Một Vài Kỷ Niệm Với Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền

Trần Đông Phong

Một Vài Kỷ Niệm Với


Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền

Vào khoảng đầu thập niên 1970, nhân một dịp ra thăm Huế, tôi được mời đến tham dự một buổi lễ điạ phương tổ chức tại Toà Đại Biểu Chính Phủ bên bờ sông Hương. Sau buổi lễ, trong phần tiếp tân, ông Tỉnh Trưởng dẫn tôi đến trước mặt Đức Cha Nguyễn Kim Điền, Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế và giới thiệu tôi với Ngài. Trước sự ngạc nhiên của ông Tỉnh Trưởng, Đức Tổng Giám Mục vồn vã nắm chặt lấy tay tôi và nói:

 
-Chào anh giáo sư. Đã hơn mười năm rồi mới được gặp lại anh!
 
Rồi ông quay sang ông Tỉnh Trưởng nói tiếp:
 
-Tôi quen với ông giáo sư này từ trước khi tôi làm Giám mục Điạ phận Cần Thơ, cách đây mười mấy năm rồi. Hôm nay nhờ ông Tỉnh Trưởng mà tôi lại được gặp lại một người bạn cũ, tôi cám ơn ông Tỉnh nhiều lắm!
 
Đại Tá Lê Văn Thân cũng cười nói với Ngài:
 
-Thưa Đức Tổng, con quen biết ông này cũng lâu rồi, bây giờ nhờ Đức Tổng mới biết ông ấy ngày xưa làm giáo sư.
 
Sau một hồi hàn huyên, Đức Cha hỏi tôi chừng nào trở về Sài Gòn và sau khi tôi thưa rằng tôi còn ở lại Huế vài ba hôm nưã thì Ngài hỏi tôi:
 
-Ngài mai anh đến thăm tôi nhé! Tôi muốn gặp riêng anh để hỏi thăm chuyện cũ hồi ở Cần Thơ. À này, anh nhớ đến ăn cơm trưa với tôi nghe!
 
 
Hồi cuối thập niên 1950, tôi dạy học tại trường Trung Học Phan Thanh Giản, một trường công lập tại Tây Đô. Tiếng là thủ đô của miền Tây nhưng Cần Thơ chỉ là một thành phố nhỏ bên dòng sông Hậu Giang, không có nhiều môn giải trí cho nên bọn chúng tôi, một nhóm độc thân đa số là luật sư, bác sĩ, kỹ sư, công chức và giáo sư  v.v. thường tụ họp với nhau ở qúan Ngọc Lợi tại sân quần vợt sau giờ làm việc để đấu láo, ăn tục nói phét và nói chuyện trên trời dưới đất...
 
Chuyện trên trời dưới đất đối với chúng tôi hồi đó, ngoài những chuyện liên quan đến văn chương, lịch sử, kinh tế, xã hội và cả những chuyện về chính trị bên Tây, bên Tàu, bên Nga, bên Mỹ và dĩ nhiên là cũng còn có nhiều chuyện xảy ra ngay trong đất nước. Đa số chúng tôi đều là những người trẻ tuổi, chẳng biết sợ trời sợ đất gì cả cho nên chẳng cần phải giữ gìn lời ăn tiếng nói, ưa thích ai thì khen người đó mà không thích ai thì chỉ trích thẳng thừng chẳng nể nang gì, mỗi người một ý kiến và do đó mà những buổi gặp gỡ hàng ngày đều vô cùng thú vị, nhất là những lần nói chuyện về tình hình đất nước.
 
Có một buổi chiều, Luật sư Nguyễn Văn Anh đưa một người bạn của anh đến chơi và giới thiệu với chúng tôi:
 
Đây là anh Điền, ở bên Tây mới về!
 
Khi được hỏi anh đang làm việc ở đâu thì anh Điền chỉ cho biết anh đang làm cho một chương trình xã hội và lao động. Anh nói với chúng tôi nưả đùa nửa thật:
 
-Sự thật thì tôi làm lao động nhưng mà nói như vậy thì chắc rằng các anh không tin đâu!
 
 Dĩ nhiên là chúng tôi không thể nào tin được chuyện đó vì một người “ở bên Tây về” thì không thể nào lại đi làm công việc lao động ở cái xứ Việt Nam vưà mới dành được độc lập cách đấy chỉ có mới hơn ba năm. Về sau nhiều lần chúng tôi hỏi Luật sư Anh về nghề nghiệp của anh Điền thì anh chàng này chỉ nói quanh nói quất rằng anh Điền đang làm công việc có liên quan đến ngành lao động. Tuy vậy bọn chúng tôi cũng không thể nào tin rằng một người từng đi du học Pháp trở về, nhất làcó vóc dáng và gương mặt trí thức như anh Điền mà lại làm nghề có liên quan đến giới lao động.
 
Sau lần đó, anh Điền trở lại tham dự vào những buổi chuyện phiếm của chúng tôi nhiều lần và được chúng tôi qúy mến vô cùng.
 
Anh Điền là người khôi ngô, cao ráo, đẹp trai, mũi cao, đôi mắt hiền hoà với nụ cười khả ái,  tuy ăn mặc giàn dị và ít nói nhưng không dấu được nét thông minh với vầng trán rộng. Anh vào trạc trên ba mươi mấy tuổi, so với chúng tôi thì anh Điền lớn hơn chúng tôi khoảng trên mười mấy tuổi, cho nên chúng tôi coi anh như là một bậc đàn anh. Nếu chúng tôi ăn to nói lớn, ăn tục nói phét thì anh Điền là người điềm đạm và ăn nói năng từ tốn, chững chạc, nếu chúng tôi thường chỉ trích những người trong chính quyền thì anh Điền thường chỉ ngồi nghe chứ ít khi phát biểu ý kiến. Có nhiều khi chúng tôi yêu cầu anh phát biểu ý kiến thì anh viện cớ là ở ngoại quốc mới về Việt Nam cho nên anh muốn nghe để học hỏi thêm về chuyện quê hương đất nước chứ không dám có ý kiến.
 
Anh Điền thường né tránh như vậy mỗi khi chúng tôi nói chuyện về chính trị, tuy nhiên khi thảo luận về những vấn đề văn hoá và xã hội thì anh cũng đóng góp nhiều ý kiến, nhất là nói về những kinh nghiệm của anh ở Pháp và Bắc Phi. Khi nghe anh nói về Bắc Phi, chúng tôi vô cùng thích thú vì đó là một vùng đất mà chúng tôi chỉ nghe nói qua sách vở, qua những bài học về điạ lý đơn sơ, về những con người mà chúng tôi không hề có cảm tình vì dưới thời thực dân Pháp, không có một người Việt Nam nào mà lại không sợ mấy ông Tây Ma-rốc, Sénégalais “rạch mặt”v.v. Anh kể cho chúng tôi nghe về sa mạc Sahara mà anh đã có nhiều dịp du hành vào vùng đó và nhất là nói về ý nghiã của danh từ “ốc đảo” (oassis) mà chúng tôi chỉ nghe nói chứ không có một khái niệm nào.
 
Tôi còn nhớ anh Điền nói với chúng tôi:
 
Các anh không thể nào hiểu được “ốc đảo” nếu mà các anh chưa vào sa mạc Sahara, chưa chịu đựng qua cái nóng cháy người của ánh mặt trời và những cơn bão cát  trong sa mạc, chưa chịu đựng qua cái khát kinh người sau một ngày ngất ngư trong sa mạc...Chỉ có sau những sự chịu đựng đó thì các anh mới hiểu được hai chữ “ốc đảo” vì ốc đảo là tất cả những cái gì con người mơ ước trong sa mạc, những cái gì trái ngược với những sự chịu đựng tột cùng đó của thể xác con người...
 
Có lẽ tôi là một trong những ngưòi lấy làm thích thú nhất về ốc đảo do anh Điền mô tả cho nên khoảng hai mươi năm sau, trong thời gian làm việc tại Bắc Phi, tôi đã lần mò đi vào sa mạc Sahara tận vùng cực nam nước Tunisie và tôi đã biết ơn anh Điền, vì nhờ anh tôi đã lãnh hội được ý nghiã của danh từ “ốc đảo” mà anh đã nói với chúng tôi ở Cần Thơ hồi trước.
 
