TS Nguyễn Văn Thành
		
		Chuyển biến 
		Vô Thức thành Ý Thức
		
		
		để làm người
		
		
		
		với một tấm 
		lòng Bao Dung
		
		
		thể theo 
		khoa Phân Tâm Trị Liệu của FREUD
Trong mọi môi trường sinh hoạt hiện nay của xã hội, con người đang bị VÔ THỨC khống chế một cách trầm trọng. Cho nên, những khó khăn xuất hiện khắp mọi nơi, làm ô nhiễm những quan hệ giữa người với người. Bạo động trào dâng khắp tứ phía.
			Nhằm nhận diện và đối diện 
			những khó khăn ấy, đang gây nhiễu động trong nhiều lãnh vực như tôn 
			giáo, chính trị, giáo dục…, tôi xin mao muội giới thiệu ba ý tưởng 
			then chốt  dưới hình thức ba bài chia sẽ như sau :
			   1.- Vô Thức là gì ?
			
			   2.- Vô Thức có một sức 
			mạnh tàn phá hãi hùng, khi bị ức chế và giam giữ trong những hang động 
			vòng vo, luẩn quẩn của nội tâm,
			   2.- Vô Thức cũng còn 
			là một thách đố diệu vợi, nếu được phát hiện và gọi ra ánh sáng của 
			Ý Thức, một cách khoa học, với từng bước đi lên.
			Bài 
			chia sẻ số Một : Vô Thức là gì ?
			Theo quan điểm của FREUD, 
			nhà sáng lập Phân Tâm Học, Nội tâm bao gồm ba thành tố hay là ba cơ 
			cấu tổ chức, khác biệt nhau, nhưng có những liên hệ mật thiết với 
			nhau và thường xuyên tác động qua lại hai chiều trên nhau.
			Cấu trúc thứ nhất là Tự 
			Ngã,
			Cấu trúc thứ hai là Siêu 
			Ngã,
			Cấu trúc thứ ba là Bản 
			Ngã.
			1.- Tự Ngã
			Cấu trúc Tự Ngã còn mang 
			tên là « Cái Ấy » (le Ça trong tiếng Pháp và The Id trong tiếng Anh). 
			Cấu trúc nầy thành hình và xuất hiện rất sớm, trước hai cấu trúc kia. 
			Xét về phương diện thứ tự thời gian, cấu trúc Tự Ngã đã có mặt, khi 
			đứa bé đang còn là một thai sinh, trong lòng mẹ.
			Nội dung của Tự Ngã bao gồm 
			nhiều Xung Năng (Pulsion trong tiếng Pháp, hay là Urge và Drive 
			trong tiếng Anh).
			Để hiểu rõ một phần nào 
			xung năng là gì, trong đời sống của một đứa bé sơ sinh, chúng ta cần 
			phân biệt những yếu tố sau đây :
			- Thứ nhất, xung năng là 
			những sức ép hay là sức đẩy bật hướng đến sự sống, hoàn toàn tự 
			nhiên và phản xạ, phát xuất từ những tầng sâu trong cơ thể của đứa 
			bé. Khi đạt tới cao điểm, trong những chu kỳ và nhịp độ biến chuyển, 
			xung năng sẽ tạo nên cho đứa bé, một tình trạng bực bội, khó chịu, 
			căng thẳng... thúc ép nó đi tìm một đối tượng ở bên ngoài, để được 
			giải tỏa, khai phóng và thỏa mãn.
			- Thứ hai, trong những 
			năm đầu tiên của cuộc sống, đứa bé còn ở trong tình trạng hoàn toàn 
			vô thức và lệ thuộc. Các em chưa thể nhận biết xung năng của mình là 
			gì, bắt nguồn từ đâu, hướng đến mục đích gì, đối tượng nào có thể 
			đáp ứng và thỏa mãn. Các em chưa thể nào tự mình giải quyết những vấn 
			đề do cuộc sống đặt ra. Các em chưa có khả năng dùng lời nói, để giải 
			thích cho kẻ khác biết các em đang cảm nghiệm thế nào và đang có những 
			nhu cầu như thế nào.
			- Thứ ba, nhằm bộc lộ ra 
			ngoài một cách khách quan, tình trạng bức xúc đang xảy ra trong nội 
			tâm, các em chỉ có một số hành vi rất hạn chế như : khóc la, thét 
			gào, vùng vẫy tay chân, thay đổi sắc mặt...
			- Thứ bốn, lúc ban đầu 
			duy người mẹ - hay là người thay thế mẹ - có mặt liên tục, suốt ngày 
			đêm với đứa bé, mới có thể từ từ ý thức được nhu cầu của đứa bé và 
			tìm cách đáp ứng, thỏa mãn những nhu cầu ấy. Chính vì lý do nầy, người 
			mẹ được gọi là đối tượng đầu tiên, nguyên thủy của đứa bé mới sinh, 
			trước tất cả mọi đối tượng khác. Đồng thời, người mẹ cũng đang đảm 
			nhiệm vai trò « làm Siêu Ngã » cho đứa con.
