"Một lòng thờ mẹ kính cha,
cho tròn chữ hiếu mới lằ đạo con" (1)
Hiếu đối với cha mẹ, không phải chỉ là một nghĩa-vụ, mà là
một đạo-lý. Nghĩa-vụ thì có tính-cách tiêu-cực, một bổn-phận bắt buộc phải chu-toàn;
xét theo lẽ công-bằng, kẻ thụ-ân phải trả nợ ân-nhân (obligation, duty
indicating what action ought to be taken).
Còn đạo thì có tính-cách
tích-cực, đó là đạo-lý hay đạo-tắc (ethics) thuộc về lương-tâm phân-biệt phải
trái (principles distinguishing of right and wrong in human behaviour); xét
theo tình liên-đới, nó dựa trên tình yêu thương, một thứ tình-cảm mạnh-mẽ, vô-tư
và thiêng-liêng cao-cả thể-hiện nhân-phẩm, xác-định nhân-vị của con người so với
muôn loài; đó là đạo làm người nói chung và đạo làm con nói riêng. Đạo này được
đề-cao như một nét đặc-thù trong văn-hoá Việt-Nam và trong Ki-tô-giáo.
I-
Đạo hiếu trong văn-hoá Việt-Nam
1.1- Qua các tích xưa tập-quán
Thần-thoại Thánh Gióng phi
ngựa phá giặc Ân cứu dân giúp nước, kể rằng, sau khi đã được vua ban ngựa và áo
mũ bằng sắt theo lời yêu cầu, cậu bé dị-thường làng Phù-Đổng đã xin thêm vua
hai điều: một bữa ăn thịnh-soạn, và một số vàng bạc để cậu đền ơn sinh-thành
cho tròn đạo hiếu.
Cổ-tích còn nhắc lại anh chồng kia, cực chẳng đã, phải dùng
đến kế mài dao doạ giết mẹ mới khiến vợ mình sợ hãi mà chừa thói nặng lời với mẹ
già, đem lại an vui cho nhà cửa. Một Nguyễn-Áng trong truyện xưa đánh cọp trả
thù cho cha, hay chuyện anh nhà quê nghèo nàn dệt lụa để kiếm tiền chôn cất
thi-hài cha vẫn còn là những bài học sống động nêu gương lòng hiếu thảo.
Lịch-sử ghi chép vua Lê-thánh-Tôn là bậc minh-quân văn võ
toàn tài, chăm lo việc nước nhất là có hiếu với mẹ. Vua Tự-Đức được truyền-tụng
là người con chí-hiếu. Đi săn bị lạc khiến bà Thái-hậu lo-âu, trở về thì trời đã
tối, biết lỗi mình, nhà vua vào ngay nội-cung trình-diện bà mẹ khi ấy đang giận
dỗi ngồi quay mặt vào tường. Ông dâng roi lên rồi nằm sấp xuống chờ mẹ đánh đòn.
Vua Lý-Thái-Tôn lập lệ hàng năm các quan phải đến đền Đồng-Cổ (làng Yên-Thái, Hà-Nội)
để làm lễ đọc lời thề: "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; ai bất hiếu
bất trung, xin quỷ thần trị tội".
Văn-học-sử còn ghi đậm nét son về đức hiếu của Nguyễn-đình-Chiểu.
Chính tác-giả và nhân vật Lục-Vân-Tiên trong tác-phẩm danh-truyền của cụ đã khóc
quá hoá mù, bỏ dở trường thi để về cư tang mẹ. Nguyễn-Trãi được hậu-thế vinh
danh không phải chỉ do lòng yêu nước dạt-dào hay tài thao-lược chính-trị mà còn
ở lòng ông tha-thiết với nền đạo-lý qua tác-phẩm Gia-Huấn-Ca làm khuôn vàng thước
ngọc trong đó có bổn-phận làm con phải tròn chữ hiếu với mẹ cha. Chính ông đã
thực-hành đạo hiếu một cách sáng-suốt: Thân-phụ ông là Nguyễn-phi-Khanh bị bắt
giải về Tàu, Nguyễn-Trãi theo cha để phụng-dưỡng,
tới biên-giới, thân-phụ bảo ông trở về để lo "chống giặc cứu nước, trả thù
nhà, mới là đại-hiếu", Nguyễn-Trãi đã trở về làm tròn lời cha căn-dặn.