Hồi cuối thập niên 1950, năm sáu năm sau Hiệp định Genève, đất nước đang được sống trong cảnh thanh bình thịnh trị và về chính trị thì người dân nói chung và giới trí thức nói riêng đều được hưởng một cuộc sống tự do và cởi mở rất nhiều so với thời đất nước còn bị người Pháp cai trị. Chúng tôi biết ơn nền Đệ Nhất Cộng Hoà, tuy nhiên không vì thế mà nhắm mắt ca ngợi chế độ vì chế độ này vẫn còn non trẻ và do đó vẫn còn có rất nhiều sai lầm cũng như là khuyết điểm. Những bậc lão thành thì dù có bất mãn họ cũng không nói ra một cách công khai, tuy nhiên là những người còn trẻ tuổi, mới ngoài đôi mươi, chúng tôi chẳng cần giữ gìn, chẳng cần ý tứ dè dặt gì cả, hễ nghe hay thấy “chuyện bất bình thì chẳng tha.” Chẳng tha đây là chẳng tha chỉ trích những sai lầm của chế độ còn có ai nghe hay không thì chuyện đó đối với chúng tôi cũng chẳng có gì quan trọng. Chúng tôi chỉ trích từ “ông Cậu” tức là ông Ngô Đình Cẩn ở miền Trung, chỉ trích “bà Cố” tức là bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu ở Sài Gòn và đặc biệt là chỉ trích “Đức Cha” tức là Giám Mục Ngô Đình Thục, Giám mục điạ phận Vĩnh Long, chỉ cách Cần Thơ có một dòng sông Hậu Giang.
 
Ông Cậu thì ở tận ngoài Huế nên chúng tôi ít nói về ông, tuy nhiên Bà Cố thì ngoài những chuyện đồn đại ở Sài Gòn liên quan đến bộ Luật Gia Đình, mà chúng tôi không chống đối, bà lại bị chúng tôi chỉ trích về việc ông Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống và Bà Đệ Nhất Phu Nhân lại không cho con cái đi học trường của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà mà tất cả đều đi học trường ... Tây, và tệ hơn nưã, ông bà cùng con cái luôn luôn chỉ nói tiếng ...Tây với nhau trong gia đình.
 
Riêng về Đức Cha thì tôi là người thường chỉ trích ông nhiều nhất vì chuyện ông chỉ là một vị giám mục mà gần như hầu hết các nhân vật cao cấp trong chính quyền hồi đó đều phải về Vĩnh Long “triều kiến” ông, còn đối với những cấp chỉ huy hành chánh cũng như là quân sự ở miền Tây thì khỏi nói, người ta đồn rằng nếu người nào làm điều gì ông không hài lòng thì thế nào cũng bị mất chức. Về chuyện này, tôi còn nhớ trong giới trí thức hồi đó, người ta đã sưả một câu vè nổi tiếng lại như sau: “Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế ...Vĩnh Long!”
 
 Dạo ấy, ông có làm một cái lễ kỷ niệm gì đó, hình như là kỷ niệm mấy chục năm làm giám mục điạ phận Vĩnh Long chứ chưa phải là lễ Ngân Khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong giám mục vào năm 1963. Cái việc làm lễ kỷ niệm đó chỉ là chuyện riêng của ông, gia đình của ông và giáo dân của ông, vậy mà Bộ Giáo Dục lại ra lệnh trừ một ngày lương của tất cả giáo sư, giáo viên và công chức trên toàn quốc để đóng góp vào ngân qũy làm lễ này. Sở dĩ tôi bất mãn như vậy không phải là bị trừ đi một ngày lương mà vì vấn đề nguyên tắc: Đức Cha Ngô Đình Thục tuy là anh ruột của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhưng có ăn nhằm gì đến đám giáo sư và giáo viên trên toàn quốc mà ông Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Trần Hữu Thế, một đàn em thân tín của Đức Cha Thục, lại bắt chúng tôi phải góp tiền để làm lễ kỷ niệm cho ông Giám Mục? Ông lấy tư cách gì mà ra lệnh cho ông Bộ Trưởng Giáo Dục ký chỉ thị trừ một ngày lương của tất cả nhân viên trong bộ trên toàn quốc? Chuyện này ông Tổng Thống có biết hay không và nếu ông Tổng Thống có biết mà không ra lệnh ngưng việc đó hay khiển trách ông Bộ Trưởng thì đó là một sự vi phạm nghiêm trọng đến nguyên tắc “séparation de l’état et de l’église” (phân quyền giưã nhà nước và giáo hội), một nguyên tắc mà giới trí thức trẻ chúng tôi nhiệt thành ủng hộ.
 
Những lần như vậy thì anh Điền chỉ lẳng lặng ngồi nghe, không hề bày tỏ một ý kiến gì tuy nhiên khi nhìn vào khuôn mặt anh, tôi thấy anh không dấu được nét đăm chiêu trong ánh mắt. Tuy không biết rõ anh làm nghề gì nhưng chúng tôi, và riêng tôi, bao giờ cũng bày tỏ sự kính mến đối với con người lớn tuổi đầy kinh nghiệm, hiểu nhiều biết rộng nhưng lại vô cùng khiêm tốn này và tất cả chúng tôi ai ai cũng đều dành cho anh Điền sự kính trọng và cảm tình vô cùng nồng hậu. Có nhiều khi năm ba ngày không thấy anh ghé đến chơi, chúng tôi hỏi Luật sư Anh thì anh chàng này cho biết rằng anh Điền ở tận trong Bình Thủy, cách thành phố Cần Thơ lối chừng chưa đến mười cây số, do đó chỉ khi nào anh Điền nhắn thì anh ấy mới vô Bình Thủy đón  anh ra Cần Thơ chơi.
 
Đến khoảng cuối năm 1960 thì anh Điền gần như không đến gặp chúng tôi nưã và sau cuộc đảo chánh bất thành ngày 11 tháng 11 năm 1960 thì chúng tôi cũng trở nên dè dặt trong lời ăn tiếng nói hơn trước. Riêng tôi thì lại càng dè dặt hơn sau khi bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung “hỏi thăm sức khoẻ,” do đó những buổi nói chuyện trên trời dưới đất của bọn chúng tôi lại quay sang đề tài vô thưởng vô phạt, chẳng hạn như là nói về ... chuyện chưởng.
 
Chúng tôi gần như quên anh Điền thì vào khoảng tháng 3 năm 1961, nhà trường chỉ thị cho một số giáo sư, trong đó có tôi, phải đến tham dự buổi thánh lễ do vị tân Giám Mục Điạ phận Cần Thơ làm chủ tế lần đầu tiên sau khi được thụ phong tại Sài Gòn cách đó chừng hơn một tháng.
 
Tôi không phải là người theo Thiên Chúa giáo, lại không thiùch lễ ở nhà thờ vì hồi mới vào trung học, tôi sống nội trú trong một trường Thánh La Salle và ngày nào cũng phải dậy sớm để dự thánh lễ từ năm giờ sáng. Do đó khi đến dự lễ tại nhà thờ chánh toà Cần Thơ thì tôi tìm cách đứng sau tận cùng nhà thờ, thỉnh thoảng lại còn lén ra ngoài hút thuốc lá, do đó cũng không để ý gì nhiều đến vị tân giám mục. Tuy nhiên khi vị chủ tế đưa thánh giá lên và nghe tiếng chuông leng keng thì tôi thật mừng vì biết rằng buổi lễ sắp kết thúc, từ cuối nhà thờ, tôi nhìn lên phiá bàn thờ và ngạc nhiên khi thấy vị tân giám mục trông có vài nét quen thuộc, tuy nhiên sau buổi lễ, tôi ra về nhưng cũng không còn để ý gì đến chuyện đó nưã vì tôi không hề quen biết với một vị linh mục hay giám mục nào trong vùng Hậu Giang này cả.
 
Ít lâu sau đó, một vài người trong đó có tôi nhận được thư mời của Giám Mục Nguyễn Kim Điền đến dự một bưã cơm thân mật tại Toà Giám Mục. Tôi rất ngạc nhiên vì tôi không hề quen biết với ông tân giám mục này, khi tôi hỏi Luật sư Anh thì hắn ta chỉ cười cười nói với tôi rằng: “Thì lát nưã toa gặp ông ấy rồi sẽ biết!” Tuy hắn nói như vậy nhưng tôi bỗng chợt nghĩ ra: “Không lẽ ông tân giám mục lại là... anh Điền?”
 