			- Thứ năm, trong ba năm đầu 
			tiên của cuộc sống, nếu đứa bé không có mẹ và không có ai liên tục 
			thay thế mẹ, trong vòng từ ba đến sáu tháng, em ấy sẽ phải chết, hay 
			là trầm mình trong bệnh hoạn. Thể theo lối nhìn của Bác sĩ R. SPITZ, 
			hội chứng « Thiếu Tình Thương » (carence affective hay là 
			hospitalisme), đã bẻ gãy và vùi dập, trong đứa bé, mọi xung năng 
			phát xuất từ sự sống và hướng đến sự sống (1). Nói cách khác, trước 
			kia xung năng là một sức đẩy bật hướng đến sự sống. Bây giờ, vì sự sống 
			không được đón nhận và nhìn nhận, xung năng đã đi vào con đường tàn 
			lụi, hướng đến sự chết. Đó là Xung năng hướng đến sự chết. Lối nói 
			được sử dụng trong tiếng Pháp là « pulsion de mort ».
			2.- Siêu Ngã
			Khi quan sát từ ngoài một 
			đứa bé sơ sinh, trong những tháng ngày đầu tiên, chúng ta sẽ ý thức 
			được thế nào là Tự Ngã, ở thể trạng thuần đơn, trước khi tiếp thu và 
			hội nhập ảnh hưởng của hai cấu trúc kia là Siêu Ngã và Bản Ngã. Cuộc 
			sống thường ngày, lúc bấy giờ, được phân chia thành 5 hoặc 6 chu kỳ. 
			Mỗi chu kỳ bao gồm sáu giai đoạn tiếp nối nhau :
			- Giai đoạn một : Giấc ngủ 
			thâm sâu và bình lặng.
			- Giai đọan hai : Giấc ngủ 
			náo hoạt.
			- Giai đoạn ba : Giai đoạn 
			chuyển tiếp giữa ngủ và thức.
			- Giai đoạn bốn : Tỉnh thức 
			hoạt bát nhưng bình lặng.
			- Giai đọan năm : Tỉnh thức 
			náo động.
			- Giai đoạn sáu : khóc la 
			inh ỏi, trước khi trở lại giai đoạn một.
			Một cách đặc biệt, vào 
			giai đoạn Tỉnh thức hoạt bát và bình lặng  (giai đoạn bốn), sau ngày 
			sinh độ một tuần lễ, đứa bé đã bắt đầu vận dụng một cách năng động 
			năm giác quan của mình, nhất là thị, thính và xúc giác.
			
			Người lớn, nhất là bà mẹ, dựa vào ba giác quan chính yếu nầy, có thể 
			kích thích đứa bé và trao đổi với em, miễn là bà biết tôn trọng một 
			cách nghiêm chỉnh hai loại ngưỡng kích thích : không bao giờ ở dưới 
			ngưỡng sơ khởi, không bao giờ vượt quá ngưỡng chịu đựng, còn được gọi 
			là ngưỡng khổ đau.
			Khi yếu tố kích thích ở 
			dưới ngưỡng sơ khởi, đứa bé không phản ứng, không trả lời. Khi bà mẹ 
			vượt quá ngưỡng chịu đựng của đứa con, tự khắc em sẽ có những phản 
			ứng từ chối như khóc la, thét gào, rút lui, khép kín mình, ngoảnh mặt 
			qua chỗ khác, múa động chân tay...
			Trong cuốn sách « Quan Hệ 
			Mẹ Con : bài học đầu tiên của cuộc sống », xuất bản năm 2000 (2), 
			tôi đã trình bày và giới thiệu một số động tác cụ thể, mà bà mẹ hay 
			là những người lớn trong gia đình có thể thực hiện, một cách dễ dàng, 
			để tổ chức cuộc sống cho đứa bé sơ sinh, từ những ngày em mới sinh 
			ra.
			Khi tổ chức như vậy, người 
			mẹ và những ai đang tiếp tay cho bà mẹ, đã bắt đầu đảm nhiệm « vai 
			trò làm Siêu Ngã », nghĩa là từ từ chuyển biến Tự Ngã của đứa bé 
			thành Bản Ngã, bằng cách cung ứng từ ngoài những khuôn khổ, những 
			qui luật cũng như những đường hướng hoạt động. 
			Không có cái KHUNG « tạo 
			an toàn » nầy, để đứa bé có thể nương tựa, qui chiếu và ngày ngày điều 
			hướng cuộc đời, em sẽ suốt đời bơ vơ, loạn động, không có khả năng lớn 
			lên, tăng trưởng, phát triển và trở nên người.
			Sau nhiều năm quan sát, 
			nghiên cứu, học hỏi... tác giả T.B. BRAZELTON đã đưa ra những điểm mốc 
			sau đây (3):
			-              
			Chung quanh 3 tuổi, trẻ em cảm thấy rất quan trọng tất cả những 
			gì mà em tự mình có thể làm ra,
			-              
			Khi trẻ em lên tới 5 tuổi, em sẽ cảm nghiệm chính con người của 
			mình là « trung tâm » và « trọng tâm » của vũ trụ. Tất cả những điều 
			còn lại đều là phụ thuộc, xoay vần chung quanh trung tâm ấy để phục 
			vụ,
			-              
			Từ 6-7 tuổi trở lên, trẻ em bắt đầu có khả năng hướng mình ra 
			bên ngoài, để học tập, tiếp thu những bài học về THỰC TẾ, và QUI LUẬT. 
			Đây là yếu tố quyết định, cho cuộc sống thành người. Hẳn thực, bao 
			lâu chúng ta chưa ý thức một cách rõ rệt về những khả năng và giới hạn 
			cụ thể của mình, nghĩa là biết những gì mình làm được và những gì 
			mình không có phép làm, chúng ta chưa thể TỰ LẬP và TRƯỞNG THÀNH, mặc 
			dù tuổi đời đã vượt quá 20.
