Người phụ nữ và nữ quyền


Kết quả hình ảnh cho hoa hồng

NGUYỄN VĂN TRẦN

                                                               Paris, Pháp

Trước đà tiến của khoa học kỹ thuật và xuất hiện những trào lưu tư tưởng mới đã không tránh khỏi ảnh hưởng sâu đậm làm thay đổi cơ cấu xã hội khắp nơi trên thế giới, thử hỏi làm sao có thể giữ vững nền móng gia đình và thăng tiến hài hòa theo những biến chuyển thời đại? Đó là câu hỏi đặt ra không chỉ riêng cho người Việt Nam mà chung cho cả mọi người.

Từ xưa, gia đình Việt Nam được bền vững, xây dựng hạnh phúc cho mọi người trong gia đình và từ đó đem lại sự ổn định và thạnh vượng cho xã hội, một phần quan trọng nhờ ở vai trò người phụ nữ.
Những biến động xã hội và những luồng tư tưởng mới đã ảnh hưởng đến đời sống người phụ nữ như thế nào ? Ngày nay, sau những đợt giải phóng, bình quyền, thân phận người phụ nữ trên thế giới được thăng tiến đến mức độ nào ? Riêng ở Việt Nam, địa vị người phụ nữ được cải thiện hay xuống cấp?

l.- HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ  PHỤ NỮ.-

Phụ nữ ngày nay đang tranh đấu lật đổ huyền thoại về nữ tính. Họ bắt đầu xác nhận một cách cụ thể sự độc lập của mình. Nhưng uy tín của phái mạnh vẫn còn khó bị xóa mờ và nhứt là khi người phụ nữ lập gia đình thường chấp nhận bị phụ thuộc vào người đàn ông do sức ép kinh tế và xã hội.
Mà phụ nữ là gì ? Theo Simone de Beauvoir thì con người ta không phải sanh ra là phụ nữ mà con người ta trở thành phụ nữ. Không phải yếu tố sinh lý, tâm lý, kinh tế xác định gương mặt của người phụ nữ trong xã hội mà chính là toàn bộ văn minh của loài người đã đặt tên cho người đó là phụ nữ.
Khi mang tên là phụ nữ thì người phụ nữ bắt đầu gánh lên mình những hệ lụy do nền văn minh con người dành cho.
Ngày nay người ta cho rằng thế giới phụ nữ đã thay đổi nhiều. Đời sống người phụ nữ được cải thiện. Nhưng thực tế cho thấy người phụ nữ trên thế giới vẫn còn nhiều khó khăn về nhiều mặt.
Để giúp cải thiện đời sống người phụ nữ, LHQ đã tổ chức từ năm 1975 bốn Hội nghị quốc tế về phụ nữ. Năm 1975 ở Mexico, Hội nghị thế giới phụ nữ qui tụ được 6.000 phụ nữ tham dự; năm 1980, ở Copenhague (Đan Mạch) có 8.000 người; năm 1985 ở Nairobi (Kenya) có 15.000 người, và gần đây, năm 1995, ở Bắc Kinh (Tàu) có đến 30.000 người tham dự.
Những con số thay đổi cho thấy người phụ nữ đã lần lần thật sự ý thức đến thân phận của mình và muốn nỗ lực tranh đấu cải thiện thân phận để những quyền lợi chánh đáng của ngươì phụ nữ phải được tôn trọng.
Hội nghị thế giới phụ nữ ở Bắc Kinh năm 1995 đặc biệt hơn các lần trước, không phải chỉ vì con số phụ nữ tham dự đông đảo và có một số lớn chánh khách phụ nữ tham dự như Tổng Thống phu nhân Hoa Kỳ, bà Bill Clinton, mà vì sự tham dự tích cực của đại diện các tôn giáo lớn như Hồi Giáo và Công Giáo La-Mã, trong tư thế những phái đoàn ngoại giao quan trọng của Hội nghị.   
Qua đến Hội nghị quốc tế phụ nữ lần thứ tư, một khối lượng quan trọng về nữ quyền được ban hành, nhưng trên thực tế, địa vị người phụ nữ có thật sự được cải thiện và sự chênh lệch địa vị về giới tính có được xoá sạch hay không ? Hay vấn đề bình đẳng nam nữ không thể chỉ do khả năng Hội nghị giải quyết mà phải do đấu tranh thường xuyên, trường kỳ, liên tục của phụ nữ và cả nam giới phải tích cực hợp tác nữa ? Bình đẳng nam nữ không phải là một dữ kiện xã hội, mà đó là mục đích phải đạt tới. Nó không phải là điều đạt được do bản Hiến Chương LHQ nêu lên và cổ xúy, mà là cuộc chiến dai dẳng, quyết liệt, do chính chúng ta phải tự đảm nhiệm.

 ll.-ĐỊA VỊ XÃ HÔI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ NGÀY NAY TRÊN THẾ GIỚI.-

Người phụ nữ chiếm một địa vị quan trọng trên thế giới bởi họ chiếm đên 51% nhân loại. Thế mà tình hình chung của thế giới ngày nay vẫn chưa thuận lợi cho địa vị của người phụ nữ trong xã hội và gia đình. Khủng hoảng kinh tế và xã hội đang tác hại các nước kỹ nghệ, những khó khăn ở các nước đang mở mang, những xung đột địa phương gây ra những cuộc di dân vĩ đại, tất cả ảnh hưởng đến người phụ nữ nhiều hơn đối với nam giới. Để thấy tại sao ngươi phụ nữ ở khắp nơi lúc nào cũng bị thiệt thòi, chúng ta hãy xem lại những điều kiện thăng tiến xã  hội mà người   phụ nữ đã thụ hưởng được đến đâu.

