốt, vừa
đặt nặng vấn đề đức độ, để quyền bính chỉ được trao cho những nhân vật và đảng
phái thực sự vì dân, lấy hạnh phúc của dân làm kim chỉ nam cho sách lược và hành
động, thay vì lấy quốc gia làm của riêng mình để vinh thân phì gia.
Sự cần thiết của ý thức Dân chủ
Chưa thể có một nền
dân chủ đích thực và hữu hiệu, nếu dân chủ chỉ mới có trên lý thuyết, trong cơ
chế và luật pháp, trong khi đại đa số người dân chưa thấu triệt những đặc tính
và ưu điểm của dân chủ cũng như chưa đánh giá được sự cần thiết của thể chế nầy
cho một đời sống xứng đáng với con người.
Ý thức là điểm then chốt. Nói ý thức là nói rằng
không phải tự nhiên mà có. Phải gầy dựng, trau dồi và bảo vệ. Các nước Âu châu
có một truyền thống dân chủ lâu đời, nhưng cũng đã trải qua nhiều thời đại
trong đó ý thức dân chủ đã bị lu mờ hoặc không đủ sức mạnh để cưỡng lại một cách
hiệu quả những hôn quân bạo chúa muốn dùng vũ lực hoặc mưu mô để áp đặt độc tài
hay là quân chủ chuyên chế. Chỉ mấy năm sau cuộc cách mạng Pháp 1789 Nã Phá Luân
đã làm mọi cách để được tấn phong hoàng đế và thiết lập một nền quân chủ chuyên
chế với tham vọng thôn tính toàn cõi Âu châu và đã gây cơn binh lửa khiến nhiều
quốc gia đổ nát hoang tàn. Tại Đức sự suy thoái của nền dân chủ Weimar đã là cơ
hội cho Hitler lên nắm chính quyền bằng đường lối dân chủ để liền sau đó tạo dựng
một chế độ độc tài có một không hai trong lịch sử. Và như mọi người biết, tại
Liên Xô cuộc cách mạng dưới chiêu bài dân chủ đã trực tiếp đưa đến nền chuyên
chế sắt máu làm thiệt mạng hàng chục triệu sinh linh và xô đẩy Liên Xô vào vực
thẳm không đáy của đói nghèo vàø lạc hậu
Điều làm ta lạc
quan là lịch sử cận đại đã chứng minh rằng chiến thắng cuối cùng bao giờ cũng về
phe dân chủ và nhờ vào thể chế và tinh
thần dân chủ mà các dân tộc Tây Ââu đã bảo đảm được hòa bình trường cửu trong mấy
chục năm gần đây.
Ý thức Dân chủ tại quốc nội
Điều nổi bật nhất
trong sinh hoạt chính trị tại quốc nội hiện nay là số người đòi hỏi dân chủ ngày
càng đông bất chấp đàn áp và tù tội. Đặc biệt trong số này không phải chỉ có những
người từ phía bị trị mà cả những người thuộc tầng lớp thống trị. Tuy nhiên đó mới
chỉ là nguyện vọng và đòi hỏi của một thiểu số trí thức. Còn đại đa số quần chúng
thì hầu như vẫn còn dửng dưng với dân chủ.
Trong bài phỏng vấn
của đài phát thanh VNCR California ngày 27.11.1995, Hà Sĩ Phu đã đưa ra một nhận
định về ý thức dân chủ trong nước. Và nhận định nầy cho đến bây giờ còn giữ
nguyên tính chất thời sự: "Nhu cầu dân
chủ hiện nay chỉ mới có ở thành thị và một số trí thức tiền tiến thôi. Còn ở miền quê và miền núi thì dân chúng chưa
chắc biết cái mới (dân chủ) là cái gì đâu...Sống quá lâu trong điều kiện dân chủ
giả, dân ta có thói quen coi thường lá phiếu, không biết phải thực hiện quyền dân
chủ bằng lá phiếu của mình".
Đại đa số quần chúng
dửng dưng là vì bất lực trước guồng máy áp bức nghiệt ngã, vì phải dốc toàn lực
vào sinh kế, vì lớn lên trong chế độ bưng bít lấy ngu dân làm quốc sách nên như
người bị mù từ thuở sơ sinh, chào đời và lớn lên trong thế giới của người mù nên
không biết ánh sáng là gì và không có nhu cầu, không thèm khát ánh sáng. Nhu cầu
cơm áo lớn hơn nhu cầu dân chủ. Thêm vào đó sau thời gian dài sống dưới áp lực
thường xuyên của khủng bố và đe dọa, sự sợ hãi hầu như đã trở thành bản tính tự
nhiên nên ít người dám lên tiếng đòi dân chủ mà chỉ muốn sống âm thầm nhẫn nhục
để được yên thân.
Bà Aung San Suu
Kyi, sáng lập viên của Liên Minh Quốc Gia Dân Chủ tại Miến Điện, giải Nobel hòa
bình năm 1991, đã có một nhận định tương tự: "Dân tộc nào muốn xây dựng quốc gia với những cơ chế dân chủ để chống lại
sự độc tài của nhà nước thì trước hết phải tự giải phóng mình khỏi dửng dưng và
sợ hãi". Lời tuyên bố này đã được nhắc lại trong bài tuyên dương bà tại
buổi lễ trao tặng vắng mặt giải thưởng Sacharow của quốc hội Âu châu cho bà vào
tháng 7.1991ø (vắng mặt vì bà đã không được chính quyền độc tài Miến Điện cho
phép xuất ngoại để nhận giải thưởng).
Quả thật dửng dưng
và sợ hãi là những chướng ngại vật cản trở tiến trình dân chủ tại quốc nội hiện
nay và trong tình trạng đó thì việc nâng cao dân trí để gieo mầm dân chủ lên đại
đa số quần chúng bây giờ và sau này khi cộng sản đã tan rã sẽ là một trọng trách
hàng đầu và cũng là một công trình lâu dài và khó khăn cho các chính trị gia cũng
như những nhà cầm bút.
Công tác trước mắt
là truyền bá tư tưởng dân chủ về trong nước bằng thư từ, bài vở, sách báo, hình
ảnh và tiếng nói của các đài phát thanh, như các đảng phái, đoàn thể chính trị
và văn hóa đã và đang làm bấy lâu nay. Nhất là nhờ sự phát triển của mạng lưới
Internet, sự truyền bá tư tưởng dân chủ có thể lướt thắng được sự cản trở của
Việt cộng. Ông
Gerd Poppe, Đặc ủy Nhân quyền và Viện trợ Nhân đạo của Bộ Ngoại giao Đức đã nhận
định về vai trò của Internet tại Việt Nam trong bài tường trình về chuyến viếng
thăm Nam Dương, Việt Nam và Cam Bốt từ ngày 17 đến 27.11.2001 vừa qua: "Đảng Cộng sản vẫn tiếp tục khống chế và
kiểm soát chặt chẽ đời sống chính trị và xã hội. Quyền tự do ngôn luận và báo
chí tại Việt Nam tiếp tục bi hạn chế tối
đa. Tuy nhiên ngày càng có nhiều người Việt Nam sử dụng Internet để lấy tin tức"
[7].
Trong công tác "chuyển lửa" về quốc nội có một trở ngại tâm lý cần phải
vượt qua là hiệu quả của công tác nầy không đo lường được cụ thể ngay trước mắt
nên dễ đâm ra nản lòng khiến có thể nửa chừng bỏ cuộc.