Khi Giám Mục Nguyễn Kim Điền ra tiếp đón chúng tôi thì tôi chưng hửng, vưà ngạc nhiên vưà thích thú vì đúng như sự tiên đoán của tôi, Đức Giám Mục chính là... anh Điền!
 
Ngay lúc đó, dù rằng có sự quen biết nhưng giưã vị tân giám mục và chúng tôi thì đã có một khoảng cách thật xa vì đối với chúng tôi thì ông không còn là anh Điền khi xưa nưã mà đã trở thành người lãnh đạo tinh thần của một tôn giáo lớn tại miền Tây. Tuy nhiên, khi gặp lại chúng tôi, Đức Cha Điền tiếp đãi chúng tôi vô cùng cởi mở và thân thiện, từ cử chỉ đến lời ăn tiếng nói, ông vẫn đối xử với chúng tôi như xưa.
 
Tôi vô cùng cảm động và nói với ông:
 
-Thưa Đức Cha, con xin thành thật xin lỗi là trong thời gian qua, chúng con không hề được biết Đức Cha là linh mục cho nên đôi khi đã có nhiều điều thất lễ đối với Đức Cha. Kính xin Đức Cha niệm tình tha thứ cho tất cả chúng con.”
 
Đức Cha cười lớn rồi nói với chúng tôi:
 
-Thưa các anh, đáng lý ra thì tôi phải mời các anh đến nói chuyện ở Qúan Ngọc Lợi như chúng ta vẫn thường nói chuyện trước kia, tuy nhiên chuyện đó bây giờ không thích hợp với điạ vị giám mục của tôi và tôi lấy làm tiếc là đã không được cùng các anh ngồi nói chuyện trong khung cảnh thân mật hơn đó.
Hôm nay tôi mời các anh đến đây, trước hết là xin ngỏ lời cám ơn các anh đã dành cho tôi thật nhiều cảm tình trước đây và nhất là cám ơn các anh đã cho tôi biết được nhiều chuyện ở ngoài đời mà với cuộc sống của một người linh mục phục vụ trong giới người lao động nghèo khó thì tôi khó mà biết được. Chính vì lẽ đó mà tôi đã căn dặn anh Luật sư Anh nhiều lần là không bao giờ cho các anh biết tôi là linh mục vì nếu các anh biết tôi là linh mục thì các anh sẽ trở nên dè dặt với tôi và những buổi nói chuyện của chúng ta sẽ mất đi phần hứng thú rất nhiều.
 
Thú thật với các anh là từ ngày ở ngoại quốc trở về Việt Nam, chưa bao giờ tôi được sống những giờ phút đầy thú vị, cả về phương diện tinh thần lẫn dân tộc vì tôi được sống giưã những người Việt Nam, được nghe thảo luận về những vấn đề của Việt Nam và nhất là được biết những người Việt Nam có lòng yêu quê hương, yêu đất nước, yêu đồng bào và yêu xã hội... của giới trẻ như các anh. Tôi rất vui mừng vì các anh cũng có cùng chí hướng như tôi, vì các anh cũng muốn cải thiện đời sống của người dân, các anh cũng muốn nâng cao dân trí, cũng muốn sưả đổi những sai lầm, những khuyết điểm trong xã hội để xây dựng một cuộc sống tươi đẹp hơn cho người dân Miền Nam nói chung và vùng Hậu Giang nói riêng.
 
Thú thật với các anh là cũng chính vì chí hướng đó mà tôi đã xin tình nguyện gia nhập Dòng Tiểu Đệ, một dòng “hèn mọn”với lý tưởng phục vụ cho dân lao động, đã sang phục vụ tại Phi Châu và khi về Việt Nam, tôi cũng đã làm những công việc lao động để phục vụ cho người dân nghèo từ Sài Gòn và sau này về Cần Thơ và được gặp các anh...
 
Tôi xin cám ơn các anh rất nhiều...”
 
Trong buổi gặp gỡ đó, Đức Cha Điền cho chúng tôi biết một vài chi tiết về cuộc đời củaNgài: vào chủng viện năm 1930, thụ phong linh mục năm 1947, sau đó làm giáo sư tại chủng viện Sài Gòn và trở thành giám đốc chủng viện vào năm 1949. Năm 1955, Đức Cha xin tình nguyện gia nhập Dòng Tiểu Đệ tức là dòng Little Brothers of Jesus hay là dòng Foucauld do Linh mục Charles de Foucauld khai sáng.
 
Tử Tước Vicomte Charles Eugène de Foucauld (1858-1916) là con nhà thế gia vọng tộc, tốt nghiệp trường Võ Bị Saint Cyr của Pháp vào năm 1876 rồi phục vụ trong quân đội Pháp tại Algérie. Khi còn trẻ ông sống một cuộc đời ăn chơi phóng đãng, nhưng đến năm 1882 thì ông rời khỏi quân đội sang khảo cứu tại nước Maroc (Morocco). Năm 1890, ông vào tu theo dòng Trappist (một dòng tu theo khổ hạnh) nhưng 7 năm sau thì bỏ dòng tu này, sang Algérie sống như một nhà ẩn sĩ tại vùng Tamanghasset thuộc miền Nam nước Algérie, trong vùng sa mạc Sahara. Ông được thụ phong linh mục vào năm 1901, lúc bấy giờ đã 43 tuổi. Charles de Foucauld xem tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chủng tộc và giai cấp đều là anh em (brothers), chị em (sisters). Foucauld đưa ra những tư tưởng căn bản để thành lập một dòng tu mới nhằm mục đích phục vụ cho người nghèo khổ, tuy nhiên ước vọng này của ông bất thành vì vào năm 1916 thì ông lại bị người Ả Rập Hồi giáo giết chết.
 
Tư tưởng của ông về sau được Louis Massignon thu thập lại và in thành cuốn sách “Directory” và đến năm 1933 thì một dòng tu mới dựa vào đường lối và tư tưởng của Linh Mục Foucauld được 5 vị chủng sinh thành lập tại Giáo đường Thánh Tâm (Sacre-Coeurs) ở Montmartre, Paris. Dòng tu mới này mang tên là Little Brothers of Jesus (Tiểu Đệ) dành cho phái nam và Little Sisters of Jesus (Tiểu Muội) dành cho phái nữ, tuy nhiên nhiều người đã gọi là Dòng Foucauld.
 
Ba quy luật căn bản của dòng tu này là sự nghèo khổ (poverty), sự thanh khiết (chastity) và sự vâng lời (obedience) màø tất cả mọi người gia nhập dòng này đều phải tuyệt đối tuân phục.
 
Gần một thế kỷ sau khi ông bị người Ả Rập giết chết, Linh mục Charles de Foucauld đã được Toà Thánh Vatican xem như là một vị tử đạo và ông đã được Đức Giáo Hoàng Benedict XVI phong thánh vào ngày 13 tháng 11 năm 2005.
  
Đức Cha Nguyễn Kim Điền đã là một linh mục từ năm 1947 nhưng đến năm 1955 thì ông lại xin gia nhập vào Dòng Tiểu Đệ. Ông đã sang tu học tại Bắc Phi, sống tập thể cùng với các tu sĩ dòng Tiểu Đệ ở El-Abiodh và Saint Maximin ở Algérie và phục vụ cho những người nghèo khổ trong vùng sa mạc Sahara ở phiá nam nước Algérie. Tháng 11 năm 1956, ông đã nhận áo dòng Tiểu Đệ trước mặt Đức Cha De Provenchère, Linh mục Voillaume và một số các Soeurs dòng Tiểu Muội.
 
Đến năm 1957, ông trở về Việt Nam phục vụ cho người nghèo với nghề lao động chân tay như đạp xích lô, thợ mộc, thợ hồ v.v. tại Sài Gòn, Lâm Đồng và cuối cùng về Cần Thơ sống tại Bình Thủy. Cuối tháng 11 năm 1960, ông được Toà Thánh Vatican bổ nhiệm làm Giám Mục Điạ Phận Cần Thơ dù rằng ông đã cố gắng từ chối vinh dự này, chỉ muốn được ở lại làm một người “Tiểu Đệ” mà thôi. Trong bút ký ghi ngày 8 tháng 12 năm 1960, Linh mục Nguyễn Kim Điền viết như sau:
 
Chân thành mà nói, tôi khổ tâm mà không thể hiểu nổi. Đại diện Toà Thánh nói rằng tôi không có thể khước từ. Tôi xin chấp nhận sứ mệnh này như lời mời đón nhận Thánh Giá...”
 
Giám mục Phi-lip-phê Nguyễn Kim Điền là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Dòng Tiểu Đệ và ông cũng là vị linh mục đầu tiên của dòng này trên toàn thế giới đã được thụ phong giám mục và sau đó là tổng giám mục.                        
 
Sau lần đó, lâu lâu Đức Cha lại cho mời tôi đến Toà Giám mục nói chuyện. Có lần tôi hỏi Ngài:
 
-Thưa Đức Cha, tại sao đang là một vị linh mục, làm giáo sư và giám đốc một đại chủng viện lớn ở Sài Gòn mà Đức Cha lại bỏ tất cả để tình nguyện gia nhập một dòng tu khổ hạnh tương đối là mới mẻ, ở mãi tận bên Phi Châu và Việt Nam rất ít người biết đến?
 
Ngài nhìn tôi mỉm cười rồi trả lời:
 
-Tôi có hoài bão được phục vụ cho Thiên Chúa nhưng mà cũng có tâm nguyện được phục vụ cho những người nghèo khổ và được chia xẻ với họ những sự khốn khó trên đời. Khi đọc được những tư tưởng của Cha de Foucauld thì tôi nhận chân ra rằng đây là con đường mà Thiên Chúa đã chọn cho tôi, do đó mà tôi đã tình nguyện sang Phi Châu để gia nhập dòng Tiểu Đệ. Tôi muốn phục vụ cho người nghèo khổ...
 
Rồi Đức Cha hỏi lại tôi:
 
-Anh không phải là người miền Nam, tại sao anh lại về dạy học ở tận xứ Cần Thơ này?
 
Tôi trả lời:
 
-Thưa Đức Cha, do một sự tình cờ mà vào mùa Xuân năm 1953, con theo một người bạn về thăm Tây Đô và do đó mà rất có cảm tình với miền Tây. Khi đi dạy học, con nghĩ rằng trước đó, cả miền Tây tức là toàn  miền Hậu Giang chỉ có mỗi một trường trung học mà thôi và như vậy thì  những người trẻ tuổi ở vùng này cần đến giáo sư nhiều hơn  là những nơi khác.
 
Con nghĩ rằng sau mười năm chiến tranh, người nông dân có nhu cầu phải cho con cái của họ có được một nền học vấn mà họ chưa hề được hưởng, con nghĩ rằng một trong những con đường giúp cho người dân thoát được cảnh nghèo đói là học vấn, có học thì mới được mở mang trí tuệ để tìm cho cá nhân của họ và giúp cho đồng bào của họ có được một cuộc sống tốt đẹp hơn về vật chất, về kinh tế, về xã hội cũng như là tinh thần...Do đó mà con đã chọn nơi này với ý nguyện giúp cho những người trẻ tuổi xuất thân từ những gia đình nông dân chân lấm tay bùn...
 
Đức Cha nhìn tôi rồi nói với một giọng đầy cảm tình:
 
-Tôi cũng nhận thấy điều đó qua những lời phát biểu của anh trong thời gian được gần gũi các anh và do đó mà tôi rất có cảm tình với anh. Tôi thấy rằng dù không cùng đi theo một con đường nhưng chúng ta đều cũng có cùng chung một mục đích, đó là phục vụ cho những người nghèo khổ, phục vụ cho những người thiếu học vấn, phục vụ cho những ngưòi kém may mắn...
 
Lần sau cùng tôi được gặp Đức Cha là lần tôi đến thăm để từ biệt Ngài trước khi lên đường nhập ngũ. Lúc đó vào khoảng năm 1963, vụ Phật giáo vưà bùng nổ tại miền Trung và đang lan ra tại Sài Gòn, tuy nhiên tại miền Tây thì vẫn còn yên tĩnh. Đức Cha hỏi ý kiến tôi về vụ này thì tôi thưa rằng tôn giáo là một lãnh vực mà chính quyền bất cứ tại quốc gia nào cũng đều không nên xâm phạm đến vì trong lãnh vực tôn giáo, chính quyền bao giời cũng sẽ gặp nhiều điều bất lợi hơn là có lợi.
 
Đức Cha hỏi tôi:
 
-Anh có nghĩ rằng trong cương vị một giám mục cai qủan điạ phận Cần Thơ, tôi đã có hành động nào chống lại hoặc làm mất cảm tình với bên Phật giáo hay không?
 
Tôi trả lời:
 
-Thưa Đức Cha, với người khác thì con không rõ, tuy nhiên đối với con, một người đã từng từ bỏ chức vụ giám đốc chủng viện tại Sài Gòn để  tình nguyện sang Phi Châu xin gia nhập vào Dòng Tiểu Đệ như Đức Cha thì không thể nào lại có tư tưởng kỳ thị tôn giáo cả..
 
Hơn nưã trong mấy năm nay, Đức Cha chỉ biết đóng vai trò của một vị chủ chiên tại miền Hậu Giang, Đức Cha tránh không hề giao thiệp với chính quyền từ trung ương đến điạ phương, Đức Cha luôn luôn hoà đồng với các tôn giáo khác do đó đã chiếm được cảm tình của mọi người, mọi tôn giáo ở vùng này. Miền Tây là điạ bàn của Phật Giáo Hoà Hảo nhưng con không nghe họ chỉ trích gì về Đức Cha, trái lại là đằng khác.
 
Đức Cha nhìn tôi mỉm cười, ông không nói gì tuy nhiên tôi cũng nhìn thấy trên gương mặt của ông thoáng hiện vẻ ưu tư. Khi tôi xin kiếu từ, Đức Cha ân cần dặn dò tôi:
 
-Sau này khi nào có dịp thì anh phải nhớ đến thăm tôi nghe!
 
Tôi vào quân đội rồi sau cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, Đức Cha cũng rời Cần Thơ ra Huế nhận chức Giám Qủan Tổng Giáo Phận Huế thay cho Tổng Giám mục Ngô Đình Thục. Huế thuộc Vùng I Chiến Thuật nhưng trong suốt thời gian tại ngũ, tôi chưa hề có dịp được phục vụ tại Vùng I, do đó chưa từng có dịp gặp lại Đức Cha Điền cho đến ngày hôm đó.
 
 
Ngày hôm sau, y như lời hẹn, tôi đến Toà Tổng Giám Mục Huế thăm Đức Cha Nguyễn Kim Điền. Ngài đón tiếp tôi với một sự chân tình, với sự thân mật mà Ngài đã dành cho tôi như trên mười năm về trước. Ngài trách tôi đã không tìm đến thăm Ngài thì tôi viện cớ rằng tôi ít có dịp ra miền Trung, vả lại mỗi lần ra Huế, tôi chỉ ở lại có vài ngày và không dám đến thăm vì sợ làm phiền Đức Cha. Ông nhìn tôi rồi nghiêm mặt nói:
 
-Này ông giáo sư! Đối với ông thì bao giờ tôi cũng là Anh Điền ở Cần Thơ như ngày xưa. Đừng có bao giờ nghĩ như vậy vì bao giờ tôi cũng nhớ đến Cần Thơ, bao giờ tôi cũng nhớ đến các anh, bao giờ tôi cũng muốn gặp lại các anh...
 
Đức Cha hỏi tôi về cuộc đời của tôi trong quân đội thì tôi thưa với Ngài rằng tôi được giải ngũ vào năm 1967 rồi lại bị tái ngũ sau Tết Mậu Thân và hiện giờ đang phục vụ tại một cơ quan ở Sài Gòn. Ông hỏi thăm tôi về Cần Thơ, về những người bạn cũ của tôi thì tôi thưa rằng từ ngày đi lính tôi cũng ít có dịp trở về Tây Đô và cũng ít có dịp gặp lại những người bạn cũ, chỉ nghe nói mà thôi. Ông hỏi về những người ông còn nhớ như Luật sư Nguyễn Văn Anh thì tôi cho biết Luật sư Anh lúc đó đang làm đại sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Thụy Sĩ, ông hỏi về anh Đàm Quang Đôn thì tôi cho biết anh Đôn đắc cử vào Quốc Hội Lập Hiến và hiện đang hành nghề luật sư ở Cần Thơ, ông hỏi về Bác sĩ Ngô Văn Hiếu thì tôi cho biết Bác Sĩ Hiếu cũng đã đắc cử vào Quốc Hội...
 
Đột nhiên Đức Cha hỏi tôi:
 
-Hôm qua sau khi anh đi rồi thì tôi gặp Ôn Thích Mật Nguyện và được Ôn cho biết anh là Phật tử và là đệ tử của một vị cao tăng ở Huế. Vậy mà lâu nay anh không hề cho tôi biết anh là Phật tử cả.
 
Tôi thưa với Đức Cha:
 
-Thưa Đức Tổng, mẹ con là một Phật tử vì khi còn trẻ, bà tình nguyện đến hầu hạ săn sóc cho Cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự, kế cạnh chùa Từ Đàm, do đó bà có dịp được quen biết với nhiều vị tăng ni lui tới viếng thăm, đàm luận với Cụ Phan. Sau này mẹ con xin quy y và cả gia đình đã được một vị hoà thượng bạn của Cụ Phan đỡ đầu. Tuy cả gia đình theo đạo Phật nhưng riêng con thì chỉ là loại non-pratiquant mà thôi. Vì con trưởng thành tại miền Nam cho nên có quan niệm rất cởi mở, bạn bè của con có người theo Công Giáo, có người theo Phật giáo, có người theo Tin Lành, có người theo Cao Đài và cũng có người theo Hoà Hảo v.v., tuy nhiên chúng con không bao giời phê bình hay thảo luận về bất cứ một tôn giáo nào.
 
Rồi Đức Cha quay sang chuyện khác:
 
 -À, hôm qua Ôn Mật Nguyện cũng còn cho tôi biết chính anh là người đã khuyên Đại Tá S. không nên ra làm tỉnh trưởng Thưà Thiên. Tôi nghe nói ông S. là người rất tốt, ngoài này cả hai bên Phật giáo và Công giáo đều rất có cảm tình, nhất là phiá bên Công giáo, tại sao anh lại khuyên ông ta như vậy?
 
Tôi cười khổ, phân trần:
 
-Thưa Đức Tổng, chuyện ông Đại Tá S. từ chối không nhận ra Huế làm tỉnh trưởng là quyết định của ông ấy chứ con có trách nhiệm gì đâu? Sự thật thì khi nghe tin sẽ được chỉ định làm tỉnh trưởng, ông ấy có hỏi ý kiến con và con đã phân tách những yếu tố lợi và hại để ông ấy quyết định: tuy ông là người Công giáo nhưng ông nội của ông là Phật tử, lại là bạn rất thân với Hoà Thượng Thích Đôn Hậu, do đó mà bên Phật giáo rất có cảm tình với ông; người ông thay thế là Đại Tá Lê Văn Thân, một sĩ quan theo Thiên Chúa giáo và là người miền Bắc nhưng lại vô cùng khôn khéo cho nên rất được lòng bên Phật giáo và giới sinh viên trẻ; vợ  của Đại Tá S. lại có liên hệ họ hàng rất gần với gia đình cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nhất là yếu tố khi Đại Tá S. từ Hoa Kỳ trở về Việt Nam vào cuối tháng 10 năm 1963, ông ra Huế thăm gia đình đúng vào lúc cuộc đảo chánh xẩy ra, chính ông là người đã đưa ông Ngô Đình Cẩn từ Phủ Cam đến Dòng Chúa Cứu Thế để tỵ nạn...
 
  Sau khi đưa ra những yếu tố đó, con có nói với Đại Tá S. rằng khi bình yên vô sự thì chẳng có sao, nhưng khi có một vài sự trục trặc nào đó, liệu sinh viên Huế có để yên cho Đại Tá S. về liên hệ của ông với gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm hay không? Liệu ông có tránh khỏi việc bị lên án là “Cần Lao ác ôn” hay không? Ngoài ra, Huế là điạ bàn hoạt động của nhiều đảng phái chính trị, liệu ông có đủ khả năng và kinh nghiệm để làm vưà lòng tất cả các đảng phái đó hay không?
 
 Về phương diện binh nghiệp, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tốt nghiệp khoá 1 trường Sĩ Quan Huế, Đại Tá S. tốt nghiệp khoá 2; khi Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu làm Chỉ Huy Trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt thì Thiếu  Tá S. làm Chỉ Huy Phó; khi sang Hoa Kỳ thay thế cho Trung Tá Cao Văn Viên làm Tùy Viên Quân Lực thì ông S. cũng đã mang cấp bậc Trung Tá, bây giờ ông Cao Văn Viên làm Đại Tướng còn ông S. thì chỉ mới có Đại Tá, như vậy thì đi giữ chức vụ tỉnh trưởng có lợi gì hay không cho cuộc đời binh nghiệp, nhất là ông biết rất rõ rằng ông sẽ không bao giờ được cử vào chức vụ tư lệnh sư đoàn để lên tướng?
 
 Thưa Đức Tổng, sự thật thì con chỉ có đưa ra những yếu tố như vậy và từ chối không đi làm tỉnh trưởng là quyết định của Đại Tá S. Cách đây hai hôm, con có được Ôn Thích Mật Nguyện kêu lên chùa để hỏi về chuyện này và bị Ôn la cho một trận. Ôn nói rằng con là người Phật giáo mà lại đi “hại” Phật giáo vì đã khuyên Đại Tá S. không nên đi làm tỉnh trưởng Huế. Con cũng đã giải thích mọi sự như vậy cho Ôn nghe và sau đó thì Ôn đã thông cảm rồi.
 
Bây giờ Đức Tổng lại hỏi thì con cũng xin trình bày như vậy, quyết định từ chối không đi làm tỉnh trưởng hoàn toàn là do Đại Tá S. quyết định.
 
Đức Cha suy nghĩ một hồi rồi nói với tôi:
 
-Thật ra thì ở ngoài này ai nấy cũng đều rầt mừng khi nghe tin Đại Tá S. được đề cử thay thế Đại tá Thân làm tỉnh trưởng vì ông S. là người nổi tiếng là đạo đức và trong sạch, do đó khi nghe tin ông từ chối thì ai cũng thất vọng cả. Bây giờ nghe anh nói thì tôi mới biết có những nguyên nhân bên trong như vậy và tôi cũng thông cảm với ông Đại tá S. vì quyết định như vậy thật là sáng suốt.
 
(Sau khi từ chối không nhận chức tỉnh trưởng Thưà Thiên, Đại Tá S. được bổ nhiệm làm Tùy Viên Quân Lực tại London và hiện nay đang làm Thầy Sáu tức là Phó Tế tại London, Anh Quốc.)
 
Sau một hồi chuyện vãn, bỗng Đức Cha quay sang hỏi tôi về một vấn đề khác:
 
-Anh ở Sài Gòn chắc là biết nhiều về tình hình chính trị. Ở đây rất gần giới tuyến, điều người dân ở đây lo ngại nhất là liệu Cộng sản có xua quân tấn công vào miền Nam qua vỹ tuyến 17 hay không?
 
Tôi thưa với Ngài rằng hiện nay cả bốn phe Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hoà, Cộng sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng miền Nam đang tham gia hoà đàm tại Paris. Cộng sản nắm được một lợi điểm chiến lược, đó là ai cũng biết Hoa Kỳ đã quyết định rút quân từ năm 1969 và quân số Hoa Kỳ tại miền Nam càng ngày càng giảm, họ đang giao hết gánh nặng chiến tranh cho Việt Nam qua chương trình Việt Nam hoá chiến tranh. Chỉ trong vòng hai năm, Nixon đã rút từ trên nưả triệu quân xuống còn có khoảng 150,000 và như vậy thì Cộng sản Bắc Việt đã thấy rõ là Hoa Kỳ đang thay đổi chính sách, từ đương đầu trực tiếp trên chiến trường với Cộng sản, họ đã để cho VNCH thay thế vai trò đó và họ chỉ còn chú trọng đến giải pháp thương thuyết tại Paris mà thôi, điều đó có nghiã là rất có thể các lực lượng Hoa Kỳ sẽ không can thiệp nếu Cộng sản mở các cuộc tấn công tại miền Nam.
 
Nếu Cộng sản tin tưởng vào sự tính toán đó thì rất có thể họ sẽ mở một cuộc tấn công đại quy mô qua vỹ tuyến thứ 17 và trong trường hợp đó, nếu không có sự can thiệp của Hoa Kỳ thì lực lượng Việt Nam Cộng Hoà tại vùng giới tuyến khó mà đương đầu nổi vơiù sự tấn công của Cộng sản.
 
Đức Cha Điền hỏi tôi rằng nếu giả thử Cộng sản chiếm được Huế thì họ sẽ đối xử với người Công giáo, với những người lãnh đạo Công giáo như thế nào? Tôi trả lời rằng đối với Cộng sản thì tất cả mọi tổ chức tôn giáo tại miền Nam, bất cứ là Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài hay Hoà Hảo, tất cả đều bị họ xem như là những thành phần thù nghịch và phản động, họ sẽ tìm mọi biện pháp để kiểm soát rất gắt gao. Bản chất của chủ nghiã Cộng sản là không chấp nhận tín ngưỡng cho nên họ sẽ tìm cách tiêu diệt mọi tín ngưỡng và nếu chưa làm được thì họ để cho những tổ chức ngoại vi như là Mặt Trận Tổ Quốc cũng như là đưa cán bộ vào để nắm quyền kiểm soát những tín ngưỡng này và đồng thời họ cũng sẽ tìm cách thanh toán những nhà lãnh đạo tôn giáo có uy tín
 
Riêng đối với Thiên Chúa giáo La Mã thì Cộng sản đã có nhiều kinh nghiệm tại các nước Đông Âu sau Đệ Nhị Thế chiến: lúc ban đầu, họ đàn áp Thiên Chúa giáo, nhất là các vị lãnh đạo nhưng sau một thời gian thì họ không đối đầu với cá nhân các vị giám mục và linh mục nưã mà nói chuyện trực tiếp với Vatican. Tôi nêu ra với Đức Cha trường hợp hai vị hồng y: Hồng Y Stephan Wyszynski, Tổng Giám Mục Varsovie, Ba Lan bị Cộng sản bắt giam từ năm 1953 đến năm 1956 và Hồng Y Joseph Mindszenty, Tổng Giám Mục Giáo Hội Hung Gia Lợi (Archbishop of Esztergom) đã bị Cộng sản bắt giam vào năm 1948 và bị đưa ra toà về những tội như phản quốc, âm mưu chống nhà nước Hung Gia Lợi. Trong phiên toà này, Hồng Y Mindszenty đã tuyên bố hoàn toàn phủ nhận tội trạng và yêu cầu giáo dân không nên tin vào những lời khai trong bản cáo trạng vì những lời khai này đã bị công an mật vụ Cộng sản ép buộc phải ký trong những cuộc tra tấn dã man. Sau cuộc Cách mạng tháng 10 năm 1956, nghe theo lời khuyên của Thủ Tướng Imre Nagy, trước khi ông bị mật vụ Liên Xô xử tử, Đức Hồng Y Mindszenty xin vào tỵ nạn trong toà đại sứ Hoa Kỳ ở Budapest trong 15 năm trời. (Đến năm 1971, Đức Hồng Y mới được chính phủ Cộng sản Hung cho phép sang sống tại Vienna, thủ đô nước Áo.)
 
 Đó là chính sách của Cộng sản đối với Giáo Hội Công Giáo thời Stalin và sau này thì có phần cởi mở hơn, tuy nhiên không rõ những người Cộng sản Việt Nam sẽ theo chiều hướng nào.
 
Đức Cha ngạc nhiên hỏi tôi: “Sao anh không phải là người Công Giáo mà lại biết nhiều như vậy về hai vị hồng y này?” Tôi thưa với Đức Cha rằng tôi đang làm công việc về nghiên cứu cho nên mới được biết một vài chuyện ở bên Đông Âu như vậy.
 
Đức Cha Điền lặng lẽ nhìn tôi rồi nói bằng một giọng kiên quyết:
 
-Là người được Đức Thánh Cha trao cho nhiệm vụ Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế, trong trường hợp Cộng sản chiếm được thành phố này thì tôi sẽ ở lại với giáo dân vì tôi là “người chủ chăn” của họ. Một trong ba châm ngôn của Dòng Tiểu Đệ là Vâng Lời và tôi sẽ vâng theo những lời dạy của Toà Thánh, đó là phải sống bên cạnh giáo dân để hướng dẫn giáo dân trong những cơn nguy biến.
 
Trong bưã cơm trưa thân mật sau hơn mười năm cách biệt, Đức Cha đã dành cho tôi sự ưu ái và cảm tình như thưở nào ở Cần Thơ và khi từ biệt Ngài bắt tôi phải cho Ngài điạ chỉ cùng số điện thoại để Ngài liên lạc mỗi khi vào Sài Gòn. Ngài cũng bắt tôi phải hưá là khi nào có dịp ra Huế thì phải đến thăm Ngài.
 
Vào khoảng năm 1974, một hôm tôi nhận được điện thoại của Ngài mời tôi ngày hôm sau đến gặp Ngài ở Toà Tổng Giám Mục Sài Gòn trên đường Phan Đình Phùng. Sau khi chào hỏi, thấy tôi cứ nhìn Ngài chăm chú, Đức Cha bèn hỏi tôi:
 
-Tôi có gì lạ mà anh cứ nhìn chăm chú như vậy?
 
Tôi thưa với Ngài:
 
-Thưa Đức Tổng, con muốn xem Đức Tổng “đỏ” cở nào?
 
Ngài cười lớn hỏi lại tôi:
 
-À! Vậy là anh cũng có nghe mấy ông nhà báo ở bên Rô-ma gọi tôi là vị “Giám mục Đỏ” phải không?
 
Năm đó Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền sang La Mã tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới và khi được một số ký giả ngoại quốc hỏi rằng “Có dư luận nói rằng Cộng sản Bắc Việt sẽ chiếm trọn miền Nam, Ngài nghĩ sao về Cộng sản Việt Nam?” thì Ngài trả lời rằng: “Là giám mục Công giáo, tôi không bao giờ chấp nhận chủ nghiã Cộng sản, nhưng người Cộng sản Việt Nam cũng là người anh em của tôi.” Vì trả lời như vậy cho nên có một số ký giả ở Rô-ma đã gọi Ngài là “Vị Tổng Giám mục Đỏ.”
 
Tôi không nhớ báo chí Sài Gòn có đăng tin đó hay không nhưng tôi có được đọc tin đó do hãng thông tấn Reuters đăng trên télétype (viễn ấn) cho nên được biết chuyện này.
 
Đức Cha Điền hỏi tôi:
 
-Anh nghĩ sao khi tôi nói rằng “...người Cộng sản Việt Nam cũng là anh em của tôi”?
 
Tôi trả lời:
 
-Thưa Đức Tổng, người dân miền Nam chúng ta tuy chống lại Cộng sản nhưng chúng ta vẫn xem những người miền Bắc, kể cả những người Cộng sản, đều là người Việt Nam, tức là đều là anh em với nhau cả. Đức Tổng nói như vậy thì chẳng có gì là không đúng.
 
Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ người Cộng sản miền Bắc có xem người miền Nam chúng ta, nhất là những người Công giáo miền Nam, là anh em của họ hay không? Vào năm 1946, gần một năm sau khi Cộng sản Việt Minh giết nhà cách mạng Tạ Thu Thâu tại Qủang Ngãi, khi bị những người trí thức Pháp và Việt Nam chất vấn tại Paris về việc Tạ Thu Thâu bị thủ tiêu thì ông Hồ Chí Minh đã trả lời như thế này:
 
 “Tạ Thu Thâu là một người yêu nước, tôi đã khóc về cái chết của ông ta. Tuy nhiên, tất cả những ai không đi theo đường lối do chúng tôi đã hoạch định thì chúng tôi cần phải tiêu diệt.”
 
Vậy thì đối với người Cộng sản, họ không có anh em với những người không đứng chung một hàng ngũ với họ, do đó khi Đức Tổng nói rằng “là giám mục Công giáo, tôi không chấp nhận chủ nghiã Cộng sản”tức là không theo đường lối của họ thì làm sao mà họ lại xem Đức Tổng và những tín đồ Công giáo là anh em của họ được?
 
Đức Cha Điền suy nghĩ một hồi rồi nói với tôi:
 
-Anh còn nhớ cách đây mấy năm tôi có nói với anh rằng nếu Việt Cộng chiếm thành phố Huế thì tôi sẽ ở lại với giáo dân vì sứ mạng của tôi là bảo vệ cho giáo dân, là chia xẻ mọi nổi đau thương khổ hận của họ. Toà Thánh đã ra lệnh cho các linh mục và giám mục là phải luôn luôn làm nhiệm vụ chăn dắt con chiên dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì tôi luôn luôn vâng lệnh của Toà Thánh, tôi sẽ ở lại với giáo dân, dù họ có xem tôi không phải là anh em thì tôi vẫn sẽ ở lại để thi hành nhiệm vụ và trách nhiệm do giáo hội giao phó.
 
À, nhân tiện tôi cũng cám ơn anh đã đề cập đến hai vị Hồng Y Stephan Wyszynski, Tổng Giám Mục Varsovie, và Hồng Y Joseph Mindszenty, Tổng Giám Mục Giáo Hội Hung Gia Lợi. Trong thời gian ở Rô-ma, tôi đã có cơ hội tìm hiểu về cuộc đời của hai ngài và nhờ đó đã có được một khái niệm về chính sách của Cộng sản đối với giáo hội Công Giáo tại Đông Âu.
 
Sau một hồi chuyện vãn, Đức Cha nói với tôi:
 
-Này anh giáo sư, sao anh lại dấu tôi hai chuyện: một là anh không cho tôi biết anh đang làm việc ở đâu, hai là anh không nói cho tôi biết anh là bạn của Linh Mục Raymond de Jaegher!
 
Tôi thưa với Đức Cha:
 
-Thưa Đức Tổng, về chuyện công việc thì con quan niệm rằng là một quân nhân, con không có quyền chọn lưạ, con phải phục vụ bất cứ đơn vị hay cơ quan nào mà quân đội chỉ định mà thôi. Sở dĩ con không trình với Đức Tổng nơi con làm việc là vì con biết Đức Tổng không có mấy cảm tình với ông “sếp” của con, do đó muốn giữ cho mối liên hệ với Đức Tổng thân tình và tốt đẹp mãi mãi như xưa cho nên con đã không nói, không nói vì Đức Tổng không hỏi đến chứ không phải là dấu Đức Tổng.
 
Còn chuyện Cha De Jaegher thì con không nói vì nếu tự dưng nói ra thì chẳng hoá ra rằng con khoe với Đức Tổng về sự quen biết này hay sao?
 
Đức Cha Điền nói với tôi:
 
-Tôi rất thích bản tính khiêm tốn của anh, nếu Đức Tổng Sài Gòn không nói ra thì tôi có biết gì đâu! Đức Tổng Sài Gòn nói với tôi rằng Cha De Jaegher rất thích anh và khen ngợi anh nhiều lắm. Đức Tổng Sài Gòn cũng rất có cảm tình với anh.
 
Kể ra thì cũng thật là lạ lùng, một người không phải là Công giáo như anh mà lại quen biết thân tình với cả hai vị tổng giám mục Huế và Sài Gòn cùng với một linh mục nổi tiếng người Mỹ nưã! Sao anh lại quen Cha De Jaegher?
 
Tôi thưa với Ngài:
 
-Cha Raymond de Jaegher là một nhân vật nổi tiếng, tác giả nhiều cuốn sách trong đó có hai cuốn rất nổi tiếng tại Việt Nam, đó là “Kẻ Nội Thù” (The Ennemy Within) và cuốn “Vệ Binh Đỏ” (Red Guards). Truớc năm 1963, Ngài là cố vấn về Cộng sản cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, một người nổi tiếng như vậy thì làm sao mà con có tham vọng được quen biết?
 
Nhân dịp tham dự một hội nghị ở Đài Bắc, con được giới thiệu với Cha Jaegher rồi sau đó, Việt Nam Cộng Hoà được ủy nhiệm phụ trách một nguyệt san bằng Anh ngữ mà hồi Đệ Nhất Cộng Hoà do chính Cha Jaegher làm chủ nhiệm. Con là người được chỉ định phụ trách phần bài vở của nguyệt san đó, cho nên về sau, mỗi lần Cha Jaegher sang Sài Gòn, Ngài thường trú ngụ tại Toà Tổng Giám Mục và liên lạc với con về công việc, do đó mà trở nên thân tình. Con được may mắn quen biết với Đức Tổng Sài Gòn cũng là nhờ sự giới thiệu của Cha de Jaegher.
 
Đức Cha Điền quay sang hỏi tôi về chuyện khác:
 
-Anh đến thăm tôi như thế này, nếu “ông sếp” của anh mà biết được thì anh có ngại gì không?
 
Tôi không ngần ngại trả lời:
 
-Thưa Đức Tổng, con được quen biết với Đức Tổng cả chục năm trước khi về làm việc dưới quyền “ông sếp”, bởi vậy nếu ngại thì con đã không đến và nay con đã đến thì chẳng có e ngại gì cả.
 
Vào thời gian đó có một bản tuyên ngôn chống tham nhũng do một số linh mục ký tên được phổ biến tại Sài Gòn và nhân dịp gặp Đức Tổng Giám Mục, tôi mạo muội hỏi Ngài:
 
-Nhân tiện con xin được phép hỏi Đức Tổng về một vấn đề thời sự có liên quan đến Giáo Hội Công giáo Việt Nam.
 
Con đã được đọc Bản Tuyên Ngôn Chống Tham Nhũng Và Tệ Đoan Xã Hội của Hàng Linh Mục Việt Nam công bố tại nhà thờ Tân Sa Châu ngày 18 tháng 6 năm 1974, do 301 vị linh mục ký tên. Con không thấy tên của hai Đức Tổng trên bản tuyên ngôn này, tuy nhiên nhân dịp được gặp Đức Tổng, con xin phép hỏi: Đức Tổng có được hỏi ý kiến về Bản Tuyên Ngôn này hay không?
 
Sau một hồi trầm ngâm, Đức Cha hỏi lại tôi:
 
-Anh có nghĩ rằng tôi ủng hộ Bản Tuyên ngôn này?
 
Tôi trả lời:
 
-Thưa Đức Tổng, trong bản tuyên ngôn này không có tên hai vị Tổng Giám Mục Sài Gòn và Huế, tuy nhiên theo chỗ con biết thì các vị linh mục này đã dưạ vào tinh thần của Lá Thư Chung Của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ngày 29 tháng 9 năm 1973 và Bản Tuyên Ngôn Của Hội Đồng Giám Mục ngày 10 tháng 1 năm 1974. Cả hai vị Tổng Giám Mục cùng với tất cả các vị giám mục khác đều có ký tên vào trong hai bản văn này. Như vậy thì một cách gián tiếp, các vị lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Việt Nam coi như là đã đồng ý với tinh thần của bản tuyên ngôn của 301 vị linh mục?
 
Đức Tổng hỏi lại tôi:
 
-Bây giờ tôi hỏi anh: Lá Thư Chung và Bản Tuyên Ngôn của Hội Đồng Giám Mục có mang lại ảnh hưởng nào không?
 
Tôi trả lời:
 
-Thưa Đức Tổng, cả hai bản văn này được phổ biến rất là hạn chế vì ít được báo chí đăng tãi, do đó có rất ít người biết đến, kể cả một số linh mục nổi tiếng như L.M. Hùynh Văn Nghi (sau này là giám mục) cũng không hề được biết. Tuy nhiên, có dư luận nói rằng việc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cải tổ chính phủ, thay thế bốn vị tổng trưởng cũng như là giáng cấp một số sĩ quan cao cấp trong đó có cả hai vị tướng tư lệnh Vùng 4 và Vùng 2 gần đây, một phần là do hậu qủa của hai bản bản tuyên ngôn này. Như vậy thì hai bản tuyên ngôn của Hội Đồng Giám Mục cũng đã mang lại kết qủa tốt vì cuộc cải tổ của Tổng Thống Thiệu, tuy chỉ là cải tổ nhỏ giọt, nhưng cũng được nhiều giới hoan nghênh.
 
Đức Tổng hỏi tôi:
 
-Tôi biết anh rất tôn trọng nguyên tắc “phân quyền giưã nhà nước và giáo hội” nhưng trong trường hợp hai bản tuyên ngôn này, anh có nghĩ rằng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, trong đó có tôi, đã vi phạm vào nguyên tắc này hay không?
 
Tôi thưa:
 
-Thưa Đức Tổng, ngày xưa con vẫn lớn tiếng chỉ trích Giám Mục Ngô Đình Thục vì ông đã lạm dụng vị thế quốc trưởng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm để làm những điều có lợi cho riêng cá nhân của ông.
 
Đức Tổng cũng biết người xưa thường nói “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Sau Hiệp Định Paris, tình trạng chính trị, kinh tế và nhất là quân sự càng ngày càng suy sụp tại miền Nam và do đó, tất cả mọi công dân đều phải có trách nhiệm nói lên tiếng nói của mình để chính quyền phải sưả sai những sai lầm, khuyết điểm ngõ hầu cải thiện chế độ để giữ nước và cứu nước. Con nghĩ rằng những bậc tu hành, dù thuộc bất cứ tôn giáo nào, trước hết họ cũng là công dân của nước Việt Nam Cộng Hoà và do đó họ có bổn phận phải nói lên tiếng nói của họ để cứu nước. Họ lên tiếng vì quyền lợi của đất nước, vì quyền lợi của toàn dân chứ không phải vì quyền lợi của cá nhân họ, do đó con không nghĩ rằng các vị giám mục và linh mục đã vi phạm vào nguyên tắc “phân quyền giưã nhà nước và giáo hội.”
 
Đức Tổng Giám Mục kết luận:
 
-Tôi nghĩ rằng anh cũng cùng một chí hướng với tôi và rất cám ơn anh đã thông cảm với tôi trong hoàn cảnh khó xử này: dù là Tổng Giám Mục nhưng trước hết tôi là một người công dân Việt Nam.
 
Tôi xin anh đọc lại đoạn kết lụân trong Lời Tuyên Bố trong buổi họp báo hồi tháng 6 năm 1974 để hiểu rõ hơn về lập trường của cá nhân tôi.”
 
Về sau tôi tìm đọc lại Bản Tuyên Ngôn của 301 vị linh mục ngày 18 tháng 6 năm 1974 tại Nhà Thờ Tân Sa Châu thì đoạn kết nguyên văn như sau:
 
“...Hiến pháp Việt Nam Cộng Hoà đã long trọng công nhận khi ghi vào Điều I Khoản 2 như sau: “Chủ quyền Quốc gia thuộc về toàn dân.”
 
“Mặc dầu thế, chúng tôi không muốn gây xáo trộn, bởi quốc gia đã chịu qúa nhiều xáo trộn. Chúng tôi chỉ muốn lên tiếng cảnh tỉnh vì sự sống còn của dân tộc để chính quyền kịp thời sưả sai, thay đổi hoàn toàn chính sách và nhân sự hầu tránh sụp đổ trước khi qúa muộn. Nếu không chịu sưả sai để cho đất nước này lâm vào cảnh mạt vong thì chắc chắn Quân Dân không chịu cúi đầu cam chịu làm vật hy sinh mãi mãi cho một thiểu số tham nhũng không còn biết đến Dân Tộc và Tổ Quốc là gì nưã. Khi ấy, cùng tất biến, những gì phải xẩy ra sẽ xẩy ra, ngoài ý muốn của chúng tôi, bởi lẽ như Thánh Thomas d’Aquin đã nói:
 
“Chính Quyền Đã Phản Nghịch!”
 
Sau lần đó, đến khoảng tháng 3 năm 1975, chỉ vài ngày sau khi Cộng sản tấn công Ban Mê Thuột, tôi nhận được điện thoại của Đức Tổng Giám Mục mời tôi đến gặp ông. Ngài nói với tôi:
 
-Tôi muốn gặp anh vì tôi đang tìm mọi cách trở về Huế ngay. Ai cũng biết là chẳng sớm thì muộn, Cộng sản Bắc Việt sẽ tấn công vào Vùng I và trong trường hợp đó, chính anh trước đây cũng đã nói với tôi rằng chúng ta không đủ sức giữ Huế. Tôi phải trở về Huế trước khi thành phố này bị thất thủ vì như tôi đã nói với anh trước đây, tôi muốn cho giáo dân thấy rằng giáo hội luôn luôn ở bên cạnh họ, luôn luôn bảo vệ đời sống tinh thần của họ và luôn luôn chia xẻ với họ mọi nổi thống khổ của họ...Là người chủ chăn, tôi có nhiệm vụ phải thi hành sứ mạng mà Giáo Hội giao phó cho tôi, đó là sống chết với con chiên.
 
Tôi muốn gặp anh là để từ giã một người bạn cũ đã từng quen biết nhau hơn mười mấy năm trời, người mà tôi đã dành nhiều cảm tình và sự qúy mến từ ngày còn ở Cần Thơ...
 
Tôi nhìn Đức Cha Điền, nghẹn ngào vì xúc động. Một lúc sau, tôi ngập ngừng thưa với Ngài:
 
-Thưa Đức Tổng, con muốn xin Đức Tổng ban cho con một đặc ân.
 
Ngài nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên rồi hỏi lại:
 
-Xưa nay có bao giờ anh xin tôi một ân huệ nào đâu?
 
Tôi nhìn Ngài rồi nói:
 
-Con là người ngoại đạo nhưng muốn xin Đức Tổng ban cho một ân huệ, đó là cho con được phép hôn nhẫn của Đức Tổng!
 
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền nhìn tôi thật lâu rồi đưa tay ra, tôi qùy xuống hôn lên chiếc nhẫn giám mục của Ngài lần đầu tiên trong đời. Tôi cố dằn cơn xúc động nhưng tự dưng mắt tôi rưng rưng và nghẹn ngào nói với Ngài:
 
-Thưa Đức Tổng, được Đức Tổng dành cho nhiều sự ưu ái trong bao nhiêu năm qua là một điều vô cùng vinh dự cho một người thầy giáo nhỏ bé ở xứ Cần Thơ xa xưa và con xin Đức Tổng nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của con.
 
Con chỉ biết cầu chúc cho Đức Tổng được nhiều sức khoẻ và hồng ân của Thiên Chúa để hoàn thành sứ mạng của Giáo Hội giao phó trong những ngày khó khăn sắp tới...
 
Đó là lần cuối tôi gặp Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền.


Tôi viết bài này theo lời yêu cầu của một số bạn bè và cựu học sinh của tôi ở Cần Thơ vì tất cả chúng tôi, mọi người ai ai cũng đều kính mến vị giám mục tiên khởi của giáo phận Cần Thơ, một con người mà tất cả mọi người dân Cần Thơ không phân biệt tôn giáo đều yêu mến và kính trọng.

Tôi viết bài này với những hoài niệm vô cùng trân qúy về một thời xưa cũ cách đây đúng nưả thế kỷ, tình cờ may mắn được quen biết với một người “lao động” đạp xe ba bánh, một người “lao động” làm thợ hồ ở Tây Đô rồi sau đó trở thành một vị giám mục, rồi tổng giám mục của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Ông đã sống trọn với châm ngôn của Dòng Tiểu Đệ mà ông gọi là “Dòng hèn mọn”, đó là sự nghèo khó, sự thanh khiếtsự vâng lời.

Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền đã sống trọn cuộc đời với sự nghèo khó, sống với sự thanh khiết và sống với sự vâng lời đối với Giáo Hội.

Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền đã từ giã cõi đời trong sự nghèo khó, từ giã cõi đời trong sự thanh khiết của một bậc chân tu và đã từ giã cõi đời trong sự vâng lời và đã hoàn thành sứ mạng mà Giáo Hội đã giao phó: vị Chủ Chăn phải sống chết với Con Chiên.
 
Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền đã từng tuyên bố rằng “Là giám mục Công giáo, tôi không bao giờ chấp nhận chủ nghiã Cộng sản, nhưng người Cộng sản Việt Nam cũng là người anh em của tôi,” nhưng Cộng sản Việt Nam sau năm 1975 lại không xem Ngài là anh em, họ xem Ngài là kẻ “phản động” và hậu qủa là Ngài đã bị họ đầu độc chết tại Sài Gòn vào ngày 8 tháng 6 năm 1988.

Ngài đã được Đức Giáo Hoàng John Paul II phong tặng danh hiệu “Vị Giám Mục Uy Dũng.”
 
Đối với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Đức Tổng Giám Mục Phi-lip-phê Nguyễn Kim Điền không những chỉ là một vị Giám Mục Uy Dũng mà còn là một vị Thánh Tử Đạo.
 
Đối với người Miền Nam, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền lại là một vị Anh Hùng vì với tư cách là một công dân Việt Nam, Ngài đã không kể đến sự an nguy của bản thân khi dám công khai đứng lên chống lại bạo quyền Cộng sản để đòi hỏi cho toàn thể nhân dân Miền Nam Việt Nam có được quyền Tự Do Tín Ngưỡng và Quyền Làm Người.