-Về mặt giáo dục :                                                       
Ngày nay có một số khá đông phụ nữ đạt được những học vị cao tương đương với nam giới nhưng nhìn chung, việc học và thành đạt của nữ giới so với nam giới vẫn còn chênh lệch quá nhiều.
Cứ lấy con số người đi học, chúng ta sẽ thấy ở cấp tiểu học, cứ 100 đứa con trai  thì có 85 nữ sinh. Ở năm 1960, tỉ lệ đó là 65%. Theo báo cáo của UNESCO, trong 1/4 dân số thế giới không biết đọc biết viết, có 65% là phụ nữ. Phần đông họ sinh sống ở vùng thôn quê.
Về việc chọn môn học để tiến thân sau này, theo một bản báo cáo của một trường đại học Hoa kỳ, con trai phần lớn nghiêng về các môn như toán, khoa học, kỹ thuật và học thành công, trong lúc đó, con gái chọn những môn này thường bỏ dở nữa chừng.
Ngoài việc người phụ nữ chọn ban học không thuận lợi cho việc hội nhập sau này, điều đáng lấy làm ngạc nhiên là các trường đại học chỉ bắt đầu đón nhận nử sinh vào cuối thế kỷ thứ 19 do sức ép của sự phản kháng xã hội lúc bấy giờ. Tại nhiều quốc gia, mãi đến sau thập niên 50 hoặc 60, các đại học mới nhận nữ sinh viên vào học. Một số lớn những đại học có tiếng đã trải qua nhiều thế kỷ từ sau ngày thành lập mới chịu nhận nữ sinh viên. Cụ thể như ở Hoa kỳ, đại học Harward đã ra đời trước đây hơn 250 năm. Ở Anh, đại học Cambridge đã mở cửa từ 589 năm qua và đại học Oxford đã có từ 711 năm về trước.

   - Về mức sống vật chất :
Người phụ nữ nghèo khổ vẫn là số đông và vô cùng đáng thương. Hiện tại có hơn một tỷ người sống nghèo khổ thì có đến 70% là phụ nữ. Số phụ nữ một mình nuôi con càng ngày càng đông: theo LHQ ước tính, cứ 3 gia đình thì có một trường hợp. Ở Phi châu, tỷ lệ này cao hơn.
Sự nghèo đói hằng năm đã làm thiệt mạng hàng nhiều triệu phụ nữ và thiếu nữ. Tình trạng này vô cùng nghiêm trọng ở vùng quê và ở các nước kém mở mang. Nhưng ngay như ở vùng kỹ nghệ phát triển như Pháp, tình trạng này vẫn không tránh khỏi.
Quyền lợi về đi học và đào tạo đồng đều nhưng cái nghèo khó vẫn hăm dọa và gây thiệt hại cho người đàn bà là nặng nề hơn đàn ông. Trong hơn 10 năm qua, nạn thất nghiệp hoành hành phụ nữ rất nặng nên họ bị bắt buộc phải chấp nhận làm những việc tạm bợ hoặc dưới khả năng và lương bổng thấp.
Ở Pháp, cứ 10 ngưòi hưởng trợ cấp tối thiểu để tái hội nhập xã hội thì số phụ nữ lúc nào cũng đông hơn. Ở Hoa kỳ, gần phân nữa những gia đình được giúp đỡ tài chánh gồm toàn phụ nữ độc thân. Họ sống chỉ bằng 23% của mức nghèo chính thức qui định.