Một công tác cần đặc
biệt phát huy là yểm trợ và gây tiếng vang cho các tiếng nói dân chủ của những
cựu đảng viên cộng sản trong và ngoài nước. Trong giai đoạn nầy chưa nên phí
thì giờ vào những cuộc tranh luận nên hay không nên tin tưởng vào thành tâm thiện
chí của lớp người này hay là đặt ra nghi vấn biết đâu họ chẳng là "cò mồi"
(?). Nghi vấn nầy không mang lại lợi ích thiết thực nào mà còn có thể lầm kế ly
gián của đối phương đồng thời khiến ta không sử dụng những lời phản tỉnh làm lợi
khí đấu tranh cho dân chủ và gây ý thức dân chủ trong nước. Tiếng nói của lớp
người phản tỉnh là những phát trọng pháo bắn vào thành trì chuyên chế. Đối với đồng
hương quốc nội, những tiếng nói này nặng ký hơn tiếng nói của chúng ta ở hải
ngoại.
Ý thức Dân chủ tại hải ngoại
Tại hải ngoại, vì
sống trong môi trường dân chủ và nhờ báo chí truyền thông Việt ngữ thường xuyên
đề cập đến vấn đề dân chủ nên ý thức dân chủ của đồng hương khả quan hơn. Nhưng
nếu quan sát kỹ lề lối sinh hoạt tại hải
ngoại, chúng ta vẫn phải công nhận rằng tinh thần dân chủ còn sa sút trầm trọng
và còn nhiều người, rất nhiều người kể cả tầng lớp trí thức và giới cầm bút vẫn
chưa thấm nhuần tinh thần dân chủ và chưa lấy đó làm kim chỉ nam và nền tảng
cho hành động của mình trong xã hội. Hiện vẫn còn vô số người miệng thì hô hào
dân chủ nhưng không chấp nhận ý kiến trái ngược với mình. Nếu gặp người nào chủ
trương một đường lối hơi khác vói mình hoặc có một quan niệm đấu tranh không hoàn toàn phù hợp với mình trong mục tiêu
chống cộng thì chẳng những không tranh luận một cách ôn hòa để người khác nhận
ra sai lầm của họ (hay là chính mình khận ra khuyết điểm của mình) trong tinh
thần phục thiện mà lại còn chụp mũ, lên án, mạt sát rồi tìm đủ cách tạo ra áp lực trong cộng đồng để trấn áp.
Tinh thần Dân chủ
Phải có tinh thần
dân chủ mới biết tôn trọng luật chơi dân chủ trong thực hành, nếu không thì tất
cả những lời tuyên bố về dân chủ chỉ là gạt gẫm.
Václav Havel, nhà
văn lừng danh quốc tế đã từng bị cầm tù vì ngòi bút chống độc tài và là đương
kim Tổng thống Tiệp đã sáng tác nhiều thiên khảo luận và nhiều vở kịch nổi danh
chung quanh đề tài dân chủ và độc tài, đã phát biểu như sau trong bài diễn văn đọc
trước Quốc Hội Liên Bang Tiệp Khắc ngày 29.06.90: "Chúng ta sẽ không tạo được một quốc gia thực sự dân chủ, nếu chúng
ta quan niệm dân chủ chỉ là một số luật chơi nặng về hình thức... Dân chủ là công
trình của những người đã hiểu được những quyền căn bản bất khả xâm phạm của
mình, biết tôn trọng nhân quyền và xác tín rằng mình có trách nhiệm đối với dân
tộc".
Lời tuyên bố trên đây
cho chúng ta thấy trong việc xây dựng và bảo tồn dân chủ, tinh thần mới là yếu
tố quyết định.
Gyưrgy Konrad, một
nhà văn nổi tiếng khác đã từng sống và bị tù đày dưới chế độ cộng sản Hung Gia
Lợi và đã từng làm chủ tịch Văn Bút Quốc Tế, cũng đã nhấn mạnh về tinh thần dân
chủ trong bài diễn văn đọc tại buổi lễ của Hiệp Hội Các Nhà Xuất Bản Đức trao tặng
giải thưởng Hòa Bình cho ông: "Xây dựng
dân chủ không là vấn đề của một năm, không phải chỉ là mở cửa một cách ồ ạt đón
luồng gió mới. Dân chủ là một công trình văn hóa lâu dài, không chỉ nằm trong lãnh
vực luật pháp và cơ chế mà là vấn đề của những suy tư chính trị tâm lý".
Rainer Barzel, cựu
đảng trưởng đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo, một trong hai đảng lớn nhất tại Đức,
cũng đã có một nhận định tương tự: "Không
phải những khuôn khổ và cơ chế, cũng không phải phương sách điều hành làm thành
dân chủ mà chỉ có tinh thần và đạo đức mới kiến tạo được dân chủ, mới bảo đảm
cho xã hội được thực sự tự do".[8]
Công cuộc dành lại dân chủ của các nước cộng sản Đông
Âu đã chứng minh hùng hồn cho vai trò quyết định của ý thức và tinh thần: việc
dành lại dân chủ đã không thể thành tựu nếu không có sự bền bỉ truyền bá tư tưởng
dân chủ từ các nước Tây phương và không có cuộc phát động phong trào Glasnost
va Perestroika khởi đầu từ Gorbaschow.
Nếu sinh hoạt chính trị của cộng đồng quốc gia được điều
hành trong tinh thần dân chủ thì ngay
trong một thể chế quân chủ vẫn bảo đảm được tự do và nhân quyền như bất
cứ thể chế dân chủ nào trên thế giới. Đó là điều chúng ta có thể nhìn thấy qua
mô hình quân chủ tại Anh, tại Bỉ hay một vài nước Bắc Âu khác.
Riêng tại Anh quốc
chỉ cần so sánh đời sống chính trị nơi đây với những nước độc tài cộng sản hay
không không cộng sản trên thế giới cũng đủ thấy rằng tinh thần mới là yếu tố
quan trọng: tuy Anh quốc theo thể chế quân chủ và hoàng gia vốn có tiếng là bảo
thủ thế mà Anh quốc lại được xem là một trong những quốc gia có đời sống chính
trị dân chủ nhất thế giới. Điều đó cho ta thấy rằng, thể chế chỉ là hình thức,
tinh thần mới là nòng cốt. Tinh thần này được thể hiện qua hình thức sinh hoạt
chính trị, trong đó người dân tại Anh quốc được mọi quyền dân chủ không thua gì
các nước dân chủ khác ở Âu châu và Mỹ châu.
Tinh thần dân chủ được
thể hiện qua đặc tính bao dung, khoan nhượng, tôn trọng ý kiến tha nhân ngay cả những khi ý kiến đó nghịch với ý kiến
của mình. Bất đồng ý kiến phải được giải quyết bằng tranh luận, tranh luận không
thô bạo mà có văn hóa. Trong môi trường sinh hoạt chính trị phải cho đối lập được
tự do phát biểu, không chụp mũ, không dùng bạo lực để uy hiếp mà chỉ dùng lý luận
để đối thoại. Đối thoại trong ý muốn thành khẩn tìm sự đồng thuận. Những đảng phái
chiếm được đa số không được ỷ vào vị thế đa số của mình để bài trừ hoặc đàn áp
thiểu số. Tự do ngôn luận không phải là đặc quyền của khối đa số mà chính các
nhóm thiểu số mới cần được tự do ngôn luận. Muốn đo lường trình độ văn minh và
tinh thần dân chủ của một cộng đồng thì hãy quan sát thái độ và cách cư xử của
họ đối với các nhóm thiểu số. Càng văn minh càng giảm bớt sự ngược đãi hay là kỳ
thị đối với các nhóm này.
