Việt Nam: môi trường và con người

Trần Văn Đoàn

Lời  bạt 
Việt Nam: môi trường và con người

   Vào mùa hè năm 1997, tôi may mắn được nghe Giáo sư Thái Công Tụng giảng thuyết tại Đại Học Hè (Orsonnens, Thụy Sỹ) về môi sinh và địa chất Việt Nam. Từ đó, tôi mang một ấn tượng sâu đậm về con người cũng như học thuật của Giáo sư họ Thái. Thái huynh, như tôi từng xưng hô với Giáo sư Tụng, đúng là một mẫu hình của nhà nho chân chính: 'học không biết mệt, dậy không biết chán'. Ông không bằng lòng với lối sống Tây phương 'tối sâm banh sáng sữa bò' hay kiều hưởng lạc Đông phương 'nhâm nhi chè Tầu, thưởng thức hoa lan' mà ngược lại tiếp tục cống hiến cho đất nước, cho thế hệ trẻ những tinh hoa mà ông thu thập trong bao chục năm nghiên cứu.
Như con tầm, ông không ngừng nhả ra những tinh hoa kết tụ trong cả cuộc đời học giả. Là một nhà ái quốc chân chính, ông cống hiến cả cuộc đời còn lại nơi viễn xứ cho Việt học. Cùng với các bằng hữu như Giáo Sư Lê Hữu Mục, một học giả chuyên gia về ngôn ngữ, đặc biệt chữ Nôm tại Đại Học Huế trước năm 1975, Thái huynh đã xây dựng và vun xới Vietnamologica, một tập san nghiên cứu rất nghiêm túc chuyên về Việt học.
   Việt Nam: Môi Trường và Con Người là kết tinh của bao năm nghiên cứu, suy tư, và giảng dậy, từng được công bố trên Vietnamologica. Tập sách không chỉ là một luận tập về địa lý hay điạ chất Việt Nam mà thôi. Nó còn mang tính chất lịch sử. Nó biểu tả mối liên kết mật thiết giữa ngôn ngữ và cái đất nơi ta sống, ta yêu, ta sinh, ta chết; giữa ngôn ngữ và những giọt nước ta uống, ta tắm, ta gội, ta tưới. Nó biểu hiện tâm lý người Việt, giúp ta hiểu nỗi lòng nhớ quê, tưởng hương, yêu đất, thương nước. Nó khơi động tiềm thức chung qua những địa danh như Hạ Long, Thăng Long, Vĩnh Long, Hà Tiên, vân vân, làm ta nhớ lại tổ tiên ta vốn giòng Tiên, giống Rồng. Nói một cách chung, tập sách nói về chính người Việt, cuộc sống Việt, tình cảm Việt, lịch sử Việt và tâm linh Việt; nó nói lên sự gắn bó của họ với quê cha đất tổ. Và lẽ dĩ nhiên, tập sách nói lên chính mối tình yêu mà Thái huynh dâng hiến cho đất nước Việt.
   Tại sao ta xưng hô quốc gia là đất nước, là nước non, là nước nhà? Tại sao ta gọi chính phủ là nhà nước? Tại sao xóm, làng, quê nhà, vườn, tược vẫn được thông dụng và yêu quý hơn những từ Hán như lý, trấn, huyện, viên, vân vân, mặc cho cả hơn một ngàn năm dưới ách đô hộ toàn diện của người phương Bắc? Khi đặt ra câu hỏi này, có lẽ ta đã thoáng nhìn ra sự khác biệt giữa văn hóa Việt và văn hóa Hoa. Nhưng quan trọng hơn cả, đó chính là ta nhận thấy được một sự gắn bó thân thiết không thể phân cách giữa con người Việt và cái thế giới của họ; giữa cái môi sinh và con người họ, mà không ai có thể tách biệt, mà không ai có thể phá bỏ. Như con cá không thể tách rời nước, thì con người Việt không thể tách rời khỏi không khí, khỏi đất, khỏi nước Việt. Ý thưc như vậy, người Việt đã không dùng những biểu tượng quốc, hay theo lối kết cấu xã hội của gia, nhừng dùng tiếng đất nước và nhà nước. Chính vì vậy, đối với người Việt, địa lý không chỉ mang nghĩa sự hiểu biết về trái đất hay mảnh đất nơi chúng ta đương đứng ở trên kiểu 'đầu đội trời, chân đạp đất' mà phải là cái nguyên lý của chính cuộc sống của họ. Do đó, địa lý không chỉ mang nghĩa sự học hay môn học về đất đai - chú ý là, từ geography vốn ghép từ hai từ Hy lạp geos (đất) và graphicos (vẽ hình), mang nghĩa đo đạc, đo điền, vẽ bản đồ --, mà phải là cái đạo lý của đất, của nước. Thầy 'địa lý' họ Thái (như tôi thường đùa với Thái huynh) không chỉ một ông giáo sư địa lý mà thôi. Hơn cả thế, địa lý sư phải là người biết được vận mệnh, thấy được luật tương quan giữa đất và người, đó là nhìn ra được cái đạo lý của đất. Thầy Thái Công Tụng (hơn cả thầy Tả Ao, người chỉ thấy được vận mệnh của một cá nhân) đã nhìn ra được cả sinh mệnh của những ai đương sống trên cái mảnh đất này. Ông nhận ra gì?
   Thái 'địa lý sư' nhìn ra vận mệnh của dân Việt đương đi vào cái con đường cụt. Chúng tạ đương phá vỡ một cách vô thức cái mối tình tương thân giữa đất và người, giữa nước và người. Chính chúng ta đã lạc đạo khi chấp nhận lối suy tư duy nhân, khống trị trái đất, biến nó thành một đối tượng để vị lợi. Khi mà những khu rừng bát ngát bị tàn phá chỉ vì cái mục đích nhỏ nhoi thiển cận, khi mà những dẫy đồi trùng điệp xanh biếc biến thành những ngọn đồi trọc lóc, khô cằn vàng ố chỉ vì cái con mắt vị lợi nhỏ nhặt của con người ích kỷ, khi mà những bờ biển mỹ lệ trắng ngà biến thành những bãi rác khổng lồ đầy những phế thải độc địa, thì không phải chỉ có cái mảnh đất chữ S đương hấp hối mà thôi. Không, cùng với đất, nước cũng đang chết dần chết mòn. Không, cùng với nước, không khí mà ta thở, ta hít mỗi giây mỗi lúc, đương biến thành những làn khí độc. Không, không phải chỉ có mảnh đất đương chết một cách im lặng, một cách nhẫn nhục, một cách đau sót. Chính chúng ta đương tự sát một cách vô ý thức, một cách khoái trá của bọn điên; chính chúng ta đương nhúng bàn tay hưởng thụ tàn sát thế hệ tương lai một cách rất văn minh, một cách rất 'hào hoa phong nhã'. Đàng sau những chiếc xe bóng lộn, đàng sau những bữa yến tiệc linh đình, bên cạnh những ngôi biệt thự xa hoa, những cao ốc ngất trời là gì, nếu không phải là những làn khói đen xịt, những đống rác khổng lồ, những chất độc hóa học khủng khiếp?
Nếu không có một biện pháp hữu hiệu, một ngày chắc hẳn không xa nào đó, đất nước Việt sẽ biến dạng, và người Việt cũng tuyệt giống. Một cách im lặng. Một cách vô thức.  Một cách thê thảm nhưng rất văn minh!
   Những điều thầy 'địa lý' họ Thái phát hiện, cảnh cáo và than vãn trong tập sách Việt Nam: Môi Trường và Con Người không phải là những câu bói toán, mà là những nhận định khoa học của một chuyên gia địa chất, một học gỉả từng nghiên cứu và giảng dậy cả cuộc đời về đất, về nước. Muà Xuân năm 1997, lần đầu tiên trở lại quê hương sau gần 30 năm phiêu bạt tha hương cầu thực, tôi quặn lòng khi thấy những dẫy đồi trùng điệp bị khai quang trọc lóc; tôi nhức nhối khi thấy những dòng nước phế thải đỏ ngầu hôi hám ngạo mạn đổ vào sông, lạch; tôi nhói tim nhìn những dòng sông đen sệt hôi thối lượn lờ như những con rắn độc giữa lòng thành phố, nơi con rồng Việt từng bay bổng vào bầu trời Đông Á (Thăng Long); tôi nước mắt lưng tròng lê bước qua những khu xóm đầy rác rưởi mà đồng bào thân yêu của tôi đương bám víu vào để sống; tôi cảm thấy bất lực khi thấy họ đương hít thở những làn khí độc hưng hực bốc lên từ lòng sông lạch ô nhiễm, ngay giữa lòng cái thành phố từng được ca tụng như hòn ngọc Viễn Đông (Sài Gòn).
   Theo báo cáo của nhà nước, những căn bệnh hiểm nghèo tương tự như bệnh 'da cam' các loại bệnh ung thư, những loại viêm gan, viêm phổi, viêm ruột là những sát thủ hàng đầu, biến cả đất nước thành một nhà thương khổng lồ, không thuốc, không men, không bác sỹ, trống rỗng. Làm sao mà không chết khi mà cái hòn ngọc Viễn Đông bị chính chúng vùn dập trong đống phân heo? Làm sao mà không chết khi không khí trong lành chỉ còn là những bụi khói vẩn đục đục khoét buồng phổi mỗi người? Làm sao mà không chết khi mà những dòng nước trong sạch đã biến thành những vũng lầy đen sệt hôi thối? Chúng ta không cần phải xem cuốn phim The Day After Tomorrow mới biết được cái hiểm họa tự diệt. Chỉ cần nhìn ra cái đạo lý tương thân giữa đất và người, cái nguyên lý bất khả phân ly giữa đất và nước, giữa đất và khí, các bạn dễ dàng thấy ngay, một khi đạo lý, nguyên lý tương quan này bị phá bỏ, thì vận mệnh của con người cũng đã tới đoạn đường tận cùng.
   Hơn ai hết, thầy 'điạ lý' họ Thái giúp ta nhận ra cái mỹ lệ của đất nuớc, nhìn thấy những hiểm họa, và ý thức được những hậu qủa do chính bàn tay chúng ta đầu độc tàn phá một cách vô thức. Đọc Việt Nam: Môi Trường và Con Người để hãnh diện với cái hay cái đẹp đất nước, để biết được cái gốc, cái lõi của mình, và nhất là để ý thức trách nhiệm trước hiểm họa tận diệt do chính chúng ta .
                                                   
                                                          Trần Văn Đoàn
                                   Chủ Tịch, Hiệp Hội Triết Gia Á Châu

                         Thành Viên, Uủy Ban Nghiên Cứu Đạo Đức Môi Sinh (Eco-Ethics), UNESCO.