Do ảnh-hưởng của Phật-giáo trong triết-hệ Tam Giáo, hàng
năm dân ta vẫn có tập tục cầu siêu cho cha mẹ trong ngày lễ Vu-Lan. Gạt đi những
hủ-tục vô-lý do hủ-nho bày ra, ý-nghĩa cốt lõi trong các tích xưa, tập-quán vẫn
là đề-cao đức hiếu.
1.2- Qua văn-chương truyền
miệng
Văn-học
dân-gian đã tóm-tắt đạo hiếu là lòng thảo-kính cha mẹ
a) Hiếu trước hết là kính yêu cha mẹ:
Thường thì đôi bạn trăm năm sống với nhau ba phần tư cuộc
đời. Con cái ở với cha mẹ chỉ có một phần tư đời sống. Tình đầu gối tay ấp dẫu
cho lâu dài thắm-thiết vẫn không sâu đậm bằng tình đối với mẹ cha. Một đằng do
ngẫu-biến nảy nở, một đằng do bẩm-sinh thâm-căn trong khí-huyết cốt tuỷ; một đằng
có thể biến chất cùng với hoàn-cảnh tháng năm, một đằng trường-tồn trong không-gian
và trong thời-gian. Lòng kính yêu cha mẹ được cụ-thể-hoá bằng lòng hiếu-thảo.
Tình yêu thương giữa đôi bạn trăm năm được củng-cố bằng nghĩa vợ chồng.
Cho nên "duyên hội-ngộ, đức cù-lao, bên tình, bên hiếu,
bên nào nặng hơn?", nàng Kiều đành "để lời thệ-hải minh-sơn, làm con
quyết phải đền ơn sinh thành" là thế.
Nếu xuất giá theo chồng, con vẫn canh-cánh trong lòng niềm
mến yêu trọng kính, con lạy mẹ cha vì con nghĩ đến ơn mẹ bao-la, và tưởng đến công
cha cao trọng mà quyền cha con hằng tôn-kính:
"Lạy cha ba lạy một quỳ,
Lạy
mẹ bốn lạy , con đi lấy chồng" (1)
Người con trai ra đi buôn bán đường xa, không quên căn-dặn
vợ phải ngọt-ngào với song thân:
"Anh cậy em chăm sóc trăm đường,
Để
anh buôn bán trẩy chương thông-hành.
Còn chút mẹ già em nuôi lấy thay anh,
Để
anh buôn bán thông-hành đường xa,
Liệu
mà thờ mẹ kính cha,
Đừng
lời nặng nhẹ, người ta chê cười" (1)
Xa rồi, thương cha nhớ mẹ là
nỗi băn-khoăn hàng đầu:
"Gửi thư thăm hết nội nhà,
Trước
thăm phụ-mẫu sau là thăm em" (1)
Cho nên vợ chàng đâu dám lỗi
đạo dâu con:
"Anh đi em ở lại nhà,
Hai
vai gánh vác mẹ già, con thơ" (1)
Cho nên khi chồng ruổi-rong
nơi trận-mạc, chinh-phụ ở nhà thay chồng lo tròn đạo hiếu:
"Ngọt bùi thiếp đã hiếu-nam,
Dạy
con đèn sách thiếp làm phụ-thân" (4)
Khi cha mẹ dạy điều hay lẽ
phải thì chẳng dám trái lời, ấy là tỏ lòng kính yêu cha mẹ:
"Mẹ cha là
biển là trời,
Làm con đâu dám cãi lời
mẹ cha" (1)
Bởi vì:
"Cá
không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường
con hư" (1)
b) Sau nữa, hiếu phải đi
đôi với thảo:
"Đầy
bát mới dát xuống mâm". Thảo là thể-hiện bên ngoài của lòng Hiếu. Miệng
kính yêu, mà bỏ rơi không đoái hoài, sao gọi là thảo? Cho nên nói hiếu-thảo là
vậy. Ấy là nghĩa-vụ báo đáp công ơn , vì:
"Công
cha như núi Thái-Sơn,
Ơn mẹ như nước trong
nguồn chảy ra" (1)
Công ơn ấy khôn thấu, chỉ khi thành gia-thất may ra
con mới hiểu. "Có nuôi con mới biết
lòng cha mẹ":
"Lên
non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công-lao
mẫu-từ " (1)
Công ơn ấy không phải chỉ là những cực nhọc thể-chất
mong cho con được lớn khôn:
"Miệng
ru mắt nhỏ đôi hàng,
Nuôi con càng lớn, mẹ càng
lo thêm" (1)
mà còn là khắc-khoải lo gây dựng cho con nên người:
"Mẹ
nuôi con bấy lâu rồi,
Nuôi con khôn lớn thành
người mới nghe" (1)
Công ơn ấy còn là công-trình giáo-dục để con đủ sức
vượt qua những chông gai cạm bẫy ở đời:
"Con
ơi, nghe lấy lời cha,
Gió to sóng cả, chớ qua
sông rừng" (1)
Dạy con lương-thiện, là mong con, nối được nghiệp
nhà, rạng đức tổ-tông:
"Có con gây dựng cho
con,
Gọi
là nối đức tổ-tông dõi truyền" (1)
Vì lẽ "con hơn cha nhà
có phúc", con cái làm được như thế cũng là một cách báo-hiếu vậy:
"Làm
sao giữ trọn đạo ba,
Sau
dầu có thác cũng là thơm danh " (1)
Công ơn ấy khôn lường, lớn-lao
như biển rộng trời cao mà lòng con thì hẹp hòi sao sánh cho bằng:
"Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể,
Con
nuôi cha mẹ, con kể từng ngày" (1)
Vì vậy, "trẻ cậy cha,
già cậy con", người con thảo không sao lãng việc chăm sóc, phụng dưỡng mẹ
cha:
"Ba tiền một khúc cá buôi,
Cũng
mua cho đặng mà nuôi mẹ già,
Đói
lòng ăn đọt chà-là,
Để
cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Mẹ
già ở túp lều tranh,
Sớm
thăm, tối viếng, mới đành dạ con" (1)
Bởi vì tuy "có tiền
mua tiên cũng được", nhưng cha mẹ thì không thể ra chợ mua về. Cho nên người
con hiếu-thảo chỉ lo một ngày kia lâm cảnh mồ-côi vắng cha mất mẹ, và hằng cầu
mong cho cha mẹ được trường thọ để mà chăm sóc sớm hôm:
"Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời ,
Cầu
cho cha mẹ sống đời với con" (1)
II-
Đạo hiếu trong ki-tô-giáo
2.1- qua lời Chúa truyền dạy
a) Chúa buộc phải thảo kính cha mẹ
Trong mười giới-răn Thiên-Chúa truyền dạy, ba giới răn đầu
dành cho tình yêu đối với Thiên-Chúa. Giới-răn thư tư kế-tiếp dạy "phải thảo
kính cha mẹ".
Luật Cựu-Ước trừng phạt tội bất hiếu như sau: "Ai đánh
trả cha mẹ thì phải chết. Ai bất hiếu với
cha mẹ cũng phải tội chết (Xuất Hành. 21, 15-17), và lên án nặng-nề những
ai khinh dể bất kính, bỏ rơi cha mẹ: "Quạ sẽ mổ và phượng-hoàng sẽ xâu-xé
con mắt nào lườm nguýt, khinh dể tuổi già của mẹ" (Cách-ngôn. 30-17).
Chính đức Ki-Tô là gương mẫu của lòng hiếu-thảo khi Người
vâng nhận sứ-mạng cứu-độ do Thiên-Chúa Cha trao phó. Trên thập-giá, nhấp xong giấm đắng, Người nói: "Thế là đã
hoàn-tất" (Gio-an 20, 30) Khi còn
thơ-ấu, Người đã sống với cha mẹ tại Na-gia-rét và tuân phục các Ngài. (Luca.
2, 41-51). Cho tới lúc chết, Người vẫn tỏ lòng yêu mến thân-mẫu Maria, săn-sóc
Mẹ, khi Người nhìn môn-đệ Gio-an và Mẹ Người mà trăng-trối: "Thưa Bà, đây
là con của Bà" và "Đây là Mẹ của con" (Gio-an 19, 25-27)
Thư thánh Phao-lô cũng viết: "Kẻ làm con hãy vâng lời
cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều làm đẹp lòng Chúa" (Cô-lô-xê. 3, 20)
Chúa
cũng buộc phải hết lòng thảo với cha mẹ. Luật Cựu-Uớc dạy con cái phải
chăm sóc tuổi già của cha mẹ: "Con ơi, hãy giúp đỡ cha con trong lúc già yếu,
con chớ làm cực lòng Người" (Đức-Huấn. 3, 12) và "Con hãy kính trọng
mẹ con, chớ có bỏ rơi Người một ngày nào trên đời, vì này con ơi, con phải nhớ
rằng mẹ con đã hy-sinh chịu gian khổ hiểm nghèo biết bao nhiêu vì con!" (Tô-bi-a.