Một trong những điểm son của tinh thần dân chủ
là sẵn sàng đối thoại. Muốn đối thoại đúng nghĩa của nó là phải can đảm, thành
thật và thẳng thắn. Đối thoại đòi hỏi một thái độ cởi mở, không tự ban cho mình
độc quyền chân lý, không chụp mũ và không dùng quá khích và cực đoan đểå bóp chết
lý luận nhằm gây áp lực trong cộng đồng. Ngoài những áp lực phát xuất từ quan điểm
chính trị hẹp hòi, còn có áp lực công khai hay ngấm ngầm của truyền thốâng, tập
quán và của cả những thành kiến sai lầm nhưng vì được đa số tán đồng nên nghiễm
nhiên trở thành chân lý. Một kẻ thù khác của thái độ cởi mở trong đối thoại là
những hành vi du đãng tinh thần tôi sẽ đề cập dưới đây.
Một áp lực khác cũng
tệ hại không kém trong mối giao thiệp bạn bè và trong lề lối phê bình văn học của
chúng ta. Chúng ta thường hay cả nể, sợ mất lòng, sợ bị trả thù, nên đôi khi không
dám nói thẳng, trước mặt thì tâng bốc, sau lưng thì chê bai thậm tệ. Nền phê bình văn học của ta sẽ không phát
triển theo chiều hướng tốt, bao lâu chúng ta còn giới hạn công tác phê bình vào
việc tâng bốc nhau một cách quá đáng: một tác phẩm nếu được bình phẩm một cách
thẳng thắn theo những tiêu chuẩn khách quan thì chỉ đáng được liệt vào hạng
trung bình, nhưng qua lời khen tặng trên báo chí hoặc trong các lời tựa, lời bạt
ta tưởng như tác phẩm này sắp nhận giải Nobel. Dĩ nhiên với nhu cầu khích lệ bạn
bè lắm khi cũng phải phóng đại những ưu điểm của tác phẩm được phê bình, nhưng
nếu đi quá giới hạn nào đó thì chỉ làm trò cười cho độc giả.
Có tinh thần dân chủ là biết nhìn nhận, chấp
nhận và tôn trọng những dị biệt trong xã hội. Tôn trọng không phải miễn cưỡng
hay là do tính toán chiến thuật mà tôn trọng vì xem đó là quyền sống của mọi người,
và trên bình diện cộng đồng thì xem đó là yếu tố làm phong phú xã hội.
Trong lãnh vực văn
chương, tinh thần dân chủ là tôn trọng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và một
khía cạnh của quyền này là tự do sáng tác . Kiểm duyệt là kẻ thù không đội trời
chung của sáng tạo. Bên cạnh những biện pháp kiểm duyệt do nhà cầm quyền còn có
những hình thức kiểm duyệt ngấm ngầm dựa trên những thành kiến được xem là truyền
thống, là nền tảng luân lý của một cộng đồng. Lịch sử đã chứng minh rằng thiên
tài thường là những người có can đảm và đủ bản lĩõnh để tự giải phóng mình khỏi
áp lực của thành kiến, khỏi những sự kiểm duyệt vô hình như xiềng xích trói buộc,
không cho đại bàng cất cánh.
Tự do sáng tác phải được bảo vệ và cổ võ cả
trong những giai đoạn phải dốc toàn lực vào cuộc đấu tranh chung. Nếu bạn ca ngợi
tình yêu hay là mơ trăng với gió mà tạo được
những vần thơ tuyệt vời thì vẫn đáng hoan nghênh hơn là gượng gạo sáng tác một
bài thơ có tính cách thời sự như ca ngợi dân chủ hay là lên án cộng sản mà vì
thiếu xác tín và nghèo cảm hứng nên đọc lên chỉ có âm hưởng của một bài thơ....con
cóc. Không nên vì nhu cầu tranh đấu hiện tại mà đòi hỏi và chờ đợi mọi người cầm
bút chỉ được sáng tác chung quanh đề tài tranh đấu và phê phán những người sáng
tác ngoài chủ đề này là không có lập trường, là không yêu nước v.v... Sự khắt
khe này là nét đặc thù của những thể chế độc tài hoặc xã hội độc đoán. Chắc có
người nghĩ rằng chỉ có cộng sản mới độc đoán còn chúng ta ở hải ngoại đã thấm
nhuần tư tưởng dân chủ nên không còn ai thiển cận, cuồng tín và ấu trĩ như vậy.
Nhưng nếu để ý nhận xét chúng ta sẽ thấy
- ngay cả trong môi trường tự do tại hải ngoại – nhan nhản những trường hợp ấu
trĩ cuồng tín trong mọi lãnh vực, kể cả lãnh vực văn chương. Chính vì được sống
trong môi trường dân chủ tự do mà người ta dễ đi quá đà để hành động phản dân
chủ. Phản dân chủ rất đa dạng. Có những hình thức công khai lộ liễu. Có những
hình thức ngấm ngầm tinh vi xảo quyệt. Nhà văn, nhạy cảm hơn quần chúng, có nhiệm
vụ phát hiện những hình thức phản dân chủ tinh vi, phát hiện những hình thức độc
tài núp dưới những chiêu bài mị dân hay là dựa trên truyền thống, ví dụ truyền thống Khổng Mạnh được giải thích
một chiều và sai lầm.
Người viết văn phải
có can đảm tự quyết, sáng tác theo sở thích, năng khiếu và cảm hứng của mình. Dĩ
nhiên trong lúc toàn dân còn quằn quại dưới ách độc tài, người cầm bút nếu muốn
giữ đúng vai trò của một người con trí thức của dân tộc thì phải thấm nhuần
tinh thần dân chủ và mang trong lòng niềm đau vô biên của mấy chục triệu đồng bào
và do đó cũng sẽ tìm được nguồn cảm hứng đích thực trong cuộc đấu tranh chung và
sẽ sáng tác được những tác phẩm văn chương đặc sắc với đề tài chống độc tài và
phát huy dân chủ, nhân quyền v.v... Miễn là đừng gượng ép và phải chú trọng đến
phẩm chất văn chương. Nếu phẩm chất cao thì tác dụng đấu tranh sẽ mãnh liệt, nếu
phẩm chất kém thì tác phẩm sẽ bị liệt vào loại văn chương tuyên truyền rẻ tiền,
vô hiệu lực mà lắm khi lại còn đưa đến những hậu quả trái ngược với mục tiêu
tranh đấu, có thể khiến người đọc vì bực bội với thơ văn của chúng ta mà chán
ngấy cả dân chủ, chán ngấy cả chính nghĩa đấu tranh. Thơ văn đấu tranh mà không
đạt được một tiêu chuẩn phẩm chất nào đó sẽ có tác dụng phản tuyên truyền, phản
dân chủ.
Nói đến những hành
vi phản dân chủ là phải nói đến hành hung, bạo lực. Hành hung và bạo lực thể xác
là những điều ai cũng lên án, ngoại trừ một số cuồng tín quá khích. Nhưng có những
hình thức bạo lực khác mà tôi tạm gọi là du đãng tinh thần, đó là những hành vi
lạm dụng báo chí truyền thông để phỉ báng cá nhân. Nếu chúng ta chỉ phẫn nộ đối
với những hành vi phi dân chủ của cộng sản chưa đủ, còn phải phẫn nộ và lên án
mọi hành vi du đãng tinh thần mà chúng ta thường thấy trên báo chí sách vở ngay
trong giới tuyến của chúng ta. Phê bình chỉ trích là quyền của mỗi người và là điều
cần thiết nhưng phải tránh bới móc đời tư và dùng lời lẽ mạt sát. Luận cứ phê
bình phải dựa trên nhũng sự kiện và bằng chứng xác đáng, còn xuyên tạc, bôi nhọ,
loan tin thất thiệt hay là truyền bá những lời đồn đãi không phối kiểm để làm tổn
thương danh dự tha nhân là hành vi thiếu lương thiện và phá hoại cộng đồng.
