Huỳnh Thục Vy
Trước đây, tôi từng nghe truyền thông đưa tin rất nhiều lần, hết năm này đến năm khác, rằng Hoà Thượng
Thích Quảng Độ và bác sĩ Nguyễn Đan Quế được đề cử giải Nobel Hoà Bình. Nhưng
giải thưởng quan trọng và danh giá này (tôi không dùng từ “cao quý” vì đã có những
người không cao quý được nhận giải này), cho đến nay, vẫn ở ngoài tầm tay các
nhà hoạt động Việt Nam.
Vậy tại sao Việt Nam lại chưa có một khôi nguyên Nobel Hoà
Bình? Có những nguyên nhân chủ quan và khách quan nào? Và chúng ta cần làm gì?
Đây là những câu hỏi không đơn giản. Nhưng trong tầm hiểu biết giới hạn của
mình, người viết xin mạo muội nêu ra vài ý kiến đóng góp như sau để nói về hai
nguyên nhân chính:
1/ Việt Nam chưa có vị trí quan trọng trên trường quốc tế. Mặc
dù đất nước chúng ta giữ một vị trí địa chính trị quan trọng, nhưng trong bối cảnh
các siêu cường đang tập trung sự chú ý và sức mạnh vào những khu vực khác, vị
trí chiến lược của chúng ta chưa phát huy được tiềm năng của nó. Thậm chí, có
thể vì định mệnh này (vị trí chiến lược quan trọng và béo bở trong khi vai trò
và sức mạnh chính trị-quân sự thấp kém) mà chúng ta phải chịu tai hoạ, đất nước
ta thành tiền đồn, rồi thành con tốt thí trên bàn cờ quốc tế.
Đối với các siêu cường và đặc biệt là các quốc gia Tây
phương, Việt Nam chỉ là một quốc gia nhược tiểu, không ai nhớ tên, vì sự hiện
diện ít ỏi của nó trong các hội luận quốc tế, và vai trò bé nhỏ, nếu không muốn
nói là con số không trong bàn cờ chính trị và cán cân quyền lực quốc tế.
Một giải thưởng quốc tế, không thể tránh khỏi sự tác động và
can thiệp của nhiều phía có uy tín và các
nhánh quyền lực quốc tế. Việc trao giải thưởng cho một nhà hoạt động nào
đó ngoài mục tiêu vinh danh những nỗ lực dấn thân và thành quả mà họ đạt được,
những người có nhiệm vụ xét giải sẽ cân nhắc, hoặc được nhắc nhở phải cân nhắc,
một số điều kiện như: Nếu giải thưởng được trao cho nhà hoạt động ở một quốc
gia nào đó, điều này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chính quyền, giới trí thức và
công luận nước đó, mối quan hệ giữa quốc gia này với thế giới phương Tây có vì
thế mà thay đổi tích cực hoặc tiêu cực không? Những nỗ lực trong tương lai của
cá nhân này sau khi nhận giải có làm thay đổi xã hội, và từ sự thay đổi xã hội
đó, có ảnh hưởng đến quyền lực chính trị
quốc gia và một vài phía trong các mối toan tính quyền lực quốc tế không? Việc
trao giải có đáp ứng nhu cầu khuếch trương uy tín và tạo hiệu ứng truyền thông
cho các bên quyền lực nhằm tạo dựng một cán cân, một trật tự chính trị mới hay không?
…Trường hợp Nobel Hoà Bình cho Lê Đức Thọ và Henry Kissinger là một ví dụ điển hình.
Một quốc gia độc tài hạng bét như Việt Nam, lại đang chịu thần
phục một quốc gia đàn anh khác. Mọi toan tính và chuyển biến từ thượng tầng phải
nhận lệnh từ Bắc Kinh, thì việc trao một
giải thưởng quốc tế danh giá như Nobel Hoà Bình cho một nhà hoạt động ở đó mang
lại rất ít tác dụng và lợi ích cho phương Tây. Vì những ai khôn ngoan sẽ nhận
ra rằng giải quyết vấn đề Việt Nam sẽ chỉ là cắt tỉa phần ngọn vấn đề, trong
khi gốc rễ nằm ở Trung Nam Hải kia.
Bởi nếu quốc tế vinh danh một nhà hoạt động Việt Nam bằng giải
Nobel Hoà Bình, Xã hội Dân sự Việt Nam có thể phát triển mạnh, các phong trào
đòi dân chủ sẽ nổi lên, dần dần nhà cầm quyền Việt Nam có thể bị đẩy vào thế bị
động… Nhưng nếu nhà cầm quyền Bắc Kinh vẫn còn đó thì người đàn em Việt cộng có
sắp chết cũng ráng bò dậy đỡ khẩu súng từ tay người đàn anh mà bắn vào người
dân của mình. Tôi luôn tin tưởng việc xây dựng Xã hội Dân sự là cần thiết và là
vấn đề sống còn đối với công nghiệp trang bị và tạo sức mạnh cho người dân nhằm
xây dựng nền dân chủ hậu cộng sản; nhưng sự giải thể chế độ độc tài này gắn liền
với vận mạng của Trung Cộng và cán cân quyền lực quốc tế ở Thái Bình Dương nhiều
hơn.
2/ Trở lại vấn đề giải Nobel Hoà Bình, nguyên nhân thứ hai
là: Các nhóm vận động quốc tế của Việt Nam chưa đủ mạnh và chưa có đủ khả năng
đi vào dòng chính của hoạt động xã hội dân sự cũng như chính trường quốc tế để
vận động có lợi cho đất nước mình.
Chỉ có các tay mơ mới nghĩ rằng, việc trao các giải thưởng
danh giá là do quốc tế hiểu rất cặn kẽ, theo dõi rất sát sao về tình hình một đất
nước và biết rất rõ về cá nhân người được
đề cử. Mọi khôi nguyên của các giải thưởng quốc tế lớn đều có những cá nhân
hoặc tổ chức có uy tín quốc tế, có năng lực vận động và có đội ngũ làm việc
trực tiếp, thường xuyên với quốc tế, đề cử và vận động hành lang và trưng đủ bằng
chứng để thuyết phục Uỷ ban xét giải. Nghĩa là sự trao giải này cũng đáp ứng được
những tính toán của các bên: những phía có thẩm quyền tác động và can thiệp, những
nhóm có quyền lợi liên quan… Xin lưu ý là, không có một định chế nào trên thế
giới được tạo ra hoàn toàn chỉ vì những mục tiêu lý lưởng. Thế giới này không
là thiên đàng, nên có một khoảng cách rất lớn giữa lý tưởng và các thiết chế
tương ứng của nó.
Trước khi một giải thưởng được cấp hằng năm, hồ sơ đề cử đã
được thảo luận và hoàn tất trước đó ít nhất là một năm. Một nhóm vận động sẽ đề
cử các cá nhân dưới trướng mình, hoặc làm việc cho mình. Họ thu thập mọi tài liệu
và thông tin cần thiết và không tránh được
tình trạng thổi phồng thành tích của cá nhân mình đề cử, rồi trình lên Uỷ ban
xét giải. Tổ chức vận động càng có ảnh hưởng quốc tế thì người được họ đề cử sẽ
có nhiều khả năng nhận giải. Bởi vậy, giải thưởng có khi không trao cho người xứng
đáng, nhưng tổ chức vận động đề cử thì hoàn toàn xứng đáng vì tổ chức đó đã
thành công trong việc chứng tỏ họ có khả năng vận động và can thiệp. Trường hợp
giải Nobel Hoà Bình được trao cho Obama cũng vậy, Obama không xứng đáng nhưng
thế lực vận động cho ông đủ sức mạnh, và họ xứng đáng vì họ có uy lực quốc tế.
Con số trí thức và các nhà hoạt động Việt Nam có khả năng can
thiệp vào các thảo luận quốc tế rất ít; các tổ chức vận động của người Việt có
tầm ảnh hưởng quốc tế lại hầu như không có. Các cá nhận người Việt có uy tín quốc
tế không phải không có, nhưng uy tín đó là uy tín cá nhân và trong công tác can
thiệp, cá nhân không bao giờ làm việc hiệu quả như một tổ chức.
Qua những phân tích về nguyên nhân Việt Nam chưa có khôi
nguyên Hoà Bình, chúng ta có thể áp dụng để giải thích một cách hợp lý về các
giải thưởng quốc tế danh giá khác, dù tầm mức nghiêm trọng có thể hơn kém nhau
rất nhiều.
Chúng ta cũng cần tỉnh táo để không hy vọng quá nhiều rằng quốc
tế đến hôm nay mới thực sự chú ý đến hồ sơ nhân quyền Việt Nam và họ sẽ giúp
chúng ta giải quyết vấn đề của chính chúng ta. Không phải vậy! Họ đã chú ý từ rất
lâu, chỉ là chúng ta chưa có những tổ chức đủ mạnh để thuyết phục họ về uy tín
và tiềm lực của mình thôi. Và dù chúng ta có nhiều tổ chức mạnh thì công việc cần
thiết nhất không phải là vận động các giải thưởng mà là tạo nội lực cho khối quần
chúng đang sợ hãi và yếu đuối.
Từ lâu nay, có nhiều cá nhân hải ngoại lẫn quốc nội đã nỗ lực
không mệt mỏi vận động nhân quyền cho Việt Nam, đưa hồ sơ nhân quyền Việt Nam
lên Liên Hợp quốc và các CSOs bảo vệ nhân quyền quốc tế, mang lại phúc lợi thực
sự cho các nạn nhân Nhân quyền. Nhưng xin lưu ý là, cá nhân thì không có sức mạnh
ảnh hưởng như tổ chức. Tôi tin rằng sẽ tốt hơn nếu chúng ta có nhiều khối, nhiều
nhóm hoạt động hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu đa nguyên của một khối dân số khá lớn
(chín chục triệu người) và ngăn chặn khả năng chính trường Việt Nam tương lai bị
thao túng bởi một hoặc một vài nhóm mạnh nhất, dù họ thuộc đảng phái nào, đảng
ABC hay khối chống ABC…
Chúng ta cần nỗ lực để ngày càng có nhiều tổ chức hoạt động
quy cũ, đưa thông tin về Việt Nam ra bên ngoài, mở rộng uy tín của các tổ chức
người Việt ra tầm quốc tế, có khả năng vận động và ảnh hưởng quốc tế, có nhiệt tâm tổ chức và tạo sức mạnh
cho người dân trong nước… Như vậy, không những các nhà hoạt động nhân quyền của
chúng ta đều được ủng hộ, bảo vệ và vinh danh, chúng ta có nhiều diễn đàn quốc
tế để nói lên tiếng nói của người Việt, mà còn trang bị để Việt Nam có đủ khả
năng ngăn chặn một chế độ độc tài hậu cộng sản (vì thật nguy hiểm nếu chỉ có một
hoặc một vài phe nhóm mạnh thao túng tất cả). Xin minh định rằng, sự đoàn kết
không nằm ở chỗ chỉ có một khối thống nhất mà chính là ở chỗ các cá nhân và tổ
chức tranh đấu cùng làm việc vì một giá trị chung tốt đẹp.
Tôi không chú trọng đến sự xứng đáng hay không của một cá
nhân, nhưng tôi trăn trở đằng sau cá nhân ấy là một tổ chức mạnh đến mức độ nào
và họ có thực sự tranh đấu vì phúc lợi của người dân Việt Nam hay không? Vài
dòng đóng góp ý để quý độc giả không choáng váng hoặc thất vọng vì các lần “chiếu cố khó hiểu” của một tổ chức quốc tế
dành cho các nhà hoạt động Việt Nam; công việc của chúng ta là tiếp tục làm việc
phục vụ cho mục tiêu tối hậu là tự do, an sinh và nhân phẩm cho hơn chín chục
triệu người dân đang nằm dưới ách độc tài, chứ không phải cho bất cứ một phe
nhóm nào.
Huỳnh Thục Vy
Buôn Hô, 17/4/2015