Bút ký Sự Ác:Bà mẹ đã chôn sống con mình



Nguyễn Quang

Bà mẹ đã chôn sống con mình

               Từ 1964, chính quyền miền Bắc quyết định gởi những đơn vị chủ lực đầu tiên vào chiến trường miền Nam với hy vọng sẽ sớm chiến thắng trước khi Hoa Kỳ trực tiếp can thiệp vào Việt Nam. Giới lãnh đạo Hà Nội đã sang hết Moscow đến Bắc Kinh để cầu viện, tất nhiên đủ các loại vũ khí đã được chuyển đến miền Nam. Riêng Trung quốc tỏ ra tích cực hơn đã tăng cường viện trợ quân sự kinh tế, đồng thời đưa các lực lượng quân tăng cường dọc biên giới giáp ranh với Việt Nam.

               Trong khi đó tình hình miền Nam sau khi nền Đệ nhất Cộng Hòa bị lật đổ ngày càng tồi tệ và sự xâm nhập của các lực lượng miền Bắc ngày càng công khai. Những nhà nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam thường đều có chung nhận định: vào cuối năm 1964 và đầu năm 1965, đó là giai đoạn then chốt của cuộc chiến. Chính phủ Hoa Kỳ đã thay đổi hẳn tính chất của cuộc chiến, đó là trong một vài tháng đã diễn ra oanh tạc thường xuyên vào miền Bắc, cũng như gởi bộ binh tham chiến tại miền Nam.
               Khi leo thang cuộc chiến, những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đều tin rằng Họ có thể ép buộc Hà Nội từ bỏ ý đồ thôn tính miền Nam, người Mỹ sau đó đã đi quá sâu vào cuộc chiến và thật sự đã sa lầy nơi đây cho dù có kế sách Việt Nam hóa chiến tranh vẫn không hóa giải được tình hình. Những gì có sự áp đặt của duy ý chí không thoát ra được bởi những gì vượt ra ngoài sự suy luận của lý trí.
               Cuối tháng 12/1964 Hoa Kỳ thật sự đã đi đến một quyết định then chốt, đó là tung ra cuộc chiến trên không với Bắc Việt. Những trận bom khổng lồ, khốc liệt đã đổ xuống miền Bắc và cả Trường Sơn miền Nam, để chận các con đường thâm nhập của Cộng sản vào miền Nam. Đúng là cuộc chiến tranh đã chuyển sang một giai đoạn mới từ đây, Tổng thống Hoa kỳ Johnson không chỉ bấm nút cho phép oanh tạc ‘khi tình thế đòi hỏi’ mà còn quyết định gởi quân trực tiếp tham chiến vào Việt Nam.
               Và con người tại thế với những âm thanh của bom mìn đạn pháo rền vang quanh mình, đã biến các hữu thể trong ảo tưởng lời nói: người bệnh nghe rất rõ lời nói, nhưng nghe sai lệch câu này thành câu khác. Trong hoang tưởng thường người bệnh không nghe rõ mà hay suy đoán câu chuyện qua thái độ người chung quanh hay nghe rõ ràng câu nói nhưng tìm một ý nghĩa cho câu nói đó theo nội dung hoang tưởng của mình.
Các viên chức thuộc các chính quyền địa phương bao giờ cũng đầy thành kiến nghi kỵ đối với các công dân, do nhớ nhà mà trốn trở về thăm ruộng vườn, dù có khi nhà cửa ngày xưa chỉ còn là đống tro tàn đổ nát, mọi hành vi của những người này thường bị gán ghép là láo... Nên tất cả đều nhìn nhau trong nghi ngờ, sợ hãi.