4, 3)
Bởi vậy giáo-lý Công-Giáo dạy rằng dẫu khi cha mẹ không sống
theo thánh-ý Chúa thì người con vẫn phải thảo kính cha mẹ, hằng cầu-nguyện cho
các ngài trở về với Chúa. Ước mong cho các Ngài phải cực khổ cho bõ ghét, bỏ rơi
không giúp đờ săn-sóc các ngài khi già lão yếu đau, càng làm cho các ngài phải
buồn lòng thì càng khiến các ngài mất ơn Chúa, như vậy là bất hiếu.
b)
vì Cha mẹ thay mặt Thiên-Chúa
Thật
vậy, Thiên-Chúa đã lấy tình Cha mà giáo-dục ta, thì cha mẹ cũng thế. Thánh-thư viết rằng:
"Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi người khiển-trách.
Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy,
và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt............Vả lại, chúng ta
có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải phục
tùng Cha trên trời để được sống" (Do-Thái. 12, 5-9)
Giáo-dục của Ki-Tô-giáo đặt trên nguyên-tắc Chúa là nhà
giáo-dục chính-yếu, cha mẹ là người thay mặt Chúa để dưỡng-dục con cái mình cũng
là con cái của Chúa (Cách-ngôn. 3, 11-12). Cho nên giáo-lý buộc: "Kẻ làm
con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh-thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất
có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh-phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những
bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo-dục chúng thay mặt
Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy (Ê-phê-xô. 6, 1-4)
2.2- qua văn-học Công-giáo
Việt-nam
Những bài ca vè của "Cụ Sáu" Trần-Lục đã trở thành
văn-chương truyền miệng khắp nơi. Những tác-phẩm Hiếu-Tự-Ca, Nịch-Ái Vong Ân, Nữ-Tắc
Thường-Lệ của Ngài diễn-giải thành ca-dao các điều giáo-huấn của nền giáo-dục
Ki-Tô-Giáo Việt, trong đó đạo Hiếu được Ngài phân-tích thật tỉ-mỉ và sâu sắc, một
thứ Gia-Huấn-Ca thật tuyệt-vời.
Đạo Hiếu không cho phép con cái ăn ở bội-bạc với cha mẹ:
"Có cha mẹ mới có mình
Làm
con ta ở vô tình sao nên (3)
Lẽ thứ nhất là vì
"Làm người sống ở thế-gian,
Ai
không đội đức cao-san nặng dày.
Nói
sao cho hết cho rồi,
Biết
bao khí-huyết tài bồi cho ta,
Phần
hồn thì Chúa sinh ra,
Xác
này Chúa phó mẹ cha sinh thành,
Phụ-tinh
mẫu-huyết đúc hình,
Cho
ta toàn vẹn mà sinh làm người" (2)
Lẽ thứ hai là
vì:
"Hãy
lắng tai nghe lời Chúa hứa:
Ai hết lòng thảo-hiếu mẹ
cha,
Sẽ ban phần thưởng này
là,
Sống lâu dưới thế để mà
trả công.
Về
sau phúc trọng muôn phần,
Chúa còn trả lại vô cùng
hẹp chi" (2)
Quan-trọng
hơn nữa vì cha mẹ là hình-ảnh của Chúa:
"Tiên
vàn thảo-kính mẹ cha,
Coi như thể thật là Chúa
Dêu.
Trong lòng, ngoài miệng
mọi điều,
Việc làm lớn bé phải
theo ý Người" (3)
Cha
mẹ nuôi con bằng mắt, tai, mũi, miệng và chân tay, thì con cái cũng phải báo đền
công ơn cha mẹ qua các giác-quan này. Chẳng hạn:
"Chớ
điều mắt ngược mắt lăng,
Chớ điều trừng-trộ nghiến
răng chau mày" (2)
hoặc là:
"Chớ
điều nặng nhẹ tri-trăng,
Chớ điều lủng-bủng vùng-vằng
cãi đôi.
Chớ điều nói một đối mười,
Chớ có nửa lời đối cãi
tri-trô" (2)
Cũng
chớ nghe vợ mà khinh dể mẹ cha:
"Lời
khôn cha mẹ thì khinh,
Những lời vợ dạy thì
binh rầm rầm...
Bây giờ lấy được vợ rồi,
Lắng tai nghe tiếng vợ
xui phụ tình...
Vì sự bênh lấy lời vợ nói,
Hoá sinh điều ánh-ỏi xôn-xao"
(2)
Những
đoạn ca vè trên đây quả thật đã tóm-tắt đầy-đủ ý-nghĩa của giới răn thứ tư và lời
dạy trong các thánh-thư, phù-hợp với tinh-thần dân-tộc Việt. Chính những bài này
đã hun-đúc lòng đạo-đức của giáo-dân phát-Diệm nói riêng và Ki-tô-hữu Việt-Nam
nói chung.
Kết-luận
Đạo Hiếu là một trong những nét đặc-thù
của văn-hoá Việt-Nam. Đây là một bài học cho những ai chối bỏ hoặc chưa hiểu văn-hoá
Việt. Từ hơn một nửa thế-kỷ nay, chủ-nghĩa duy-vật vô-thần đã giơ chân đạp đổ
gia-đình làm băng-hoại cả một thế-hệ, không biết bao lâu mới có thể phục-hồi.
Người ta không những chỉ dạy cho trẻ em phải rình-rập tố-cáo cha mẹ, lại còn
trong cương-vị lãnh-đạo quốc-gia đã tự nêu gương đích thân đấu-tố đấng sinh-thành
(5). Cái gọi là "mười điều răn Bác Hồ dạy" nhồi nhét vào đầu óc thiếu-nhi
không có một điều nào dạy thảo-kính cha mẹ, mà chỉ nói đến tôn sùng cá-nhân lãnh-tụ;
người ta muốn thay-thế "mười điều răn Chúa dạy" của một tôn-giáo vốn được
coi là nghịch-thù, lẽ dễ hiểu vì chính Trời là Đấng Tối-Cao còn bị người ta ngạo-mạn
hạ bệ huống nữa là cha mẹ, người ta nói rằng:
"Thằng
Trời hãy đứng một bên,
Để ông thuỷ-lợi đứng lên
làm Trời" (6)
Tại
nơi tha-phương, chủ-nghĩa tự-do cá-nhân đang lôi kéo thanh thiếu-nhiên quay lưng
lại với cha mẹ. Cha mẹ già yếu ư? Thì nhà dưỡng-lão đó! Cha mẹ mắng mỏ, khuyên
can, nghiêm phạt con cái sắp sa chân vào cạm bẫy ư? Coi chừng! cha mẹ có thể bị
mách và bị phạt về tội bạo-hành, lạm-dụng (abuse), vì con cái đã được giáo-dục
như thế. Đây cũng còn là một giải-đáp cho những ai bảo rằng theo đạo Thiên-Chúa
thì lỗi đạo hiếu với mẹ cha, vì mất cúng giỗ. Ngoài những giới-luật như đã thấy,
các kinh nguyện và trong thánh-lễ hàng ngày luôn luôn có lời cầu cho cha mẹ tổ-tiên.
Hàng năm cũng có lễ cầu hồn cho người quá cố, cho tiên-nhân thân-thuộc. Tết
nguyên-Đán, giáo-hội này vẫn có tập-tục dành riêng một ngày để tưởng-niệm và cầu
nguyện cho tổ-tiên. Công-đồng Vaticano II đã canh-tân cho phép các giáo-hội địa-phương
áp-dụng trong phụng-vụ nghi-thức cổ-truyền của mình theo tập-quán. Bởi vì đạo
Thiên-Chúa là đạo tình yêu, yêu tha-nhân như yêu chính mình, không lý gì lại không
hiếu-thảo với cha mẹ như một đạo-lý, nhất là cha mẹ được coi là hình-ảnh, là đại-diện
của Thiên-Chúa nơi trần-gian. Trong những bối-cảnh ấy, hơn bao giờ hết, đạo Hiếu
chính là niềm vinh-dự của văn-hoá Việt-Nam và là niềm tự-hào của Ki-Tô-Giáo vậy.
Chú thích
(1) Ca-dao Việt-Nam
(2) "Kỷ-Yếu Phát-Diệm", kỷ-niệm 100 năm, trang 231-233.
(3) bài "Nịch-Ái Vong-Ân" và "Nữ-Tắc
Thường-Lệ" trích từ "Linh-Mục Trần-Lục, nhà văn công-giáo" của Võ-long-Tê,
trong tạp-chí Định-Hướng số 11, trang 98 và 101
(4) Đoàn-thị-Điểm, Chinh-Phụ-Ngâm khúc
(5) Ông Trường-Chinh, Tổng bí-thư Đảng CSVN
(6)
Đỗ Quang-Vinh, "Tiếng Việt Tuyệt-Vời",
tgxb, Toronto, ấn-bản lần 2 năm 2000, trang 232)