Hành động phản dân
chủ quả là thiên hình vạn trạng và tinh thần phản dân chủ còn ngự trị trên cả
những người huênh hoang là mình tranh đấu cho dân chủ. Nói dân chủ thì dễ, nhưng
từ lời nói đến tinh thần dân chủ đích thực còn là một con đường vạn dặm và là một
cuộc hành trình vất vả vô song.
Điều phản dân chủ
trầm trọng nhất là xu hướng độc tài của giới lãnh đạo và não trạng nô lệ của người
bị trị. Khi nói tới độc tài và dân chủ, người ta thường chỉ nghĩ đến môi trường
sinh hoạt rộng lớn của quốc gia, nhưng trong cộng đồng nhỏ cũng có những hiện tượng
độc tài rất lạc hậu. Nhà cầm quyền hay giới lãnh đạo thường ngụy biện rằng, quần
chúng chưa đủ trình độ để thực thi dân chủ nên cần một nhà "độc tài sáng
suốt". Và một số nhà lãnh đạo tôn giáo thường lợi dụng uy thế tinh thần của
mình để áp đặt độc tài một cách tinh vi lên cộng đồng "con cái" của
mình, vi dụ lèo lái các cuộc bầu cử đại diện.
Độc tài được thành
hình và củng cố một phần là do thủ đoạn của giới lãnh đạo và hoàn cảnh ngoại
lai – quyền bính dễ làm hư hỏng con người – nhưng một phần không nhỏ là do thái
độ và tư cách đầy tính chất nô lệ của tầng lớp bị trị. Có lẽ còn phải rất nhiều
thời gian mới lọc được giòng máu nô lệ từ lâu đời vẫn còn luân lưu trong huyết
quản chúng ta. Nếu cứ tâng bốc nịnh bợ giới cầm quyền ngay cả trong thể chế dân
chủ, nếu cứ thần thánh hóa cấp lãnh đạo như ta thường thấy trong lãnh vực tôn
giáo thì chẳng chóng thì chầy dân chủ sẽ tàn rụi và độc tài sẽ lớn mạnh. Tự
nguyện từ khước quyền suy nghĩ, quyền ăn nói và nỗå lực làm vừa lòng cấp trên để
được hưởng ơn mưa móc tinh thần hay vật chất cũng là một hình thức phản dân chủ.
Tiếm danh tiếm vị,
tự phong cho mình chức này, chức nọ cũng là một hành vi thiếu dân chủ vì đặc
tính của dân chủ là quyền lực và chức vụ
không phải tự mình chiếm lấy mà được ủy thác qua một thể thức bầu cử rõ rệt. Thử
tưởng tượng nếu bây giờ ai đó trong chúng ta tụ tập được dăm ba người để lập thành
một nhóm tranh đấu cho dân chủ rồi tự tặng cho mình danh hiệu to lớn là Chủ-tịch
Liên-đảng Dân-chủ Âu-châu thì chúng ta phải đánh giá thế nào về người đó? Tuy
nhiên trong môi trường sống tại hải ngoại hiện nay, đôi khi chúng ta cũng nên
nhắm mắt làm ngơ trước những hành vi thiếu dân chủ này, nếu nó đem lại một lợi
ích nào đó cho cuộc đấu tranh chung.
Dân chủ sẽ không được
phát triển đúng mức bao lâu lớp người "được” lãnh đạo (bị trị) còn đắm
chìm trong não trạng nô lệ, đành chịu nhục nhã miễn là yên thân và khỏi tốn công
suy nghĩ và tranh đấu. Đừng nói gì những dân nhược tiểu đã nhiều kiếp nô lệ, cả
nhưng dân văn minh như Đông Đức trong những năm đầu mới thoát ách cộng sản, rất
nhiều người dân ngỡ ngàng vì những quyền tự do mới chiếm lại, vì tự do đi đôi với
trách nhiệm mà đã mấy chục năm trời họ quen với nếp sống chỉ biết phục tòng và
khoán trắng trách nhiệm về quốc gia cũng như về cuộc đời mình cho tầng lớp lãnh
đạo. Thậm chí vì không biết sử dụng quyền tự chủ họ đâm ra lưu luyến và tiếc nhớ
chế độ độc tài cũ trong đó họ đã sống những ngày họ cho là thoải mái vì dựa trên
sự thụ động và trốn tránh trách nhiệm.
Liên hệ giữa Văn chương và Dân chủ
Dân chủ là điều kiện
phát huy Văn chương
Không có tự do thì
văn chương chẳng khác gì cá nằm trên cạn. Phải có tự do dân chủ văn chương mới được
phát triển tột bực. Athènes, thủ đô Hy Lạp, ngay từ thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch
đã có một thể chế dân chủ trực tiếp rất tiến bộ. Đó là một hiện tượng hiếm hoi
thời bấy giờ, trong khi tất cả các nước và vùng khác đều do tầng lớp thượng lưu
thống trị. Nếp sống và tinh thần dân chủ tại thành phố này đã là cơ hội cho sự
phát triển tột bực của văn hóa và sự phồn thịnh của nền kinh tế. Kết quả đã
mang lại một nền văn chương sán lạn còn được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.
Thừa kế của nền dân chủ Athènes là cộng hòa La
Mã. Tuy dân chủ thời đó là đặc quyền của tầng lớp công dân tự do chứ không có dân
chủ cho lớp người nô lệ, nhưng cộng hòa La Mã đã là môi trường cho giới trí thức
tạo được những tác phẩm tuyệt vời và đã truyền cho Âu châu của những thế hệ sau
cho đến ngày nay một gia sản luật pháp và văn chương vô cùng phong phú. Hai nền
dân chủ vừa nói không những đã tạo được những thế chế dân chủ mà – điều này mới
quan trọng hơn – đã gầy dựng ý thức và tinh thần dân chủ và lưu truyền cho những
thế hệ sau. Tây Âu đã trải qua nhiều thời đại quân chủ chuyên chế và phong kiến
áp bức, nhưng ý thức dân chủ từ truyền thống Hy La vẫn như ngọn lửa thiêng cháy
âm ỷ trong tiềm thức các dân tộc để khi thời cơ đến thì bùng lên. Thời đại Phục-hưng
bắt nguồn từ Ý Đại Lợi cũng là sự hồi sinh của văn minh La Mã với chính thể cộng
hòa tự do và đã là cơ hội cho sự phát triển văn hóa và kinh tế. Đến mấy thế kỷ
sau truyền thống tốt đẹp đó đã làm bùng lên các cuộc cách mạng dân chủ tại Mỹ và
Pháp...
Ai đã từng đọc tác
phẩm của một số nhà văn trong nước trong giai đoạn đầu sau khi "cởi trói"
đều phải công nhận chỉ mới bắt đầu được hưởng một chút tự do đã khơi nguồn cho
sáng tác và tạo thành một bầu khí sáng tác thật là khởi sắc và tạo nên nhiều tác
phẩm hay chưa từng thấy trong những giai đoạn trước. Tiểu thuyết của Dương Thu
Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Huy Thiệp... tuy chưa phải là tuyệt tác nhưng cũng
là những ví dụ chứng minh cho định luật: tự do cần thiết cho sự phát triển của
văn chương.
Dân chủ còn ảnh hưởng
tốt đẹp trên cách sử dụng ngôn ngữ. Sau cách mạng dân chủ 1919 tại Trung Hoa ngôn
ngữ được dùng trong các tác phẩm văn chương không còn là ngôn ngữ bác học của một
thiểu số trí thức mà là ngôn ngữ đại chúng.