Bà Mẹ Quảng Nam chôn sống con mình.
Sau hơn ba mươi năm cuộc chiến chấm dứt, một người phụ nữ ngoài bảy mươi được đề nghị trao tặng danh hiệu “anh hùng” và giúp cho hưởng các chế độ xã hội vì đã có công giết chết con đẻ của mình để giữ an toàn cho đoàn quân du kích trong lúc bị quân đội Việt Nam Cộng Hoà và Đồng minh truy đuổi.
Đứa trẻ đã khóc thét suốt nhiều đêm do sợ hãi tiếng động đạn bom. Cán bộ Việt cộng lúc đó đã làm công tác tư tưởng yêu cầu bà mẹ phải chôn sống đứa con mười mấy tháng tuổi của mình, ngõ hầu không vì tiếng khóc của con trẻ mà bị địch phát hiện. Người phụ nữ đã đắn đo dằn vặt trước những lời đề nghị ngọt lịm của các chính uỷ, bà đã nỗ lực hết sức với những lời ru nhưng đứa trẻ vẫn trong cơn sốt hoảng sợ tiếp tục khóc. Thế là bà đành đoạn nói lời chia tay “thôi thì số phần của con vậy”, trước khi mang con đi chôn sống.
Người đàn bà theo lời kể trong đêm khuya hôm ấy đã lẳng lặng một mình mang cháu bé ra mé rừng, rồi moi cái hố nhỏ bỏ thằng bé xuống, vùi lấp lại. Đứa bé đã không còn khóc nữa, nó đã hoàn tất “sứ mệnh” của kiếp người: làm nên sự yên lòng cho các chính ủy Việt cộng.
Người mẹ đờ đẫn, bơ phờ ra về đến nơi trú ẩn như xác không hồn, bà đã làm một việc mà không nghĩ mình đã làm. Bà chỉ còn nghe lập lại, “đây là mệnh lệnh của đảng”. Và tiếng khóc đứa trẻ thật sự không còn nữa. Mọi sự an toàn cho những người đang trốn chạy, theo như lời các ông đảng viên cộng sản.
Người mẹ sau đó dần dần trở nên bất bình thường, kể từ đêm hôm ấy. Một hồ sơ bệnh án tâm lý thần kinh hình thành dù vô hình đối với một con người sẽ còn nhiều nước mắt chảy dài cho đến hết cả đời người, trong nỗi nhớ con cùng sự cấu xé về việc làm của mình. Bà đã hy sinh đứa con vì những lời mỵ dân cùng sự dốt nát kiến thức khoa học sơ đẳng trong việc chữa trị trẻ con khóc đêm. Chỉ cần cho bé một liều thuốc an thần nhẹ là trẻ sẽ ngủ say, thay vì hy sinh mạng sống của một con người. Người phụ nữ ấy chôn sống con, theo lời khuyến dụ của những kẻ làm chiến tranh. Thế nhưng khi cộng sản Hà Nội chiếm được miền Nam, họ đã quên hẳn người đàn bà bất hạnh đó.
Người mẹ giết con thật sự đã bị quên bẵng sau hơn ba mươi năm. Mới đây có một người cao niên nào đó trong số những du kích năm xưa nhớ lại, khi nhìn thấy thân phận quá đau thương mất mát cùng khổ của người đàn bà năm xưa. Hằng ngày trong bộ quần áo rách nát, bữa no bữa đói, bà phất phơ, lẩn thẩn đi tìm con. Bà luôn quanh quẩn nơi vùng đất ngày xưa chính mình đã chôn sống người con thân yêu, nay đã gần bốn chục năm, nghĩa là Nó đã gần bốn chục tuổi đời. Hình ảnh đứa con và việc làm rồ dại năm xưa luôn luôn trong tưởng tượng và ám ảnh của người mẹ.
Người mẹ này, vào thời điểm đó đã ngoài bảy mươi, sinh sống tại Tỉnh Quảng Nam, miền Trung Việt Nam. Bà tên là Lê Thị Nghê (còn gọi Năm Nghê), ngụ thôn Linh Kiều, xã Hiệp Hòa, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

***