			Để có thể thực thi và kiện 
			toàn tiến trình xây dựng bản thân nầy, một đứa bé từ ngày sinh ra, cần 
			bàn tay tổ chức và giúp đỡ của những người lớn trong gia đình, bắt đầu 
			từ bà mẹ, là nhân vật gần gũi với em, hơn tất cả những người khác. 
			Theo thuật ngữ của Phân Tâm Học, các vị ấy đang đóng vai trò làm 
			Siêu Ngã cho đứa bé, trong suốt tiến trình học làm người.
			Vai trò làm Siêu Ngã bao 
			gồm hai chức năng trọng yếu :
			- Thứ nhất là soi sáng và 
			hướng dẫn đứa bé về tất cả những gì  em có thể làm hay là không thể 
			làm. Đó là nguyên tắc thực tế (Réalité trong tiếng Pháp).
			- Thứ hai là nâng đỡ, động 
			viên, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi, để em có thể từng bước 
			đi lên, chấp nhận những bài học về qui luật làm người, một cách dễ 
			dàng và hứng thú. Đó là nguyên tắc vui thích (Plaisir).
			Thực ra, theo lối nhìn của 
			Freud, thực tế và vui thích là hai bộ mặt khác nhau của một nguyên tắc 
			duy nhất, trong cuộc sống làm người. Để trẻ em có thể tiếp thu và hội 
			nhập một cách nhuần nhuyễn một bài học, trong bất kỳ lãnh vực nào, 
			bài học ấy phải tạo vui thích  và gây hứng thú cho trẻ em. Bằng 
			không, em sẽ khước từ hay là bỏ cuộc giữa chừng. Đồng thời, bài học 
			ấy phải tạo nên cho em một kỹ năng tinh nhuệ, khả dĩ giúp em sống tự 
			lập sau này. Khoa Tâm Lý Sư Phạm càng ngày càng lắng nghe, tiếp thu 
			và ứng dụng tin tức nầy, trong hai lãnh vực giáo dục và trị liệu.
			Ngôn ngữ là một minh họa 
			có khả năng giúp chúng ta hiểu rõ về mối liên hệ mật thiết giữa hai 
			bộ mặt của nguyên tắc vui thích và thực tế. Sở dĩ trẻ em học nói 
			huyên thuyên  suốt ngày, vì em thích bắt chước người mà em thương mến. 
			Đồng thời, nhờ biết nói, em có thể hiểu người khác và làm cho kẻ 
			khác hiểu mình, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi bình thường hằng 
			ngày.
			Tuy nhiên, không phải bất 
			cứ bà mẹ nào, khi sinh con ra, đều có khả năng làm  Siêu Ngã, với những 
			chuẩn mực quân bình và lành mạnh, như Freud đã đề xuất, nghĩa là hướng 
			dẫn, soi sáng, thay vì áp đặt, cưỡng bức, ức chế, từ trên và từ 
			ngoài. Thêm vào đó, để có thể hướng dẫn một cách hài hòa và hữu hiệu, 
			bà mẹ phải học quan sát, lắng nghe đứa con của mình và tìm cách tiếp 
			xúc, trao đổi với em. Những gì em đã bắt đầu làm được, bà mẹ sẽ khuyến 
			khích em làm một mình, theo tốc độ của em. Không làm thay làm thế. 
			Không bao che từ đầu chí cuối.
			Có dịp quan sát cách làm 
			của nhiều bà mẹ đem con đến khám tại phòng mạch của mình, Bác sĩ 
			Phân Tâm D.W.WINNICOTT đã ghi nhận nhiều cách can thiệp khác nhau của 
			các bà, sau khi họ nghe đứa con của mình khóc la , và đang có một vấn 
			đề cần giải quyết(4).
			Loại thứ nhất : bà mẹ trả 
			lời quá sớm, trước khi đứa con có thì giờ cảm nhận hay là mơ tưởng, 
			bằng một hình ảnh, vấn đề hiện tại của mình.
			Loại thứ hai : bà mẹ trả 
			lời quá chậm, sau khi đứa con thét gào và tỏ ra mệt mỏi, kiệt quệ, 
			« đầu hàng », bỏ cuộc, vì không có ai lắng nghe, một cách đúng lúc 
			và đúng tầm.
			Loại thứ ba : cách thức 
			bà mẹ trả lời không thích hợp với nhu cầu thực sự của đứa con. Ví dụ : 
			đứa con bị ướt tã, khó chịu. Người mẹ lấy bình sữa ra, cho con bú.
			Loại thứ bốn : bà mẹ trả 
			lời theo nguyên tắc cố định, không tìm hiểu nhu cầu thực sự của đứa 
			con nằm ở chỗ nào. Ví dụ : bây giờ là 4 giờ chiều. Theo ý của bà, bé 
			khóc vì đòi cữ sữa thông lệ, đương khi nhu cầu thực sự của bé lúc ây 
			là muốn đi ra chơi bên ngoài.
			Loại thứ năm : bà mẹ trả 
			lời, theo lối giải thích hoàn toàn tùy tiện và chủ quan, trước khi 
			tìm cách kiểm chứng giả thuyết của mình. Ví dụ : theo ý của bà mẹ, 
			bé khóc ghen, vì mẹ nói chuyện với bác sĩ... đương khi lý do thực sự 
			là bé sợ người lạ mặt.