Độc tài hủy hoại văn chương
Nếu dân chủ tự do
chắp cánh cho văn chương, mang cho văn chương đôi dày bảy dặm thì độc tài là xiềng
xích trói buộc và là thuốc độc hủy hoại văn chương, hay ít ra cũng không tạo môi
trường cho sự hình thành những tác phẩm đặc sắc. Sáng tác văn chương là một
hình thức thể hiện cá tính và bản ngã của con người. Nếu sáng tác chỉ theo lệnh
trên và chỉ để vừa lòng thượng cấp rập theo những khuôn mẫu áp đặt thì làm sao
phát huy được cá tính và bản ngã, làm sao nói lên được tiếng nói trung thực của lòng người viết và tất nhiên chỉ có thể đẻ
ra những đứa con tinh thần èo uột ốm yếu để khỏi nói là quái thai mà những ai yêu thích và am hiểu văn chương đọc
lên phải cảm thấy bàng hoàng như lạc vào thế giói của ác mộng. Nền văn học dưới
các chế độ cộng sản nhất là ở Việt Nam đầy dẫy những sản phẩm loại này và chỉ cần so sánh văn thơ của một vài tác giả
như Tố Hữu, Huy Cận v.v... trước và sau khi họ biến thành công cụ cho giới cầm
quyền cộng sản là đủ thấy độc tài vừa hủy diệt tài nghệ vừa tiêu diệt phẩm cách
con người.
Không riêng gì độc
tài cộng sản mới là thuốc độc của văn chương. Quân chủ phong kiến tuy về phương
diện nầy không độc địa bằng cộng sản nhưng cũng không thể là môi trường thuận lợi
cho tự do sáng tác. Chỉ viết ra nỗi bất bình về chuyên chế quá độ hay là những
bất công xã hội là đã mang họa vào thân. Sáng tác văn chương mà phạm húy đã là
trọng tội và làm thơ phú trong các kỳ thi mà phạm húy thì dù bài vở đặc sắc đến
mấy cũng bị loại bỏ. Chuyện Kiều không phải là một tác phẩm có tư tưởng chống
quân chủ vậy mà Vua Tự Đức khi đọc đến đoạn nói về Từ Hải đã phê "Nếu Nguyễn Du còn sống thì phải nọc ra mà đánh
mấy chục trượng" (vì tội đã ca tụng Từ Hải mà dưới mắt triều đình Từ Hải
là một tên phản loạn).
Nhưng công bằng mà
nói, cũng có những triều đại quân chủ tạo điều kiện cho văn chương được triển nở.
Chỉ xin đan cử hai ví dụ: Triều đại Vua Lê Thánh Tôn với Hội Tao Đàn và Nhị Thập
Bát Tú và văn chương Pháp vào thế kỷ thứ 17 dưới thời Louis 14. Tuy nhiên công trạng
của các triều đại nầy đối với văn chương vẫn chưa thể so sánh với hậu quả tốt đẹp
của nền dân chủ. Chỉ một thiểu số thuộc thành phần xã hội được ưu đãi mới có cơ
hội đọc và thưởng thức văn chương. Mà số người sáng tác lại càng hiếm hoi hơn.
Văn chương dưới thời quân chủ chỉ là xa xí phẩm của một thiểu số không ảnh hưởng
gì đến đại chúng.
Những nguy cơ đe dọa dân chủ:
Helmut Schmitt, cựu
thủ tướng Đức, đã nhận định về mối đe dọa thường xuyên của dân chủ như sau: “Có những dân tộc sử dụng lá phiếu của mình một
cách vô ý thức, bầu cho những kẻ thù của dân chủ, nghĩa là họ đã sử dụng quyền
tự do để biểu quyết chấp nhận bạo quyền hủy diệt tự do. Tại nhiều quốc gia thế
giới thứ ba và một số quốc gia hậu cộng sản thuộc cựu đế quốc Liên Xô nền dân
chủ đang bị lung lay vì không có ổn định kinh tế và xã hội. Tại một vài nơi người
ta nhân danh dân chủ để vi phạm quyền tự quyết về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo
của các nhóm thiểu số và để công khai chà đạp nhân quyền. Cả đến Hiến pháp của
Cộng Hòa Liên Bang Đức vốn được xem là một gương mẫu cho dân chủ cũng chưa hoàn
toàn bảo đảm cho quốc gia khỏi bị lũng đoạn bởi một vài nhóm có quyền lực hoặc
là bảo đảm cho chính trường khỏi bịï khống chế bởi các đảng phái và điều đó đã
khiến quần chúng xa rời và dửng dưng đối với dân chủ" [9].
Trong nhiều trường
hợp, độc tài có thể do những người hay những tổ chức đã được bầu ra một cách dân
chủ hoặc được hình thành và sinh hoạt trong khuôn khổ luật pháp. Ngay tại các nước
dân chủ tiến bộ, có thể xảy ra nạn độc tài của các đảng phái lớn, độc tài của
giới tài phiệt... Nhiều khi tự do và bình đẳng chỉ có trên lý thuyết và trong
hiến pháp còn trong thực tế thì bị vi phạm trắng trợn.
Một nguy cơ khác có
thể làm lụn bại ý chí đấu tranh cho dân chủ là bị ru ngủ bởi ngụy biện: Cởi mở và
phát triển kinh tế sẽ đưa đến cởi mở chính trị và tiến trình dân chủ sẽ là một
cuộc cách mạng ôn hòa hậu quả tất yếu của cởi mở kinh tế. Lập luận nầy không phải
chỉ mới được đưa ra khi Việt cộng học đòi cởi mở của Nga Sô mà trước đó hàng chục
năm khi các cường quốc Âu châu bắt đầu muốn viện trợ cho Việt cộng và tính chuyện
giao thương, vấn đề đã được tranh cãi sôi nổi. Người ta lầm tưởng – hay biết
mình sai nhưng vẫn nhắm mắt quả quyết – rằng giúp Việt cộng phát triển kinh tế
sẽ đưa đến cởi mở chính trị và dân chủ tự do. Họ biện minh rằng cởi mở kinh tế
sẽ tạo ra một tầng lớp trung lưu làm nòng cốt cho việc phát triển tự do dân chủ,
ép buộc bạo quyền phải cởi mở chính trị. Nhưng thực tế đã cho thấy rằng những
biện pháp viện trợ và giao thương đã không tạo ra tầng lớp trung lưu mà chỉ tạo
ra tầng lớp tư bản đỏ và đào hố ngày càng sâu giữa một thiểu số cực kỳ giàu
sang và đại đa số quần chúng nghèo đói. Các chính quyền ngoại quốc đã bắt đầu
viện trợ từ hơn 20 năm nay và sau khi cởi mở kinh tế giới doanh thương ngoại quốc
đã vào đầu tư, lập hãng xưởng và bao nhiêu đồng hương đã nối gót, vậy mà chưa có
một tia sáng dân chủ nào ló dạng ở cuối đường hầm. Lập luận cho rằng kinh tế sẽ
đưa đến cởi mở chính trị đã bị thực tế phủ nhận một cách phủ phàng. Quyền bắt
tay với Việt cộng để làm kinh tế là quyền của mọi người, ngoại quốc cũng như đồng
hương. Nhưng quyền và nhiệm vụ của chúng ta là phê phán, đồng thời vạch rõ sự xảo
trá và yêu cầu họ đừng giả hình bằng lời tuyên bố rằng: bắt tay làm ăn với Việt
cộng là mưu cầu lợi ích chính trị cho dân tộc về sau.
Văn chương phục vụ dân chủ
Nhà văn và nhà trí
thức chân chính thường là người luôn ngờ vực ý thức hệ và nhóm cầm quyền. Vì ý
thức hệ dễ trở thành guồng máy đàn áp con người và quyền lực, cả đến những quyền
lực được bầu ra hợp pháp theo luật lệ dân chủ, cũng phải đề phòng nó biến dạng.
Vì, như trên đã nói, quyền bính dễ làm hư hỏng con người và quyền lực luôn có
xu hướng độc tôn và chuyên chế. Nhiệm vụ nhà văn là góp phần hữu hiệu vào việc
gây ý thức và kịp thời phát hiện, tố cáo và đả phá những gì làm tổn thương hoặc
đe dọa dân chủ.
Khi đất nước còn điêu
linh dưới chế độ độc tài, nhà văn có trọng trách góp phần vào việc dành lại dân
chủ. Điều đáng mừng là đã có nhiều tác phẩm giá trị tố cáo chế độ độc tài và chính sách phản dân
chủ tàn bạo của Việt cộng. Những tác phẩm này đã được thoát thai từ tài năng và
nhiệt huyết của các tác giả và là kết tinh của những kinh nghiệm đau thương qua
nhiều năm tù tội hay là qua một quãng đời sống dở chết dở dưới gọng kìm của Bác và Đảng.
Nhìn chung tác phẩm của những tác giả tiêu biểu nhất như Trần Văn Thái, Hà Thúc
Sinh, Nhã Ca, Tạ Tỵ, Hoàng Liên, Thế Giang ...
và gần đây hơn, Nguyễn Chí Thiện, Vũ Thư Hiên và Bùi Ngọc Tấn ... là cả
một công trình văn chương đồ sộ, có một tác dụng rất lớn trên tâm thức đồng hương
tại hải ngoại cũng như quốc nội trong cuộc đấu tranh dành lại dân chủ. Vài tác
phẩm đã được dịch ra ngoại ngữ và đã được giới thức giả ngoại quốc chú ý và tất nhiên đã tạo được phần
nào sự hỗ trợ tinh thần của quốc tế trong việc tiêu diệt chế độ độc tài tại quê
hương [10].
Nhìn rộng ra thế
giới ta thấy vô số nhà văn nhà thơ lấy việc chốùng độc tài làm chủ đề sáng tác
và đã tạo được những tác phẩm tuyệt vời. Trong kho tàng vô tận nầy – có thể làm
đối tượng cho một thiên khảo cứu phong phú – chỉ xin đan cử hai trường hợp làm
ví dụ:
Václav Havel, nhà văn tôi trích dẫn ở trên, đã
sáng tác nhiều thiên khảo luận nổi danh trên thế giới trong tư thế chứng nhân của
một xã hội nạn nhân của chế độ độc tài cộng sản. Havel cũng là một kịch tác
gia chuyên về đề tài dân chủ/độc tài rất
được hâm mộ. Sau đây xin tóm tắt sơ lược một vở kịch của ông.
"Phản Kháng",
kịch một màn: Nhân vật chính là nhà văn bồi bút Stanek. Nhờ bẻù cong ngòi bút nên ông được chút địa vị
trong ban biên tập của đài truyền hình. Bỗng nhiên ông được tin một đồng nghiệp
bị bắt mà nhà văn đó lại là người tình của con gái ông và đã tặng cho cô này cái
bầu. Ông bèn liên lạc với những người quen biết quyền thế để nhờ giúp đỡ nhưng
không ai nhúng tay vì ai cũng sợ mất địa vị và bể nồi cơm. Lục lọi mãi trong ký
ức Stanek mới nhớ đến nhà văn Vanek, một người bạn thâm niên nhưng đã đoạn giao
nhiều năm vì xu hướng khác nhau. Khác với Stanek, Vanek đã từng bị tù vì chống đối
chế độ và nay phải đi làm lao động trong một hãng bia. Stanek mời Vanek đến chơi
để nhờ Vanek làm kiến nghị phản kháng đòi trả tự do cho bồ của con gái ông. Nào
ngờ chính Vanek đã có sẵn trong cặp một bản kiến nghị về việc này với 50 chữ ký
của những thành phần chống đối nổi tiếng và bây giờ đưa bản kiến nghị yêu cầu
Stanek ký vào [11]. Nhưng
Stanek thoái thác và thay vì ký vào bản kiến nghị thì chỉ trao cho Vanek một số
tiền, nhờ chuyển lại các văn sĩ túng thiếu. Đồng thời ngụy biện rằng, việc ký tên
thì đã có những "chuyên viên về kiến
nghị", những "anh hùng liên
đới" chuyên đi làm các "dịch
vụ luân lý". " Đâu phải ai cũng có thể là chiến sĩ tranh đấu cho nhân
quyền ... Phần chúng tôi thì nhiệm vụ là
câm mõm để được yên thân, nhường lại cho các anh nhiệm vụ cao cả, là lên tiếng
thay cho chúng tôi, các anh cam chịu đày đọa nơi trần thế để được phần thưởng
trên thiên đàng". Ngụy biện chưa
đủ ông ta còn lên giọng đạo đức giả để trách bạn không đủ sáng suốt nhận
ra ông cũng là người có tâm hồn, có lương tri, biết phân biệt điều phải trái: "Sao anh không chịu hiểu rằng những
người như tôi vẫn xem giá trị tinh thần cao hơn, đáng quí hơn địa vị hiện tại của
mình, chúng tôi cũng thèm muốn được trở thành người tự do, được dành lại sự lương
thiện và liêm chính và trút bỏ khỏi vai mình tảng đá nặng nề của tủi nhục vì hèn
nhát. Anh đâu ngờ rằng đã từ lâu tôi thèm khát được dịp làm một cái gì để mình
có thể trở thành người chân chính như trước, để có thể tìm lại sự bình an cho tâm
hồn... để có thể sống với chân lý, để thoát khỏi cảnh sống của một người cầm bút
sáng tác theo yêu cầu... để giải quyết được những ray rứt, những xung khắc giữa
lương tâm và địa vị. Nhưng đó là khía cạnh tâm lý chủ quan, còn khía cạnh khách
quan là nếu có chữ ký của tôi thì:
1.
Dư luận quần chúng
sẽ quá chú trọng đến việc tôi, một người của chế độ, đào ngũ sang phe chống đối
và quần chúng sẽ lãng quên việc chính là đòi tự do cho nạn nhân.
2.
Chữ ký của tôi có
thể làm nhà cầm quyền phẫn nộ và do đó có một thái độ cứng rắn đưa lại hậu quả
trái ngược với mục đích của kiến nghị.
Vì hai lý do đó tôi đành phải hy sinh xác tín chủ
quan và hy sinh lòng tự trọng để khỏi làm hỏng việc lớn là can thiệp hữu hiệu
cho người bạn vừa bị bắt”!!!
Với vở kịch này
Havel đã tô đậm nét tính chất bỉ ổi của hiện tượng bồi bút dưới chế độ độc tài.
Trên đây là tác phẩm
của một văn sĩ đã từng là nạn nhân của chuyên chế. Còn tác phẩm sau đây là của
một nhà văn không hề là nạn nhân nhưng vì lương tâm và thiên chức người cầm bút
đã vạch trần nguy cơ độc tài đối với nhân loại. Đó là Max Frisch, một nhà văn nổi
danh vào bậc nhất của Thụy Sĩ vùng nói tiếng Đức. Trong vở kịch "Vạn-lý Trường-thành", một vở
kịch siêu thực hài hước, Max Frisch đã đưa lên sân khấu một số nhân vật lịch sử
biểu tượng của độc tài chuyên chế, cho ta thấy nền dân chủ luôn bị đe dọa vì xu
hướng độc tài có thể luôn tái phát, vì một số nhà độc tài của nhiều thời đại
tuy đã chết nhưng vẫn luôn luôn rình rập để đầu thai trở lại áp đặt nền chuyên
chế lên nhân loại. Vai chính của vở kịch là Tần Thủy Hoàng. Khi đã làm bá chủ
thiên hạ, đã ngự trị trên tất cả các nước xung quanh và không còn vùng đất nào để
tiếp tục thôn tính và khi đang thảo kế hoạch xây Vạn-lý Trường-thành bằng sức
lao động khổ sai của những thành phần bị cho là chống đối, Tần Thủy Hoàng chỉ còn
một việc là tiêu diệt người chống đối cuối cùng. Ông không biết người đó là ai,
chỉ biết rằng người đó tự xưng là "tiếng
nói nhân dân" và cho lưu truyền trong quần chúng những bài thơ, bài hát
tố cáo chính sách chuyên chế tàn bạo. Nhà vua quyết tìm cho ra nhân vật
"phiến loạn cuối cùng" nầy. Một hôm cùng đoàn tùy tùng dạo chơi ngoài
hoàng thành nhà vua thấy giữa đám dân chúng tung hô vạn tuế có một chàng trai đứng
im, không tung hô mà cũng không có vẻ gì là hồ hởi. Thái độ “khả nghi" của
anh chàng này khiến nhà vua quyết đoán rằng đó là tác giả của "tiếng nói
nhân dân" và ra lệnh bắt. Ngờ đâu đó chỉ là một gã gánh nước thuê vừa câm
vừa đần, con của một bà nhà quê. Dù vậy nhà vua vẫn cho lập tòa án để xử
"tiếng nói nhân dân". Phiên xử bi hài nầy vẫn không làm cho người câm
nói được để thú nhận mình là tiếng nói nhân dân, nên nhà vua ra lệnh tra tấn cực
kỳ dã man, để "cho dù nó quả thật là
câm đi nữa thì cũng phải tra tấn cho đến khi nó bật thành tiếng nói để nhận tội".
Bên cạnh vai chính
Tần Thủy Hoàng Max Frisch đã cho xuất hiện trong một buổi dạ yến do nhà vua khoản
đãi nhiều nhân vật lịch sử qua nhiều thời đại khác nhau, trong đó có Nã Phá Luân,
nhà độc tài xem nhân loại như đế quốc cho mình thống trị và như một chiến trường
khổng lồ để mình đi từ chiến thắng nầy đến chiến thắng khác bất chấp đau thương
chết chóc của ngàn vạn sinh linh và Philippe Đệ Nhị, hoàng đế Tây Ban Nha, người
đã áp dụng mọi thủ đoạn tàn bạo để duy trì nền thống trị sắt máu trên các thuộc
địa và đã từng cộng tác với cơ quan thanh trừng của Thiên Chúa giáo thời Trung
cổ truy lùng những người "lạc đạo" đem lên dàn hỏa thiêu... Một nhân
vật khác của vở kịch là Brutus, ông này không là bạo chúa mà là nhà cách mạng
diệt trừ hôn quân. Nhưng cuối cùng vẫn phải than rằng công việc khử trừ bạo chúa
chỉ là công việc dã tràng bởi vì tuy ông
đã ám sát nhà độc tài Caesar và phải trả
giá rất cao là hy sinh tính mạng mình và vợ mình nhưng trong lịch sử nhân loại
vô số Caesar đang chờ dịp tái sinh.
Ngoài các nhân vật
lịch sử mà Max Frisch cho khán giả thấy là những quái vật độc tài đang còn rình
rập để trở lại chính trường, còn một nhân vật của thời hiện đại được mệnh danh
là "Người hôm nay", vừa là
diễn viên trong vở tuồng, vừa đóng vai nhà trí thức đứng trên quan điểm của thế
kỷ 20 để bình luận về lịch sử độc tài. Ông tự nhận là "tiếng nói nhân dân", nhưng Tần Thụy Hoàng lại xem ông là
tên hề không đáng quan tâm chỉ biết nói bậy bạ để mua vui cho vua và triều thần
nên để cho ông ta muốn nói gì thì nói. Và "Người
hôm nay" đã lợi dụng tư thế nầy để biện hộ cho gã câm vô tội và lên án
độc tài chuyên chế đang đe dọa sự sống còn của nhân loại. Lời "Người hôm nay" nói với các bạo chúa:
“Trong thời đại bom nguyên tử và bom
khinh khí thì phương cách làm lịch sử của các nhà độc tài toàn trị như các ngài
là nguy cơ của cả nhân loại. Ngày nay loài người có sức tạo ra trận lụt đại hồng
thủy. Về kỹ thuật chẳng có gì khó khăn. Do đó, nếu muốn nhân loại tồn tại thì
không thể giao trách nhiệm làm lịch sử cho các ngài" nghĩa là cho những
tên độc tài khát máu kiểu Tần Thủy Hoàng, Nã Phá Luân hay là Philippe Đệ Nhị.
Tranh đấu cho các tù nhân lương tâm
Ngoài việc sáng tác
, nhà văn còn có thể gián tiếp phục vụ dân chủ bằng cách giúp đỡ và tranh đấu
cho những người tù lương tâm vì kêu gọi và đòi hỏi tự do mà bị giam cầm, bị đàn
áp như trường hợp linh mục Nguyễn Văn Lý với bản án phi nhân đang làm cả thế giới
phẫn nộ. Công việc tranh đấu cho tù nhân lương tâm mang nhiều ý nghĩa: vừa thể hiện tinh thần liên đới với những người
ngộ nạn vừa đấu tranh cho dân chủ bằng cách tố cáo sự tàn bạo của chính thể độc
tài trước công luận. Riêng đối với chúng ta thì đó là một công tác hiện nay cần
thiết hơn lúc nào hết, vì chính quyền của các nước dân chủ Âu Mỹ đang vì quyền
lợi kinh tế mà làm ngơ hay chỉ phản đối
lấy lệ trước sự vi phạm dân chủ của Việt cộng. Tiếng nói của nhà văn bao giờ cũng
là tiếng nói có trọng lượng, nhất là của những nhà văn tên tuổi hay là của những
tổ chức có uy tín quốc tế như Văn Bút. Điểm này cũng phù hợp với Hiến Chương Văn
Bút Quốc Tế. Ủy ban quan trọng nhất của tổ chức này là Ủy Ban Văn Sĩ Bị Cầm Tù
(Writers in Prison Committee).
Trong vấn đề dân
chủ thì mọi công dân có ý thức đều phải nhận lấy trách nhiệm và phải hành sử
nhiệm vụ của mình. Nhưng trọng trách của nhà văn nói riêng và nhà trí thức nói
chung nặng nề hơn, vì như trên đã nói,
vấn đề dân chủ trước hết là một vấn đề ý thức và tinh thần và cũng là lãnh vực
và môi trường hoạt động đặc thù của nhà văn. Gyưrgy Konrad, nhà văn Hung Gia Lợi
tôi trích dẫn ở phần trên đã nhận định
như sau trong bài diễn văn ông đọc tại Frankfurt khi nhận giải thưởng Hòa Bình
của Hiệp Hội Các Nhà Xuất Bản Đức: "Tư
tưởng làm nên lịch sử và đó cũng chính là sức mạnh, là uy lực của trí tuệ... bất
cứ chế độ nào mãi mải đàn áp trí thức thì sớm muộn gì cũng sẽ bị uy lực của trí
tuệ lật đổ". Người cầm bút không nên tự cao tự đại gán cho mình vai trò
soi sáng dư luận, giáo dục quần chúng nhưng ít ra phải bảo vệ sự độc lập của
trí tuệ và dùng trí tuệ để chống lại tất cả mọi bạo lực hủy diệt tự do và đe dọa
văn minh nhân loại.
Dưới một chế độ độc
tài sắt máu, phản ứng và cách thế đối phó của các nhà văn không hoàn toàn dửng
dưng với vận mệnh nước nhà và số phận dân tộc có thể khác nhau tùy hoàn cảnh, tùy
tư cách và bản lĩnh của mỗi người nhưng tựu trung có thể được phân loại như
sau:
Hoặc là: công khai
chống đối ngay trong nước, công khai đòi hỏi dân chủ tự do và sẵn sàng chấp nhận
tù đày chết chóc. Đó là một thái độ anh hùng, một tấm gương sáng về quả cảm hy
sinh. Nước ta không thiếu những vị anh hùng nầy và gần ta nhất là những nhân vật
tên tuổi đang bị quản thúc, khủng bố, tù đày trong nước. Nhưng không thể đòi hỏi
và chờ đợi ai cũng phải làm anh hùng.
Hoặc là: nếu có phương
tiện thì ra nước ngoài để được tự do phơi bày tội ác của chế độ.
Hoặc là: ở lại
trong nước và tiếp tục ngấm ngầm chống đối, bằng những sáng tác được bí mật phổ
biến trong một trận chiến du kích tinh thần.
Hoặc là: ở lại
trong nước và giữ một thái độ mà người Tây phương gọi là vượt biên tinh thần
hay là di tản nội tâm. Trong số người nầy có những người tiếp tục bí mật chống đối
nhưng cũng có những người rút lui vào thái
độ hoàn toàn tiêu cực, tìm lãng quên trong hưởng thụ hay là chạy trốn vào lãnh
vực tình cảm cá nhân.
Loại phản ứng cuối
cùng và cũng là loại tồi tệ bẩn thỉu nhất là bẻ cong ngòi bút để làm tay sai. Đó
là hiện tượng bồi bút đã và đang phát triển tại Việt Nam. Hiện tượng bồi bút đã
một thời là đề tài tranh luận sôi nổi và gây xáo trộn trầm trọng nội bộ Văn Bút
Đức. Bởi lúc nước Đức còn chia đôi thì bên cạnh Trung tâm Văn bút Tây Đức còn một
Trung tâm Văn bút bên Đông Đức cộng sản, trong đó có nhiều thành phần dùng tài
nghệ văn chương của mình làm lợi khí tuyên truyền cho chính quyền bạo lực hoặc
tố cáo và trù dập các đồng nghiệp chống đối. Sau ngày thống nhất nước Đức , việc
sát nhập hai trung tâm Văn bút Tây và Đông Đức đã được đặt ra. Và rất nhiều văn
sĩ Tây Đức cũng như Đông Đức và những nạn nhân của chế độ trước đây đã đòi hỏi
Văn Bút Đông Đức phải "lột xác" trước khi gia nhập Trung tâm Tây Đức
và phải khai trừ tất cả những thành phần bồi bút đã phản bội Hiến chương Văn Bút
và phục vụ cho nền chuyên chính độc tài. Bởi vì tuy Đông Đức đã được giải thoát
khỏi ách cộng sản, nhưng những bồi bút Đông Đức cũ vẫn chưa nhìn nhận lỗi lầm của
mình trước công chúng. Phía Tây Đức và các nạn nhân lập luận rằng, mặc dù phải
bao dung và khoan nhượng trong tinh thần hòa giải huynh đệ, nhưng phải phân biệt
bạn thù và chỉ khoan nhượng bao dung khi kẻ lầm đường đã thành thật sám hối.
Bao lâu Văn Bút Đông Đức chưa chịu lột xác, chưa chịu hoàn toàn dứt khoát với
quá khứ và chưa thanh lọc hàng ngũ thì chưa thể có hòa giải và thống nhất.
Phải sau nhiều năm tranh luận gay cấn Văn
Bút hai miền mới được thống nhất theo quyết định của đa số, nhưng cho đến nay vẫn
còn nhiều người bất bình vì sự thanh lọc chưa được toàn vẹn trong hàng ngũ Văn
Bút Đông Đức cũ.
Nhắc lại câu chuyện Văn Bút Đức quốc trong bài này
vì đó không phải chỉ là một tranh chấp nội bộ của tổ chức Văn Bút mà nằm trong
khuôn khổ rộng lớn của chiến trận Dân chủ/Độc tài trong lãnh vực văn chương.
Chiến trận này đã làm nổi bật một phương châm hành động: Mặc dù tinh thần dân
chủ đòi hỏi phải bao dung và khoan nhượng, nhưng trong trận thư hùng giữa Thiện
(Dân chủ) và Ác (Độc tài) vẫn phải phân biệt
bạn thù và chỉ khoan nhượng bao dung khi kẻ thù đã rời bỏ giới tuyến bên
kia, nhìn nhận lỗi lầm và dứt khoát với quá khứ lầm lạc. Cũng như trong vấn đề
giao lưu văn hóa, chúng ta phải dứt khoát không thể có thái độ nhập nhằng, không
thể giao lưu với những thành phần đã và đang tự bán mình làm công cụ cho bạo
quyền đàn áp nhân dân, phản bội đồng nghiệp và bóp méo chân lý mà chưa có một dấu
hiệu nào chứng tỏ đã hồi tâm phản tỉnh.
Kết luận
Mọi người trong chúng ta, dù là tác giả hay độc giả,
đều có thể dùng văn chương làm vũ khí lợi hại chống độc tài, phải xem dân chủ là
mục tiêu tối thượng và phải chống lại tất cả mọi hình thức phản dân chủ, chống
lại tất cả mọi thứ cường quyền và tay sai đang dùng bạo lực để chà đạp những
quyền tự do căn bản của con người. Nhưng muốn tranh đấu hữu hiệu cho dân chủ,
trước hết phải là người đã thấm nhuần tinh thần dân chủ, trong cách suy tư,
trong lối diễn tả và trong lối sống . Chúng ta nên tự đặt cho mình câu
hỏi về trình độ hiểu biết của mình về dân chủ. Chúng ta đã và đang làm gì để
vun trồng ý thức và tinh thần dân chủ trong chúng ta và trong cộng đồng? Bởi chúng
ta xác tín với nhau rằng vấn đề no cơm ấm áo của mấy chục triệu đồng bào cũng
như vấn đề phồn vinh của đất nước trong tương lai chỉ có thể thực hiện sau ngày
Việt cộng tan rã, khi nền dân chủ tự do đích thực đã được thiết lập trên toàn cõi
Việt Nam. Đó là mục đích chung của tất cả mọi hình thức đấu tranh và trong trận
chiến này nhất định phải có phần đóng góp của văn chương
.
[6]Trần Trọng Kim, Sđd,
Quyển hạ, tr. 392.
[7] Bản tường trình cuộc viếng
thăm của Ông Gerd Poppe cũng nhấn mạnh về tình trạng
không tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam, đặc biệt những quyền chính trị, quyền
tự do ngôn luận, quyền tự do thông tin, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do lập
hội...
[10] Bản dịch Anh, Đức,
Pháp của Tập Hoa Địa Ngục I hay là Tiếng Vọng Từ Đáy Vực của Nguyễn Chí Thiện đã được xuất bản tại
ngoại quốc và Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn đã được trích dịch ra Anh ngữ tại Gia Nã Đại,
hy vọng sẽ được xuất bản một ngày gần đây. Đầu năm 2002 nhà văn SAID, Chủ tịch Văn Bút Đức quốc đã được
mời nói chuyện về thân thế và tác phẩm Bùi Ngọc Tấn trên đài truyền thanh của Đức.
[11] Tác giả Havel đã từng bị tù 2
năm rưỡi vì chống đối và sau đó phải làm lao động trong một hãng bia. Nơi đây
ông vẫn tiếp tục chống đối bằng những kiến nghị chính ông soạn thảo và chính
ông vận động đồng nghiệp ký vào.