   -Về sức khoẻ của người phụ nữ :
Sức khoẻ của phụ nữ vẫn còn là vấn đề tranh cải giữa tôn giáo và xã hội. Sự đồng thuận được đặt định từ 20 năm qua thì ngày nay bị khơi dậy lại bởi những quan điểm trái ngược về vai trò và địa vị của người phụ nữ trong xã hội. Vấn đề phá thai, vấn đề ngừa thai, đã từng gây sóng gió ở Hội nghị về dân số và phát triển tại Le Caire vào tháng 9 năm 1994.
Nhìn chung phải thừa nhận vấn đề sức khoẻ của phụ nữ từ 20 năm qua được cải thiện những bước quan trọng. Con số sanh đẻ có giảm nhiều từ 5, 9 đứa con giảm xuống còn 3, 1 đứa con. Tuy nhiên, sự chênh lệch về mặt sức khoẻ được chăm sóc vẫn còn kéo dài so với đàn ông. Mặt  khác, người phụ nữ còn bị ngược đãi, hành hạ tổn thương đến sức khoẻ. Cứ mỗi năm có 500.000 phụ nữ tử vong vì sanh đẻ, trong đó lại có đến 30% là thiếu nữ vị thành niên. Người ta tính mỗi năm có 100.000 phụ nữ chết vì phá thai lén lút, thiếu kiểm soát y tế. Có tới 300 triệu phụ nữ không có được phương tiện lo liệu kế hoạch hóa gia đình. Có từ 85 đến 114 triệu phụ nữ bị thương tật ở bộ phận phụ nữ.
Và đây là sự thật đang xảy ra ở Hoa kỳ ngày nay : cứ 8 giây đồng hồ là có một phụ nữ bị ngược đãi và cứ 6 phút là có một phụ nữ bị cuỡng hiếp.
Người phụ nữ phải đối diện hàng ngày với thảm trạng xã hội mà họ là nạn nhơn : hảm hiếp, đánh đập, sách nhiễu tình dục. Trong số những nạn nhơn này có cả những phụ nữ chánh trị gia, chỉ huy xí nghiệp ... Tình trạng này vẫn chưa thấy giảm.
Tại quốc gia Thụy Điển văn minh và có tiếng tôn trọng phụ nữ, chỉ trong năm 1999, có đến 20.000 đơn thưa của phụ nữ bị hành hung, tỷ lệ tăng lên 140% kể từ năm 1980. Ở Tây Ban Nha, mỗi năm có ít nhứt 50 phụ nữ bị chồng hoặc tình nhơn sát hại chỉ vì người phụ nữ muốn thôi chồng hoặc tình nhơn. Ở Liên Hiệp Âu Châu, theo một báo cáo phổ biến hồi tháng 6/2000, thì nạn sách nhiễu tình dục đã gia tăng, có đến từ 40% đến 50% phụ nữ nạn nhân. Con số này lên đến 60% về phía nam Châu Âu.
Ở Việt Nam, Xã hội chủ nghĩa ngày nay, người phụ nữ, nhất là thiếu nữ vị thành niên, bị bán mình cho những cuộc hôn nhân bất đắc dĩ với người ngoại quốc để kiếm tiền giải quyết khẩn cấp những khó khăn tài chánh gia đình. Rồi nạn mãi dâm đã công khai trở thành bình thường như những dịch vụ thương mãi. Người phụ nữ mãi dâm không còn mặc cảm xấu hổ với xã hội.

   - Về mặt nghề nghiệp :
Về mặt nghề nghiệp và thăng tiến, đã có giảm bớt sự chênh lệch giữa nam và nữ, nhưng ở mức độ còn rất thấp. Ở trên thế giới, người phụ nữ vẫn chưa được xếp ngang hàng với nam giới về mặt này.                                     
Theo báo cáo của văn phòng Quốc tế Lao động (BIT) thì có 41% nữ nhân công trong các nước kỹ nghệ và 34% trên toàn thế giới; người phụ nữ chiếm 38% dân số lao động.
Mức lương của phụ nữ thường thấp hơn mức lương của nam giới từ 20% đến 40%. Sự chênh lệch này có thể hiểu được do sự chọn nghề theo hướng chọn ban nghành học ở nhà trường. Nữ sinh đa số chọn ban khoa học nhân văn hoặc xã hội. Nếu phải chọn khoa học kỹ thuật thì chọn y khoa hoặc sinh học thay vì toán và thường tránh thi vào các trường kỹ sư. Trong cả Âu Châu, vào cuối thế kỷ cũng như hai mươi năm về trước, số nữ sinh chọn nghành kỹ sư chỉ có 20%.
Do đó mà lương bổng của phụ nữ vẫn còn là vấn đề đau đớn, tuy rằng luật pháp vẫn bảo đảm sự bình đẳng lương bổng. Những nghề dành ưu tiên cho phụ nữ được trả lương thấp hơn những nghề ưu tiên dành cho nam giới. Cùng làm một công việc như nhau, người phụ nữ được trả lương kém hơn người đàn ông. Cùng có bằng cấp như nhau, người phụ nữ được thăng tiến nghề nghiệp chậm hơn đàn ông.   
Chúng ta thử lấy một vài quốc gia Âu Châu làm thí dụ về sự chênh lệch lương bổng giữa hai giới :
               - Bĩ : lương phụ nữ kém hơn đàn ông   16, 8%
               - Đức :        ---     ---       ---      ---          23, 1%
               - Pháp :      ---        ---       ---      ---       23, 4%
               - Anh :        ---       ---       ---      ---       26, 3%
               - Hòa Lan   ---       ---       ---      ---       29, 4%

                                                                 
   - Về mặt tham chánh :
Ở nhiều quốc gia hay trên chánh trường quốc tế, người phụ nữ nắm chánh quyền không chỉ thiểu số mà có khi còn bị loại hẳn ra khỏi địa hạt quyền lực.
Chỉ ở một số nước Bắc Âu, đàn bà tham chánh như là trường hợp điển hình gương mẫu. Islande là nước đầu tiên đã bầu cử bằng phổ thông đầu phiếu một phụ nữ làm Quốc trưởng. Ở Thụy Điển, quốc hội có đến 40% nữ dân biểu. Ở Na Uy, Thủ tướng và Chủ tịch các chánh đảng đối lập đều là phụ nữ.                                                     
Phần còn lại ở Âu Châu và Hoa kỳ, những nơi quyền phụ nữ được tiếng là được tôn trọng nhưng người phụ nữ tham chánh vẫn còn là thiểu số rất thấp. Bảng thống kê của quốc hội các quốc gia Âu Châu và Hoa kỳ vào đầu năm 2000 cho ta thấy rõ vị trí chánh trị của người phụ nữ tại các nước này :