			Lẽ đương nhiên, như trên 
			đây tôi đã đưa ra nhận xét, vì thân phận và điều kiện làm người, 
			không một bà mẹ nào, ngay từ ngày đầu tiên, khi đứa con sinh ra, đã 
			biết làm Siêu Ngã, một cách hoàn hảo và tuyệt vời. Sai lầm là lẽ thường 
			tình, tự nhiên. Điều cốt yếu là bà mẹ biết học. Biết dừng lại, khi 
			thấy mình sai lầm. Biết lắng nghe, tham khảo ý kiến của những người 
			có kinh nghiệm và kỹ năng tinh nhuệ, trong lãnh vực nuôi dạy con cái. 
			Và điều tôi muốn nhấn mạnh, trước tất cả mọi điều khác, là : Bà mẹ 
			hãy HỌC với đứa con của mình. Chính thái độ và tác phong của em sẽ 
			giúp chúng ta điều chỉnh những gì đã sai lệch, kiện toàn những gì đã 
			tốt đẹp, bổ túc những gì còn thiếu sót. Và khi đứa con đã biết nói, 
			chúng ta hãy tiếp xúc, trao đổi, lắng nghe, tìm hiểu, tạo cho em một 
			khung gian diễn tả, bộc lộ nhu cầu của mình. 
			        Với những điều kiện 
			hành xử như vậy, khó khăn nào cũng có thể vượt qua. Thất bại hay là 
			lầm lỡ nào cũng có thể trở thành một bài học hay là một kinh nghiệm 
			quí hóa, trong vai trò làm Siêu Ngã hướng dẫn và giúp đỡ con cái 
			thành người.
			Hẳn thực, khi đứa con bắt 
			đầu tỏ thái độ phản kháng, chống đối hay là bị động, lệ thuộc, chúng 
			ta cần lập tức nêu ra câu hỏi : phải chăng tôi đang thao tác một loại 
			Siêu Ngã quá độc tài và nguyên tắc hay là quá bao che và nương chìu, 
			khi không cần thiết.
			Trong thuật ngữ « Siêu 
			Ngã », được Freud sử dụng, (Sur-moi trong tiếng Pháp và Super-ego 
			trong tiếng Anh), hai từ được ghép lại với nhau. Từ thứ nhất là 
			« Siêu », có nghĩa là « ở trên », về mặt ý thức và hiểu biết. Nói 
			cách khác, để có thể soi sáng và hướng dẫn đứa con của mình, người 
			mẹ cần có một lối nhìn bao quát, toàn diện, nghĩa là nhận ra những 
			liên hệ mật thiết giữa những tầng lớp khác nhau trong nội tâm của 
			đứa con. Ngoài ra, bà còn phải thấy được ảnh hưởng của nhiều yếu tố 
			có mặt trong môi trường đang tác động, bằng cách nầy hay cách khác, 
			trên cơ thể non yếu của bé.
			Từ thứ hai là Ngã, nghĩa 
			là người mẹ đã hành xử như một chủ thể, có khả năng làm chủ bản thân 
			và cuộc sống của mình. Cho nên, bà có khả năng « đồng cảm » với đứa 
			con. Hiểu biết em từ bên trong. Khám phá hay là phát hiện được những 
			nhu cầu và nguyện vọng của em, mặc dù em chưa có điều kiện và phương 
			tiện diễn tả những tình trạng nội tâm, và nhất là những xúc động 
			buồn lo, tức giận, sợ hãi...
			Những nhà Phân Tâm, thuộc 
			thế hệ thứ hai và thứ ba sau Freud, sẽ sử dụng thuật ngữ « Bản Ngã 
			Trợ Tá », (le moi auxiliaire), để xác định vai trò của người mẹ, đối 
			với đứa con của mình, ít nhất trong những ngày tháng đầu tiên của 
			cuộc sống. Hẳn thực, khi người mẹ làm « Bản Ngã Trợ Tá », bà đang 
			tạo ra cho đứa con những điều kiện thuận lợi, để đứa con từ từ trở 
			nên một Bản Ngả tự lập. Bà mẹ là một tấm gương soi, trong đó đứa con 
			nhận thấy con đường đi tới của mình. Ngày ngày, bà là người « bắc 
			nhịp cầu », hay là người « làm trung gian », để đứa con có thể rời 
			bỏ bến bờ lệ thuộc và từ từ đi qua bến bờ tự lập và hiểu biết.
			Thông thường, người mẹ 
			đảm nhận công việc nầy, với tất cả vốn liếng tự nhiên và trực giác 
			có sẵn của mình. Trái lại, những nhà Tâm Lý Trị Liệu đặc trách về 
			các trẻ em có những rối loạn tiếp xúc hay là những hội chứng Tự Kỷ 
			« Autisme » (sống bít kín, không hòa nhập với bạn bè cùng trang 
			lứa), cần kinh qua hơn bốn năm học, với nhiều lý thuyết chuyên môn 
			và thực tập, mới có khả năng làm « Bản Ngã Trợ Tá » cho những loại 
			trẻ em nầy. Họ tìm cách « đồng hóa » với trẻ em, nhằm giúp trẻ em từ 
			từ « ngoại hiện », nghĩa là « phóng ra ngoài » những xung năng đang 
			bị ứ đọng và kềm kẹp, ở bên trong nội tâm. Nhờ đó, trẻ em mới có cơ 
			may khám phá và thực tập đời sống tiếp xúc và trao đổi với những trẻ 
			em khác cùng lứa tuổi.
			Tôi cố tình nêu lên một 
			vài nhận xét chuyên môn như vậy, để nhấn mạnh rằng : Bắc nhịp cầu 
			trung gian hay là làm Siêu Ngã « đứng đắn và lành mạnh », để giúp kẻ 
			khác trở thành người, trong những quan hệ tiếp xúc hằng ngày là 
			trách nhiệm, mà mỗi người trong chúng ta cần phát huy và học tập, để 
			phục vụ anh chị em đồng bào. Đó là một cách « dựng Nước và giữ 
			Nước », chưa được chúng ta lưu tâm, một cách thiết thực và nghiêm 
			chỉnh.
			3.- Bản Ngã (le Moi 
			hay là the Ego)
			Từ ngày sinh ra cho đến 
			lúc lìa đời, học làm người là một tiến trình không bao giờ có dứt 
			điểm. Tuy nhiên, gần như ở khắp nơi, trên mặt địa cầu, xã hội thường 
			ấn định hai điểm mốc quan trọng : 7 tuổi là tuổi biết suy luận và 
			phân biệt điều nào tốt nên làm, điều nào xấu phải tránh. Chung quanh 
			hai mươi tuổi là điểm mốc thứ hai. Từ đây, mỗi người bước vào tuổi 
			trưởng thành, phải đảm nhận trách nhiệm, trước mặt xã hội, về tất cả 
			những hành vi của mình.
			Thế nhưng, trong thực tế, 
			ai đã thực sự làm người trưởng thành ? Ai có thể khẳng định rằng : 
			tôi đã trở thành một Bản Ngã, tôi đã biết mình tôi là ai, cần làm 
			gì, có những giá trị nào. Một cách đặc biệt, những người đã chọn lựa 
			cho mình một lý tưởng, trong tinh thần « hoàn toàn tự do và sáng 
			suốt », phải chăng họ đã nắm vững mọi đường đi nẻo về của mình, 
			trong lòng cuộc đời ?
			Trước một thách đố lớn 
			lao tình cờ xảy ra, ngoài mọi dự tính, tất cả chúng ta đều có nguy 
			cơ « bị dao động, mất quân bình ». Lúc bấy giờ, chúng ta lại phải 
			tìm cách trả lời những câu hỏi cơ bản :
			-              
			Tôi là ai ?
			-              
			Phải chăng tôi có những khả năng cần thiết, để đương đầu với 
			những vấn đề đang xảy đến cho tôi ?
			-              
			Phải chăng tôi vẫn còn là con người có giá trị ?
			-              
			Phải chăng tôi luôn luôn là con người được yêu thương và tôn 
			trọng, trong những quan hệ với bạn bè, người thân và những ai quen 
			biết ?
			-              
			Trong hoàn cảnh cụ thể hiện tại, tôi phải làm điều gì ? Điều 
			nào là ưu tiên số một, cần được tôi thực thi, không trì hoãn ?
			Trong những năm được cha 
			mẹ nuôi nấng, dạy dỗ trong gia đình, và suốt những tháng ngày được 
			thầy cô và bao nhiêu người khác giáo dục, tại trường học và ngoài xã 
			hội, phải chăng tôi đã được trang bị, một cách đầy đủ và kỹ lưỡng, 
			để tiếp tục hiên ngang và can trường làm người, làm bản ngã ?
			Cha mẹ tôi đã qua đời từ 
			lâu, các thầy cô đã ra đi, khi nhiệm vụ hoàn tất... nhưng những 
			« khuôn khổ », những bài học làm người, mà tôi đã tiếp thu và hội 
			nhập với các vị, phải chăng đang còn là những vốn liếng sống động, 
			quí báu có khả năng giúp tôi vượt qua những chặng đường gian truân ?
			Nói một cách vắn gọn, 
			phải chăng « cách họ dạy », hay là « cách họ làm Siêu Ngã » đang còn 
			là động cơ thiết thực và hữu hiệu, ngày ngày thúc giục tôi HỌC làm 
			bản ngã ? Ngày ngày làm kim chỉ nam, hướng dẫn tôi, trong chiều 
			hướng học làm người ?
			Sau khi QUÊN MẤT tất cả, 
			tôi vẫn còn NHỚ được cái gì ? Điều nào đang luôn luôn sinh động cho 
			tôi, với tôi và trong tôi, trên suốt con đường làm người, hay là làm 
			bản ngã ?
			Câu trả lời của tôi  - 
			bắt nguồn từ những bài học của Phân Tâm Học -  bao gồm ba chiều 
			hướng trọng yếu :
			-              
			Thứ nhất, làm bản ngả là BIẾT« đồng hành và chia sẻ » với bao 
			nhiêu người khác đang chung sống hai bên cạnh. Sống làm người là một 
			cuộc hành trình với nhiều bạn bè. Không ai là một cô đảo cô đơn, cô 
			độc.
			-              
			Thứ hai, làm bản ngã là BIẾT « hướng dẫn và nâng đỡ » những 
			người đang cần đến chúng ta, trong vấn đề vật chất, cũng như trên 
			bình diện tinh thần. Ai ai trong chúng ta cũng đã thừa kế một gia 
			tài. Đến lượt, chúng ta có trách nhiệm truyền lại gia tài ấy, cho 
			người đến sau.
			-              
			Thứ ba, làm bản ngã là BIẾT « sống hạnh phúc » và « tạo hạnh 
			phúc cho kẻ khác », với tất cả những vốn liếng sẵn có trong tầm tay 
			của mình, không đứng núi nầy trông núi nọ, không chờ đợi có đủ mọi 
			điều kiện, rồi mới bắt tay vào làm. Tạo hạnh phúc như vậy cũng là 
			một cách  « đồng hành và chia sẻ » với anh chị em đồng bào, đồng 
			loại. Không một ai trong chúng ta là người hoàn toàn « vô sản ». 
			Chúng ta đang có rất nhiều điều, để chia sẻ với người khác : một ánh 
			mắt, một nụ cười, một lời yêu thương, một vành tai biết lắng nghe, 
			một con tim « đồng cảm »...Sống hạnh phúc còn có nghĩa là « biết hóa 
			giải hay là chuyển biến những khổ đau » đang xói mòn trong cuộc đời, 
			ngày ngày trở thành vật liệu xây dựng bản thân.
			Để có thể biết vận dụng 
			ba con đường làm người trên đây, chúng ta không thể không HỌC. Học 
			mỗi ngày. Học với mọi người. Học ăn, học nói, học gói, học mở.
			***
			Cách HỌC, vừa được nêu ra 
			trên đây, theo lối nhìn của FREUD là không ngừng chuyển 
			biến Vô thức thành Ý thức, biến điều chưa biết thành điều biết. 
			Khi không biết hay là chưa biết, tôi sẵn sàng đặt ra câu hỏi và yêu 
			cầu kẻ khác trả lời. Trái lại, khi nói về chính mình, tôi cần phân 
			biệt một cách rõ ràng và chính xác điều nào thuộc về thực tế và thực 
			tại của tôi, điều nào chỉ là giả định, suy đoán hay là thuộc về xu 
			thế tổng quát hóa mà thôi.
			Những điều tôi vừa đề 
			xuất, xem ra có vẽ đơn sơ, hiển nhiên, thuộc khả năng bình thường 
			của mỗi người, trong mọi tình huống tiếp xúc và trao đổi hằng ngày 
			giữa người với người. Trong thực tế cụ thể, những cách làm ấy đòi 
			hỏi một mức độ ý thức rất thành khẩn và bén nhạy, kết quả của bao 
			nhiêu ngày tháng học hỏi, thực tập và tôi luyện. Chính vì những cách 
			làm ấy chưa được coi trọng đúng tầm, « sau bốn nghìn năm văn hiến », 
			chúng ta vẫn còn chưa « biết học ». Chúng ta chưa rút ra những kinh 
			nghiệm làm người, từ lịch sử đầy máu xương và các câu chuyện Huyền 
			sử. Ngày ngày, chúng ta vẫn còn « sắp hàng thành hai phe Sơn Tinh và 
			Thủy Tinh », trong một chiến trận « nồi da xáo thịt » hay là « gà 
			một nhà bôi mặt đá nhau ». Chúng ta tự hào đã thắng địch thù xâm 
			lăng từ phương Bắc, phương Tây, phương Nam và phương Đông. Nhưng 
			chúng ta đang ngã quị trước tên địch thù đã ăn đời ở kiếp, trong cõi 
			lòng của chúng ta. Tên địch thù ấy là VÔ THỨC, còn mang tên là VÔ 
			MINH trong Tâm Lý Phật Giáo.
			Trong bài chia sẻ kế tiếp 
			sau đây, chúng ta sẽ nhận diện và đối diện, bằng cách « gọi tên » 
			người địch thù muôn hình và muôn mặt ấy.
			*
			*  *
Bài chia sẻ số HAI - Vô Thức : một chế độ sinh hoạt
			Bái chia sẻ số Một trên 
			đây đã cho chúng ta thấy : vào những ngày tháng đầu tiên, sau khi 
			một đứa bé ra đời, Tự Ngã và Vô Thức trùng hợp và ăn khớp với nhau. 
			Nhờ sự can thiệp của người mẹ và những người lớn khác trong gia 
			đình, với tư cách là Siêu Ngả, Bản Ngã của đứa bé bắt đầu từ từ xuất 
			hiện. Tuy nhiên, khi trở nên Bản Ngã,  chưa hẳn đứa bé đã ý thức một 
			cách trọn vẹn về tất cả những hiện tượng đang xảy ra trong nội tâm 
			của mình, thậm chí sau khi biết nói và có khả năng tư duy. Thêm vào 
			đó, chính người mẹ khi đóng vai trò làm Siêu Ngã cho đứa con,  chưa 
			hẳn bà đã ý thức một cách rõ rệt và sáng suốt về tất cả những gì bà 
			đang làm, đang nói và đang cảm, khi tiếp xúc và trao đổi với đứa 
			con. Trong tinh thần và ý nghĩa ấy, Vô Thức hay là Vô Minh có nghĩa 
			là « Không Biết, Ngu Muội, U Tối, hay là Đui Mù trên bình diện tâm 
			linh ».
			Một đàng, Vô Thức có mặt 
			trong tất cả ba cấu trúc Tự Ngã, Bản Ngã và Siêu Ngã. Đàng khác, Vô 
			Thức luôn luôn len lỏi nằm vùng và tác động trong suốt cuộc sống làm 
			người của mỗi cá nhân, ở giữa lòng xã hội. Cho nên, theo ý kiến của 
			một số đồ đệ của Freud, nội tâm có hai cơ cấu tổ chức khác nhau : 
			Một bên là cơ cấu bao gồm Tự Ngã, Bản Ngã và Siêu Ngã. Cơ cấu thứ 
			hai là chiến trường xung đột giữa hai thành tố : Vô thức và Ý Thức.
			Theo lối nhìn của tôi, 
			khi nói đến Vô Thức và Ý Thức, Freud không đề xuất thêm một cơ cấu 
			tổ chức thứ hai của Nội tâm. Đó chỉ là hai chế độ sinh hoạt, hay 
			đúng hơn, hai mức độ thức tỉnh, hai mức độ sáng suốt, hai mức độ 
			hiểu biết, hai CHẤT LƯỢNG làm người. Cho nên, để trở nên Bản Ngã, 
			chúng ta phải thường xuyên phát huy khả năng chuyển biến Vô Thức 
			thành Ý Thức. Đành rằng, đó là một tiến trình không bao giờ kết 
			thúc, chấm dứt và hoàn thành, bao lâu chúng ta còn mang thân phận 
			làm người.
			***
			Sào huyệt thứ nhất của 
			Vô Thức : ngôn ngữ được chúng ta sử dụng hằng ngày
			Khi người mẹ báo cáo với 
			bác sĩ : « Đứa con của tôi rất khó tính. Nó khóc la và quấy rầy tôi 
			suốt ngày. Tôi không làm được gì cả với bé », Vô thức của bà đã có 
			mặt trong tất cả ba mệnh đề đơn sơ và vắn gọn ấy. Bà tưởng rằng : 
			mỗi điều bà trình bày cho bác sĩ khám bệnh  đều là những tin tức rõ 
			ràng và chính xác.
			Thực ra, nếu bác sĩ có 
			những kiến thức chuyên môn về Phân Tâm Học, với những câu hỏi, ông 
			sẽ có khả năng gọi Vô Thức của bà mẹ và đem Vô Thức ấy ra vùng ánh 
			sáng của Ý Thức.
			- Câu hỏi thứ nhất : « Bà 
			vừa trình bày cho tôi nghe : đứa con của bà rất khó tính, có phải 
			vậy không ? Bà làm ơn nói thêm cho tôi biết rõ hơn : cháu khó tính 
			bằng cách nào, cháu làm gì cụ thể ? ». Ở dưới những lời khẳng định 
			của bà mẹ, bác sĩ  đã đào bới, yêu cầu bà tìm ra những tin tức cụ 
			thể, những sự kiện khách quan. Trên đó, bà đã thiết lập những giả 
			thuyết và rút ra những kết luận.
			- Câu hỏi thứ hai : «  
			Như bà vừa nói ra, đứa con của bà khóc la và quấy rầy bà suốt ngày. 
			Suốt ngày có phải là suốt 24 tiếng đồng hồ, không bao giờ dừng 
			lại ? ». Với câu hỏi nầy, bác sĩ đã gọi ra ánh sáng của Ý Thức, một 
			cơ chế tâm lý mang tên là xu thế phóng đại, cường điệu. Theo lối nói 
			bình dân, đó là khuynh hướng « có bé xé ra to », hay là « vơ đũa cả 
			nắm ».
			- Câu hỏi thứ ba : « Như 
			bà đã trình bày, bà không làm được gì cả với đứa con của bà. Nhưng 
			thực ra bà muốn làm gì với cháu, mà bà không làm được ? ». Câu hỏi 
			nầy nhằm giúp bà mẹ định nghĩa một cách chính xác, những động từ mà 
			bà thường dùng. Hẳn thực, khi bà mẹ có một mục tiêu rõ rệt, ngang 
			tầm phát triển của đứa con, bà sẽ có khả năng thực hiện và thành tựu 
			mục tiêu ấy.
			Một vài ví dụ đơn sơ và 
			dễ hiểu như vậy cho chúng ta thấy được một phần nào : Vô Thức không 
			phải là một « bí mật cao siêu, mầu nhiệm ». Trái lại, Vô Thức có mặt 
			ở trước và bao quanh chúng ta. Nhưng chúng ta không thấy, không 
			nghe, không cảm, vì Vô Thức đã trở thành tập quán, xương da, máu 
			thịt của chúng ta.
			Nhằm đánh thức và giúp 
			chúng ta sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác, trong những quan hệ 
			trao đổi hằng ngày, tác giả A. ROBBINS kêu mời mỗi người hãy nhìn 
			năm ngón tay của mình, đặt ra những câu hỏi, trước khi trình bày, 
			phát biểu một ý kiến (5).
			Kỹ thuật năm ngón 
			tay trái
			- Một, ngón tay út phía 
			bên trái, nhìn từ phía lưng, trước khi chúng ta sắp sử dụng những từ 
			như : luôn luôn, không bao giờ, tất cả, mỗi...chúng ta đặt ra cho 
			mình câu hỏi : Luôn luôn không có ngoại lệ à? Tất cả không thiếu một 
			ai cả sao?
			- Hai, ngón tay đeo nhẫn. 
			Các từ : phải, cần, không được, không nên, không thể. Câu hỏi : Ai 
			đã đưa ra mệnh lệnh và qui luật ấy ? Cái gì bắt buộc ? Điều gì cản 
			trở như vậy ? Người nào cấm đoán ?
			- Ba, ngón tay giữa. Các 
			động từ hành động như làm, thương yêu, hợp tác, đóng góp, thực 
			hiện...Cách đặt câu hỏi : Hợp tác...bằng những cách làm cụ thể và 
			khách quan nào ?
			-
			Bốn, ngón tay trỏ. 
			Các danh từ tổng quát và trừu tượng như : người Việt Nam, hòa bình, 
			tự do, hạnh phúc. Cách đặt câu hỏi : Người Việt Nam cụ thể là ai, 
			tên gì, ở đâu ? Những động tác cụ thể, để thể hiện Hòa bình là gì ? 
			Những yếu tố cụ thể cần thành đạt, để có được Tự do là những gì ?
			- Năm, ngón tay cái. 
			Những cách nói về số lượng hay là so sánh, như quá ít, quá nhiều, 
			tốt hơn, quá xấu...Cách đặt câu hỏi : So sánh với ai, cái gì để 
			quyết đoán như vậy ? Hơn là hơn ai ? Thua là thua về phương diện 
			nào ? Dựa vào những chuẩn mực nào để so sánh như vậy ?
			Sào huyệt thứ hai của 
			Vô Thức : Đúng-Sai, Có lý-Vô lý, Tốt-Xấu
			Khi khẳng định về ba cách 
			đánh giá vừa được nêu ra, chúng ta đã ở vào giai đọan thứ ba của một 
			tiến trình tư duy. Đành rằng người nghe chúng ta, sẽ không thể nào 
			hay biết gì về hai giai đoạn thứ nhất và thứ hai. Nhưng chính người 
			phát biểu - là chúng ta - có ý thức đến hai giai đoạn kia hay 
			không ? Bao nhiêu ngộ nhận, hiểu lầm và xung đột giữa chúng ta với 
			người khác, đều bắt nguồn từ « những con đường tắt », hay là « những 
			bước nhảy vọt »  ấy.
			Trở lại với tiến trình 
			của Tư Duy - còn được gọi là những nấc thang của Suy Tư và Lý Luận - 
			chúng ta cần phân biệt ba giai đoạn thiết yếu :
			- Giai đoạn một : Lắng 
			nghe, ghi nhận và tiếp thu những tin tức khách quan và cụ thể, do 
			môi trường sinh hoạt cung ứng. Tôi thấy gì, tôi nghe gì, với đôi mắt 
			và hai lỗ tai của tôi, chứ không phải do dư luận đồn thổi ?
			- Giai đoạn hai : Từ 
			những dữ kiện ấy, tôi đề xuất giả thuyết nào ? Tôi « thuyên giải làm 
			sao », nghĩa là quyết định và chọn lựa ý nghĩa nào, giữa bao nhiêu 
			con đường xuôi ngược khác nhau ?
			- Giai đoạn ba : sau khi 
			rà soát lại những tin tức và trắc nghiệm, kiểm chứng lại giả thuyết, 
			tôi rút ra kết luận như thế nào ? Và với kết luận ấy, tôi nói gì, 
			làm gì, cảm gì với con người xương thịt, cụ thể đang ở trước mặt 
			tôi ?
			Mặc dù với ba bước đi 
			lên, được thực hiện và cân nhắc, một cách có hệ thống và khoa học, 
			tôi vẫn còn phải thú nhận, với tất cả lòng thành tâm và khiêm tốn, 
			 rằng : kết luận cuối cùng của tôi chỉ là một lối nhìn CHỦ QUAN của 
			tôi mà thôi. Một người khác, trong vai trò và vị trí hiện tại, cũng 
			như với những điều kiện giáo dục và kinh nghiệm về cuộc sống... có 
			thể có những tin tức hoàn toàn khác biệt. Từ đó, người ấy sẽ có một 
			lối thuyên giải khác. Và kết luận cuối cùng của người ấy sẽ phản ảnh 
			lợi ích riêng tư và quá trình học vấn của người ấy.
			Dựa vào đâu, tôi khẳng 
			định rằng : Tôi đúng, tôi có lý, tôi có toàn quyền về sự thật ? Phải 
			chăng chỉ vì tôi đang ở dưới một « chế độ Vô Thức » ?
			Để cùng nhau và giúp nhau 
			dấn bước vào con đường Ý Thức, mỗi người trong chúng ta hãy nhìn 
			nhận và đón nhận ba loại câu chuyện khác nhau :
			-  Câu chuyện « Ngôi Thứ 
			Nhất » của tôi,
			- Câu chuyện « Ngôi Thứ 
			Hai » của người khác, đang nói chuyện và tiếp xúc với tôi,
			- Câu chuyện « Ngôi Thứ 
			Ba » của một bà mẹ đang «  cưu mang cả hai chúng ta, trong cùng một 
			bọc trứng », hay là của một người cha « có một con tim và bộ óc bao 
			la như Đại Dương », đón nhận mọi dòng sông và con nước, từ bốn 
			phương chảy về. Họa may, lúc bấy giờ, chân lý sẽ mượn con đường tình 
			thương, đề mặc khải mình.
			Thái độ duy nhất của 
			những người đang nói chuyện với nhau là « cùng với nhau », AND 
			stance. Trong tiếng Anh khoa học ngày nay, có những từ rất nhỏ, rất 
			tầm thường, rất quen thuộc, ở đầu môi lưỡi của mọi người, thậm chí 
			nơi một trẻ em vừa mới bập bẹ học nói. Nhưng giá trị của nó rất lớn 
			lao, kỳ vĩ, về mặt làm người. AND có nghĩa là VÀ. Tôi chuyển dịch là 
			« cùng với ». Trên con đường Ý Thức, cùng với bạn, tôi học lại một 
			lối nhìn. Cùng với bạn, tôi nghe lại với vành tai xôn xao. Cùng với 
			bạn, tim tôi phập phòng, trăn trở, thổn thức và đập nhịp, để nuôi 
			sống mọi tế bào trong cơ thể. Để làm mới lại những quan hệ nối kết 
			chúng ta, trong cùng một Trời Biển, trong cùng một Nước Non. Không 
			có bạn, tôi mất đi một nửa con đường Ý Thức của tôi. Cho nên tôi lại 
			phải đắm chìm trong bóng đêm mịt mù của Vô Thức triền miên.
			Sào huyệt thứ ba của 
			VÔ THỨC : