Nguyễn Giang
bbcvietnamese.com
Nhiều tuần qua, cứ mỗi ngày đọc tin mạng từ Việt Nam tôi lại thấy có thêm chuyện về các cố kỹ thuật, tai nạn gây thương vong.
Hôm
21/7, tại quận 1, TPHCM, một xe đầu kéo gây tai nạn liên hoàn vì tài
xế không làm chủ tay lái khiến xe tông vào nhiều xe đang dừng đèn đỏ,
khiến bốn người bị thương.
Phạt lái xe là chuyện dễ nhưng cũng
cần hỏi ai cho các xe phân khối lớn, có tính năng công nghiệp lại 'chen
vào' làn đường giao thông những giờ bình thường?
Ở châu Âu, nhiều
tuyến đường nội đô không cho xe tải to qua lại ban ngày vì gây nguy
hiểm và ô nhiễm trong khi ở Việt Nam, đường xá như thể là biểu hiện
của cuộc chơi ai gấu hơn thì thắng.
Báo
Nhân Dân hôm 17/06 viết:
“Thời gian gần đây, có nhiều vụ tai
nạn, sự cố công trình, thiết bị thi công gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng như vụ sập giàn giáo tại cảng Sơn Dương, dự án Formosa, khu kinh
tế Vũng Áng, Hà Tĩnh làm 13 người chết và 29 người bị thương; vụ cần cẩu
đứt cáp tại Đồng Tháp khiến ba mẹ con tử vong ở Đồng Tháp, nhiều vụ tai
nạn trên công trường thi công tuyến đường sắt trên cao Cát Linh - Hà
Đông, tuyến đường sắt đô thị Nhổn - ga Hà Nội… gây bất an và bức xúc
trong dư luận.”
Xây nhiều thì hẳn khó tránh khỏi tai nạn nhưng ở Việt Nam, tần suất tai nạn quả là cao và không trừ ngành nào.
Trên
đường: hôm 6/5 có xe tải chở điều hòa bỗng nhiên bốc cháy tại đường
trên cao tốc ở Hà Nội, đoạn ngã tư Trần Duy Hưng– Phạm Hùng.
Ngoài phố: Hà Nội chặt cây và trồng cây lại để nguyên bọc rễ bằng nylon loại không phân hủy được.
Trên
biển: trong tháng 4 cáp quang biển AAG bị đứt, gây khốn khổ cho người
dùng Internet và nhiều thiệt hại chưa đếm hết cho kinh tế.
Trên
trời: năm qua ghi nhận chuyện như “máy bay của Vietnam Airlines suýt
đâm vào trực thăng quân sự” ở Huế hoặc “suýt va vào máy bay chở hàng
Cathay Pacific Cargo của Hong Kong”, theo báo chí trong nước.
Dưới
đất: báo Việt Nam viết mới năm ngoái rằng tuyến cấp nước sông Đà về
khu vực Hà Nội đã “chín lần xảy ra sự cố vỡ đường ống”.
Bất kể
quan điểm chính trị là gì, ai đọc những tin như trên cũng thấy lo ngại
về tình trạng điều hành đất nước với nhiều sự cố kỹ thuật, và các dự án
‘đụng đâu vỡ đấy’.
Không ai phủ nhận nhu cầu phát
triển của Việt Nam, quốc gia cần các dự án lớn để kích cầu kinh tế, để
tạo cơ sở hạ tầng cho một xã hội văn minh, hiện đại.
Xây một
lúc nhiều lò phản ứng nguyên tử, xây sân bay tầm khu vực tại Long Thành
thể hiện tham vọng của một chính phủ muốn canh tân, muốn thoát khỏi
‘bẫy thu nhập trung bình’ (một mỹ từ trên quốc tế để chỉ những xứ sở
vĩnh viễn nghèo).
Về tổng thể thì rất đáng thúc đẩy các công trình lớn nhưng điều gây lo ngại là yếu tố con người, ở đây là con người Việt Nam.
Từ
lãnh đạo, nhà quản lý, đội ngũ chuyên gia, chuyên viên tới từng người
lao động, Việt Nam đang thiếu năng lực và tư duy công nghệ để làm cho
tốt những công trình khổng lồ tiền tỷ.
Ba thế hệ kỹ trị
Ta hãy so sánh ngay Việt Nam với láng giềng Trung Quốc.
Có
bình luận quốc tế đánh giá về lãnh đạo Trung Quốc đã ghi nhận ba thế
hệ lãnh đạo của họ, từ các ông Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào đến Tập
Cận Bình, đều xuất thân là kỹ sư.
Cựu chủ tịch Giang Trạch Dân lên từ ngành điện tử và automobile, cựu chủ tịch Hồ Cẩm Đào cũng là kỹ sư thủy điện.
Cựu thủ tướng Ôn Gia Bảo tốt nghiệp ngành địa chất và làm việc nhiều năm ở Cam Túc trong ngành này.
Ông
Tập Cận Bình, lãnh đạo tối cao hiện nay ở Trung Quốc, là kỹ sư hóa
và làm việc nhiều năm trong các nhà máy, công trường, trước sang làm
quan chức Đảng.
Cựu thủ tướng Chu Dung Cơ và
đương kim thủ tướng Lý Khắc Cường tuy không phải là kỹ sư nhưng đều có
bằng kinh tế và đã làm quản trị từ các vị trí thấp lên cao.
Nhờ có
mấy thế hệ lãnh đạo kỹ trị (technocrats) Trung Quốc dùng công nghiệp
hóa làm động lực phát triển kinh tế và cải tạo xã hội.
Và dù có
nhiều lãng phí, thất thoát, sự cố kỹ thuật (chủ yếu ở các tỉnh), những
công trình lớn và quan trọng của Trung Quốc đều có chất lượng cao, có
thể không hơn Nhật, Pháp, Mỹ nhưng ở một đẳng cấp hơn hẳn nhiều quốc
gia châu Á.
Ta không nên nhìn những thứ phẩm Trung Quốc đẩy sang
Việt Nam và châu Phi để đánh giá Trung Quốc, nơi các lãnh đạo thực sự
chú tâm vào các vấn đề kỹ thuật và có kiến thức cùng tham vọng.
Ở Việt Nam thì ngược lại: trong bốn vị giữ chức vụ cao nhất của Đảng, Nhà nước, Chính Phủ, Quốc hội không có ai là kỹ sư.
Còn
trong cả Bộ Chính trị 16 thành viên chỉ có một người từng học chuyên
ngành công nghệ là TS Nguyễn Thiện Nhân (ngành cybernetics tại CHDC
Đức).
Đa số các vị khác đi lên từ quân đội, công an, tuyên giáo
bộ máy Đoàn Thanh niên hay Đảng Cộng sản và một số ngành khác như
kinh tế, quản trị hành chính nhưng không gắn liền với công nghệ.
Hơn
một thập niên qua, nền kinh tế càng bung ra xây cất nhiều thì ta càng
thấy ‘chủ nghĩa kỹ trị’ ở Việt Nam càng tỏ ra không phải là xu hướng
chủ đạo, thậm chí còn đang trên đà đi xuống, cùng con số các vụ bê bối,
tai nạn lao động gia tăng.
Nói như Tony Blair, chính phủ kỹ trị “không để ý đến phe Tả hay phe Hữu mà chỉ để ý làm sao tìm ra giải pháp”.
Còn
ở Việt Nam, trong bộ máy chính trị vốn là nơi các quyền lợi của nhiều
bộ ngành, nhóm lợi ích đan xen nên phái kỹ trị có vẻ chỉ là thiểu số,
có khi còn yếu thế hơn bộ máy kiểm soát văn hóa, tư tưởng, giáo dục.
Từ bauxite ở Tây Nguyên, tới
cầu đổ bê tông lõi tre ta thấy quy trình thực hiện và hậu quả đều phản
ánh một tư duy hoàn toàn ‘phi kỹ trị’.
Trong rất nhiều công
trình, gồm cả sân bay Long Thành thì cuối cùng lại phải dựa vào câu thần
chú ‘chủ trương lớn của Đảng’ để làm.
Vậy thì là Đảng trị vẫn trên kỹ trị, hay người ta chỉ viện dẫn ra Đảng khi cần?
Việt
Nam cũng đã có các gương mặt chuyên viên, với một số vụ trưởng, thứ
bộ trưởng và cả hai phó thủ tướng Việt Nam được học ở nước ngoài trong
các ngành quản trị, kinh tế, ngoại giao, và có trình độ ngoại ngữ
tiếng Anh tốt.
Các nước Phương Tây, giới quan sát, các nhà đầu tư
nước ngoài và một phần xã hội đã từng mơ ước Việt Nam có một chính
phủ kỹ trị, gồm các chuyên viên cởi mở có kiến thức hiện đại, khả năng
ngoại ngữ, năng lực điều hành nền kinh tế hiện đại.
Bởi những gì
chúng ta thấy vẫn đang là biểu hiện của thói làm ăn tiểu nông, liều ẩu,
vô tổ chức, coi khinh quy trình kỹ thuật và rất nguy hiểm.
Người
ta cũng hy vọng các quan chức kỹ trị sẽ giúp tạo ra một nền văn hóa
công chính trọng sự chuẩn xác, mẫu mực của kỹ thuật, bớt đi những điều
mơ hồ, giáo điều cũ kỹ phí thời gian trong giáo dục, dạy nghệ, nhằm
nâng cao chất lượng lao động chung.
Cho tới nay, thành tích của nhóm này chưa thấy có gì nhiều.
Đây cũng là lý do mục tiêu thành quốc gia 'công nghiệp hóa hiện đại' vào năm 2020 có vẻ không khả thi.
Như GS Trần Văn Thọ từ Nhật Bản viết gần đây trên trang Thời Đại Mới thì:
"Hiện
nay theo phân loại của Ngân hàng thế giới, bình quân đầu người từ 1.000
đến 12.000 USD là nước có thu nhập trung bình, Trên 12.000 USD là nước
thu nhập cao. Do đó một nước được gọi là công nghiệp phải có trên 12.000
USD."
"Việt Nam hiện nay mới gần 2.000 USD, đến năm 2020 có lẽ
khoảng 3.000, giỏi lắm là 3.500 (tùy theo biến động của tỉ giá). Nhìn từ
điểm này ta thấy mục tiêu năm 2020 là hoàn toàn không đạt được."
Và
cần phải bỏ đi tư duy rằng có những quan chức làm ngành gì cũng giỏi,
vì Việt Nam cần các chuyên gia kỹ trị chuyên nghiệp chứ không phải các
ông chuyên làm quan, từ ngân hàng, xây dựng sang vận tải, hàng không,
giao thông, dầu khí.
Vẫn Tony Blair nói ưu điểm của các nhà kỹ trị
là “không để tâm đến chuyện đổ lỗi cho phe này, phe kia” và sẵn sàng
“ra các quyết định trái ý nhiều người” (unpopular decisions) để đạt các
mục tiêu lớn về kinh tế, tài chính cho toàn bộ xã hội.
Ở Việt
Nam, các quan chức đóng vai chuyên gia lại hóa ra thường tư vấn cho
chính phủ đưa ra khá nhiều các quyết định trái chiều, thậm chí bất chấp
dư luận và trong điều hành thì đầy sự cố.
Nếu muốn thực sự hiện
đại hoá thì Việt Nam không có cách nào khác là sắp đặt lại tổng thể
chính sách nhân sự hoặc làm mới hoàn toàn.