               -Thụy Điển :      42, 7%
               - Đức :        30, 9%  
               - Anh :         18, 4%
               - Đan Mạch :     37, 4%
               - Bĩ    :        23, 3%  
               - Pháp :       10, 9%
               - Hòa Lan  :       36 %
               - Thụy Sĩ :   23 % 
               - Hoa kỳ :   12 %

Quốc gia thuộc Âu Châu ảnh hưởng văn hóa chính thống giáo như Hi Lạp chỉ có  6, 3% phụ nữ ở quốc hội.
Qua cái nhìn tổng kết trên đây, chúng ta đều nhận thấy quyền phụ nữ trên ca&c mặt còn cần phải được tranh đấu nhiều hơn nữa, không chỉ bằng những nỗ lực của các tổ chức quốc tế mà còn bằng cả những hợp tác tích cực của cả hai giới nam nữ để thân phận người phụ nữ sẽ thật sự được cải thiện, để người phụ nữ vĩnh viễn thoát ra khỏi những bóng đêm dày đặc.
Năm 1993, sau 20 năm dài, thành phố Vienne nhận lãnh Tổ chức Hội nghị quốc tế về nhân quyền. Các quốc gia thành viên LHQ và các tổ chức phi chánh phủ ( ONG ) tham dự cũng nhìn nhận “ những quyền căn bản của phụ nữ và thiếu nữ là những quyền bất khả nhượng, trọn vẹn, bất khả phân của những quyền phổ cập của con người “ õvà “ õloại bỏ trọn vẹn những hình thức phân biệt đối xử dựa trên giới tính là mục tiêu ưu tiên mà cộng đồng thế giới phải tranh đấu đạt tới.”
Năm 1995, tại Bắc Kinh, Hội nghị quốc tế về phụ nữ đã lập lại lời tuyên bố long trọng ở Vienne và nhấn mạnh thêm trong số 1,3 tỷ người nghèo trên thế giới, phụ nữ chiếm đến 70%.
Tháng 6/2000, Hội nghị ở Nữu Ước quy tụ 180 quốc gia và hơn 10.000 đại biểu thảo luận nhằm thực hiện những mục tiêu do Hội nghị Bắc Kinh đề ra. Hội nghị báo cáo tình trạng chung của người phụ nữ còn đen tối, hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo càng ngày càng lớn mà phu nữ nghèo càng ngày lại càng đong hơn! 2/3 của số 875 triệu người mù chữ là phụ nữ, mà 3 / 5 phụ nữ mù chữ thuộc các nước Đông nam Á.
Bản văn kết thúc Hội nghị Nữu Ước đề nghị những biện pháp cứng rắn chống lại nạn bạo hành trong gia đình và chống lại những hôn nhơn mà người phụ nữ còn vị thành niên hoặc những cuộc hôn nhơn cưỡng ép vì quyền lợi như những dịch vụ thương mãi. Ở các nước Hồi giáo tình trạng này vẫn còn chiếm từ 30% đến hơn 50%. 


III.-NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM.-

Simone de Beauvoir cho rằng :  “õcon người ta không sanh ra là phụ nữ, mà con người ta trở thành phụ nữ do toàn bộ nền văn minh của con người đặt tên cho.”
Theo sử gia Arnold Toynbee thì văn minh nhân loại đại thể được phân ra làm hai loại hình khác nhau: nền văn minh du mục thuộc các dân sống ở về phía Bắc và nền văn minh nông nghiệp là của dân sống về phía Nam. Dân du mục không sống định cư nên có xu hướng chiếm đoạt. Trong nền văn minh này, người phụ nữ không thoát khỏi thân phận của kẻ bị chiếm đoạt, từ đó trở thành nguồn gốc gây ra thảm trạng phụ nữ mà ngày nay chúng ta còn chứng kiến. Trái lại, trong  nền văn minh nông nghiệp, con người sống định cư nên nặng tinh thần xây dựng, ổn định và  phát triển. Trong nếp sống nông nghiệp, cái nhà, cái bếp là nguồn gốc của sự ổn định và êm ấm. Khi nói đến cái nhà, cái bếp thì phải nói đến người phụ nữ và vai trò người phụ nữ trong mái nhà.                                                                         
Cốt lõi của nền văn minh nông nghiệp là trọng tình cảm, tức trọng sự êm ấm bền vững, tức trọng phụ nữ. Nhưng ngày nay do sự biến chuyển mạnh mẽ của xã hội mà chỉ còn lại nền văn minh gốc du mục hoặc gốc nông nghiệp mà thôi.
Khi tìm hiểu vể người phụ nữ Việt Nam, người ta thường không thể quên mối liên hệ với phụ nữ Tàu, bởi văn hóa Việt Nam cũng như các nước khác trong vùng, Nhật, Đại Hàn, đều chịu ảnh hưởng của văn hóa Tàu. Tùy mức độ ảnh hưởng văn hóa Tàu mà địa vị của người phụ nữ ở các quốc gia này sẽ khác hơn địa vị người phụ nữ Tàu. Ngoài ra còn những khía cạnh đặc thù của văn hóa và lịch sử của mỗi dân tộc cũng đã góp phần quan trọng tạo nên những sự khác biệt so với Tàu về người phụ  nữ.
Trường hợp Việt Nam thể hiện rất rõ đặc tính này.
  
   - Phụ nữ Tàu, Nhựt và Triều Tiên:
Các biến đổi kinh tế  và xã hội là những yếu tố cơ bản làm biến đổi địa vị người phụ nữ Tàu. Gia đình mẫu hệ bị gia đình phụ hệ thay thế tiếp theo. Cũng giống như ở phương Tây dưới ảnh hưởng của DoThái giáo và Ki-Tô giáo, ở Tàu, Nho giáo thừa nhận và hệ thống hóa các quan niệm phụ quyền. Kiểu mẫu xã hội mới này hiện rõ nét từ đời Tống (thế kỷ 10 - 13) tuy trước đó gia đình phụ hệ đã thực sự xuất hiện ở Tàu, nhưng hãy còn là hiện tượng của thực tế xã hội cho đến đời Đường (thế kỷ 7-10) mới có luật pháp ban hành qui định quyền ly dị dành cho người đàn ông (7 lý do) mà thiệt thòi nghiêng về phía người đàn bà. Đạo luật này sau đó được đem áp dụng ở Triều Tiên và Việt Nam. Riêng ở Việt Nam, đạo luật về ly dị có sửa đổi làm giảm sự thiệt thòi cho phụ nữ. Ở Tàu, Nho giáo nhấn mạnh đến đạo Hiếu và được diễn đạt qua việc thờ cúng ông bà mà theo đó chỉ có con trai mới có quyền nắm giữ truyền thống này,  “õbởi con gái không được quyền dâng lễ vật cúng tổ tiên, không thể làm vinh quang cho tên tuổi của dòng họ và cũng không được phép giữ mãi suốt đời cái họ của mình.”
Ở Nhật, sau thế kỷ thứ 8, người phụ nữ Nhật bị luật lệ của vương quyền ngăn cấm các tập tục cũ như đời sống gia đình tập trung chung quanh người mẹ và người mẹ trông coi, nuôi dưỡng con cái. Bắt đầu từ thế kỷ Xl, phụ nữ được cưới đưa về sống trong gia đình chồng. Về sau, khi các nhà quân sự thống nhứt nhiều phần lãnh thổ, các Samurai chiếm địa vị ưu thế trong xã hội thì người phụ nữ Nhựt bị mất quyền sở hữu tài sản trong gia đình Samurai.
Vào cuối thế kỷ 17, xã hội phụ hệ ở Nhật đã được cố định hóa thành một trật tự, trong đó các cuộc hôn nhân được xếp đặt và chỉ có người chồng mới có quyền đề xuất ly hôn. Đến thế kỷ 19, do ảnh hưởng của đạo luật quy định quyền thừa kế dành cho người con trai trưởng mà địa vị của người phụ nữ lại sa sút thêm nữa, so với địa vị người phụ nữ Tàu đương thời.
Cũng như ở Tàu và Nhật, xã hội Triều Tiên vào cổ thời cũng theo mẫu hệù; ít nhứt đến cuối thế kỷ thứ 7, chế độ mẫu hệ hãy còn ghi nhận được trong các gia đình của vua chúa. Sau đó Triều Tiên chịu ảnh hưởng của Nho giáo từ Tàu du nhập vào, và mạnh mẽ nhất là ảnh hưởng của Tống nho đến từ thế kỷ thứ 13. Phải chăng vì vị trí địa lý mà Triều Tiên đã chịu ảnh hưởng nặng nề và gần như trọn vẹn của Tống nho?
Ảnh hưởng của Tống nho cho ta thấy quan niệm về  địa vị người phụ nữ Triều Tiên được đưa vào sách giáo khoa hồi thế kỷ thứ 19 như sau: “õNgười chồng phải thể hiện phẩm cách, và người vợ phải biểu lộ sự vâng phục; có như vậy thì gia đình mới được cai quản tốt.(Sách khai  tâm cho tuổi trẻ Triều Tiên - thế kỷ 19).

   - Người phụ nữ Việt Nam truyền thống:       
Cũng như các nước trong vùng và cả phương Tây, trước khi chuyển sang chế độ phụ hệ, Việt Nam đã trải qua một thời kỳ mẫu hệ. Bốn đền thờ lâu đời nhứt của Việt Nam xuất hiện từ thế kỷ thứ nhứt sau Công nguyên, là đền thờ bốn người phụ nữ: Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Giàn, Bà Tương. Ngày nay, nếu kiểm tra lại chúng ta sẽ thấy số đền, chùa, am, miểu dành thờ phụ nữ (nữ thần) hãy còn chiếm con số cao hơn. Điều này cho thấy Việt Nam theo chế độ phụ hệ nhưng không giống với phương Tây và các nước trong vùng về mặt văn hóa xã hội. 
Ảnh hưởng văn hóa Tàu do sự đô hộ của Tàu kéo dài hàng ngàn năm, các định chế và triết lý phụ quyền của Tàu lẽ dĩ nhiên đã được đem thiết lập ở Việt Nam. Tuy nhiên, khác với kiểu mẫu Tàu, ở Việt Nam vào thế kỷ thứ 13, thời Tống nho cực thịnh, một chế độ quan chức dành cho phụ nữ được sáng lập. Các phụ nữ như nhà giáo Ngô chi Lan, Đoàn thị Điểm, đã lập ra trường học, và môn sinh của các bà đã thi đậêu, trở thành quan chức cao cấp trong triều đình. Trở ngược thời gian xa hơn nữa, dưới thời nhà Lý, các công chúa nắm giữ tài chánh triều đình.
Điều quan trọng và nổi bật vì không giống phụ nữ Tàu, người phụ nữ Việt Nam tiếp tục hoạt động trên cả lãnh vực sản xuất lẫn trong gia đìnhù: cấy gặt, trồng hoa màu, quay tơ, dệt vải, và buôn bán nhỏ.
Một  học giả Hoa kỳ đã nhận xét: “vai trò của phụ nữ trong xã hội Việt Nam truyền thống được xác định bởi một sự pha trộn phức tạp mà hấp dẫn giữa đạo đức Nho giáo, các đặc thù văn hóa dân tộc mang theo dấu vết của chế độ mẫu hệ, và các đạo luật chánh thống đầy mâu thuẫn ...
( William S. Turley, Phụ nữ trong cuộc cách mạng cộng sản ở Việt Nam, nghiên cứu Á Châu số 12, 1972, Hoa kỳ).

Thật thế, trong luật pháp và phong tục, người phụ nữ Việt Nam đều gìữ được địa vị rất cao. Ở thế kỷ thứ 17 và 18, người con gái trong gia đình được quyền thừa kế bình đẳng với con trai. Trái lại người chồng không có quyền thừa kế nếu vợ chết đi không để lại con trai nối dõi.
Địa vị người phụ nữ Việt Nam càng nổi bật nếu đưa cái nhìn quan sát so sánh gia đình Tàu với gia đình Việt Namá:” Nếu như gia đình Trung hoa mang nét đặc trưng bởi quyền lực của người cha trùm lên tất cả các thành viên gia đình thì gia đình Việt Nam lại khác, người vợ hầu như bình đẳng với chồng và các thành viên khác cũng khẳng định tư cách của mình.” (Yu Insum, luật pháp và gia đình ở Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Hoa kỳ, 1987).
Địa vị của người phụ nữ Việt Nam được qui định rõ qua bộ luật cổ của Việt Nam đời nhà Lê  “õQuốc triều Hình luật” (thế kỷ 17 - 18) và sửa đổi qua bộ Hoàng Việt luật lệ dưới thời nhà Nguyễn (thế kỷ 19 - 20) vì bộ luật này ảnh hưởng quá nặng theo luật nhà Thanh. Trên thực tế, một số điều khoản của Hoàng Việt luật lệ không phù hợp với tập quán Việt Nam đã không được áp dụng, nên mới có câu ỏõluật vua thua lệ làngõõ.
Đối xử với người phụ nữ, luật nhà Lê cho phép người chồng đánh vợ, nhưng việc này phải không gây ra thương tích. Người vợ thứ do vợ cả cưới cho không có quyền vươn lên thay thế địa vị của vợ cả, điều này khác hẳn với luật pháp Tàu. Quyền lợi và địa vị của người vợ cả được luật pháp bảo vệ.
Đặc tính của văn hóa Việt Nam do gốc nông nghiệp nên trọng phụ nữ, dẫn đến thể chế hóa địa vị của người phụ nữ, như người phụ nữ mang tội gian dâm thì chỉ bị lưu đày biệt xứ, trong lúc đó, người đàn ông bị tử hình. Người chồng thiếu bổn phận đối với vợ có thể bị vợ xin ly dị. Con gái được thừa kế gia sản, có thể được thừa kế hương hỏa nếu như gia đình không có con trai.
Tuy cho rằng bộ luật nhà Nguyễn bị ảnh hưởng sâu đậm ở luật nhà Thanh, nhưng thực tế cho thấy ở xã hội Việt Nam từ thời Lê cho đến về sau này, địa vị người phụ nữ vẫn được bảo vệ, như quyền thừa kế, quyền thờ cúng ông bà với tư cách người vợ, người con gái trong gia đình. Người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn luôn giữ được quyền bình đẳng đối với nam giới, tuy nhiều khi không được chánh thức (Nguyễn ngọc Huy, Quốc triều hình luật, Canada, 1989, Tạ văn Tài, Tạp chí nghiên cứu Á Châu, Hoa kỳ, 1981 và  G. Grivaz, aspects sociaux et économiques du sentiment religieux en Annam, Paris, 1942).

   - Người phụ nữ giải phóng:
Khi người cộng sản đến, người phụ nữ Việt Nam được người cộng sản đưa lên hàng “õphụ nữ giải phóng “õ và ngày  8 - 3, ngày quốc tế phụ nữ, được dùng làm ngày lễ đề cao địa vị người phụ nữ không còn bị “kềm kẹp “trong khuôn khổ gia đình nữa.
Tưởng cũng nên nhắc lại vắn tắt lịch sử ngày Quốc tế phụ nữ: Thoạt tiên, nhà nữ cách mạng Đức Clara Zetkin cùng với Rosa Luxembourg trong quốc tế phụ nữ xã hội đề nghị nhân một Hội nghị tổ chức tại Copenhague năm 1910 nên thiết lập một ngày hàng năm để tranh đấu cho nữ quyền. Ngày biểu tình đầu tiên xảy ra ở Đức, ở Áo, ở Đan Mạch và ở Thụy Sĩ vào tháng 3 năm 1911. Đến năm 1921, Lénine lấy ngày này kỷ niệm cuộc biểu tình thợ thuyền ở Saint - Petersbourg vào năm 1917. Ở Pháp, năm 1981, chính phủ Pháp lấy ngày 8 - 3 và  chánh thức ban hành là ngày phụ nữ. Và ngày nay, ngày 8 - 3  không phải là sản phẩm cộng sản mà là ngày quốc tế phụ nữ phổ quát.
Khi người cộng sản hô hào “phụ nữ bình quyền, phụ nữ giải phóng”õ, kỳ thật họ làm điều này là để bốc người phụ nữ ra khỏi gia đình, ném người phụ nữ vào chiến trường như những công nhân tải đạn, tải thương binh hoặc đưa vào nông trường, lâm trường, thay thế đàn ông trong các công việc sản xuất nặng nhọc, vì đàn ông bị chiến trường cướp hết.
Dưới chế độ cộng sản, “phụ nữ bình quyền”õ, “phụ nữ giải phóng” là phụ nữ phải tỏ ra có đủ sức gánh vác những công việc nặng nhọc của đàn ông. Khi người phụ nữ được “õbình quyền, được giải phóng” thì người phụ nữ đã hoàn toàn bị biến đổi nhan sắc, vóc dáng cố hữu của người phụ nữ.
Thậm chí, vì quá bị “õgiải phóng” õmà nhiều người phụ nữ ở lâm trường và nông trường bị cướp mất đi bản chất phụ nữ. Người phụ nữ “õgiải phóng” không còn biết e thẹn, biết giữ những nụ cười kín đáo mà duyên dáng. Nhiều khi cả nhóm cùng cười rũ rượi hoặc cùng khóc ầm lên. Nhiều phụ nữ đầu tóc còi cọc, thân thể phụ nữ bỗng bị biến dổi như muốn trở thành đàn ông. (Mai Thu Vân, des voix, un peuple, Paris - Dương Thu Hương, Bên kia bờ ảo vọng, Hoa kỳ)
Dân số Việt Nam gần 80 triệu, phụ nữ chiếm một tỷ lệ cao hơn nam giới, (90 - 94 nam trên 100 nữ). Trong số hơn 15 triệu phụ nữ lập gia đình, có 18, 24% ly hôn và phải sống độc thân vì khó tái lập gia đình trở lại.
Trong tổng số trẻ từ 15 tuổi trở lên chưa lập gia đình, nữ giới  chiếm 31, 30%, còn nam giới chiếm 37, 4%, số nữ có gia đình thấp hơn nam giới  (56% nữ, 59, 7% nam).
Về học vấn, phụ nữ biết chữ chiếm 84% (nam chiếm 93%). Phụ nữ có trình độ trung cấp chiếm 56%, đại học và cao đẳngá: 37%, tiến sĩ, phó tiến sĩù: 7%. Phụ nữ tham chánh: 20% . Có 35% phụ nữ nắm giữ chức vụ trong Hội đồng nhân dân các cấp. Ở Trung ương chỉ có 15 Thứ trưởng, Bộ trưởng là phụ nữ. Ở xí nghiệp có 17 nữ Tổng Giám đốc và Phó Tổng Giám đốc.
Tại Quốc Hội khóa lX, nữ dân biểu chiếm 18%.
Về nghề nghiệp, phụ nữ  chiếm 72, 8% trong nông lâm nghiệp, 2, 7% trong văn phòng, 40, 4% trong nghành khoa học, giáo dục và y tế. Ngoài ra, ở các nghành khác, phụ nữ chiếm từ 0, 8% đến 4, 7%.

   - Phụ nữ và gia đình ở Việt Nam ngày nay:                                                                       
Gia đình Việt Nam không giống gia đình ở Tây phương chỉ gồm vợ chồng và con cái, thêm con chó. Gia đình Việt Nam bao gồm chững người có liên hệ huyết thống như ông bà, cha mẹ, con cháu và cả những người được nuôi dưỡng mà trong gia đình không có liên hệ huyết thống. Ở Việt Nam cộng sản, gia đình còn có Hộ kèm theo bên cạnh, như Hộ gia đình, Hộ tập thể ... để chỉ một đơn vị gia cư trong mối quan hệ với chánh quyền (công an hộ khẩu, khu vực). Hộ khẩu chỉ có nhĩa là chỗ ở gồm một hoặc nhieều miệng ăn trong đó, ra-(p khuôn theo chế độ tổ chức quản lý xã hội của Tàu (hukou). Hộ khẩu không phải là gia đình bởi gia đình bao gồm con người mà sự sống chung dưới cùng mái nhà được thiết lập trên những ràng buộc bằng tình yêu thương với nhau.
Theo cuộc kiểm tra dân số do Hànội thực hiện năm 1989, số gia đình tăng lên 3, 04% sau 10 năm. Gia đình gồm 4 người năm 1979 chiếm 15%, 10 năm sau tăng lên 18,9%.
Những « õhộ tập thể » gần như biến mất nhường chỗ cho những gia đình theo liên hệ huyết thống. Con cái tách ra ở riêng nhưng vẫn giữ quan hệ thân thiết với ông bà, cha mẹ, họ hàng và vẫn duy trì sự giúp đỡ, tương trợ trong gia đình.
Chánh sách xây dựng một xã hội Xã hội chủ nghĩa, trong đó những hộ tập thể thay thế gia đình truyền thống vì cá nhân bị bốc rời khỏi mối liên hệ họ hàng để đời sống cá nhân do chế độ quản lý; chánh sách này ngày nay đã thất bại.
Trong đời sống gia đình ở Việt Nam ngày nay, người phụ nữ làm việc ở sở, ở xí nghiệp bằng trách nhiệm người chồng. Ở nông thôn, người phụ nữ làm việc nhiều hơn đàn ông. Phần nội trợ, lúc nào người phụ nữ cũng đảm nhiệm nhiều hơn đàn ông.
Khi phải quyết định một vấn đề quan trọng hay quản lý một công việc lớn thì thường người phụ nữ ủy nhiệm cho đàn ông, kể cả vấn đề muốn sanh con nhiều hay ít.!
Trong việc chia xẻ trách nhiệm gia đình với chồng, cho đến ngày nay, kể cả ở Pháp, người đàn bà vẫn lãnh 80% những công việc « khổ sở »như đi chợ, làm bếp, giặt giũ, săn sóc con cái. Thì giờ dành riêng cho bản thân mỗi ngày, người phụ nữ trong gia đình chiếm được 2 giờ 37 phút, trong lúc ấy người đàn ông được hưởng 3 giờ 51 phút. Riêng thì giờ dành cho con cái, người đàn bà dành số thì giờ gấp đôi đối với ông chồng.
Gia đình Việt Nam từ ngàn xưa giữ vị trí quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân cũng như trong sự phát triển xã hội. Gia đình luôn luôn là nơi cấu tạo hạnh phúc của mỗi người bởi con ngưởi tìm thấy trong gia đình sự đùm bọc về vật chất và tinh thần, thụ hưởng sự giáo dục, những niềm vui của cuộc sống, sự an ủi khi khó khăn, sự phụng dưỡng lúc tuổi già yếu.
Gia đình đảm nhiệm vai trò cân bằng về tâm lý và tình cảm, hạnh phúc cho mỗi cá nhân.
Xã hội không thể thay thế vai trò của gia đình, mặc dù với những tiến bộ tân kỳ của khoa học kỹ thuật nên tham vọng tách con người ra khỏi gia đình, biến thành những cá nhân đơn lẻ để tiêu diệt gia đình vốn là nền tảng xã hội là điều không bao giờ thực hiện được.
Trong gia đình Việt Nam, vai trò người phụ nữ là quan trọng, mặc dù người phụ nữ không làm ra của cải, chỉ lo việc nội trợ, nuôi dạy con cái, vì « của chồng công vợ. »
Khi đặt vấn đề quyền như nữ quyền theo quan niệm « õphụ nữ giải phóng »õ thì sự quân bình trong đời sống gia đình bắt đầu chao đảo. Người phụ nữ Việt Nam có chấp nhận trách nhiệm nặng nề trong gia đình hơn chồng nhưng được hiểu đó là thiên chức làm vợ, làm mẹ. Về mặt thể chế, thiên chức phụ nữ ở Việt Nam đã sớm được luật pháp bảo vệ hơn ở nhiều quốc gia khác trên thế giới.

KẾT  LUẬN .-

Địa vị người phụ nữ Việt Nam trong luật pháp, trong đời sống kinh tế, xã hội và gia đình từ xa xưa cho thấy họ không cần phải đòi bình quyền, đòi được giải phóng. Nữ quyền đã được gắn liền với những quyền tự nhiên của con người. Đó là nếp sống trong truyền thống văn hóa Việt Nam.                                                                     
Nhờ truyền thống tốt đẹp này mà biết bao người đàn bà Việt Nam đã giúp chồng thành đạt, nuôi dạy con cái trở thành hiển vinh, đóng góp vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước cho đến ngày nay.
Hội nghị quốc tế về phụ nữ đã nhóm họp đến lần thứ tư. Nhiều đạo luật bảo vệ nữ quyền đã ban hành, những bản tuyên bố kêu gọi tôn trọng nữ quyền đã đưa ra, nhưng người phụ nữ trên khắp thế giới vẫn còn là nạn nhân thảm hại của những vụ bạc đãi, bạo hành, tử vong oan ức, ...
Người phụ nữ Việt Nam hiền lành lắm, không bao giờ dám khơi động một cuộc xung đột, dù nhỏ đi nữa. Trái lại, người phụ nữ Việt Nam chỉ ra sức giải quyết những xung đột. Bởi đó, người phụ nữ Việt Nam không cần đòi bình quyền và giải phóng mà chỉ vì mong muốn mọi người hãy chịu lắng nghe tiếng nói của những tấm lòng kiên trì và can đảm, của những tấm lòng vị tha và hy sinh của người phụ nữ để những hắc ám của thù hận và ngoan cố sớm bị thổi tan đi và để cho những nỗi thống khổ và tuyệt vọng triền miên được xoa dịu, trong đó có thân phận người phụ nữ.

Ghi chú

-     Nguyễn Ngọc Huy, Quốc triều hình luật, Canada, 1989.
-     Simone de Beauvoir, le deuxième sexe ll, Paris, 2001.
-      Sabine Bosiô Valici et Michelle Zancarini  Femmes et fières de   l’être, Fournel, Paris, 2001.
-     Atlas, des femmes dansle monde, Paris, 1998.
-     Elsa Dorlin, l’évidence de l’égalité des sexes, Paris 2000.
-     Gia đình và địa vị người phụ nữ trong xã hội, Hànội, 1995.
-     Le Monde, 10/2/2001 và 8/3/2001.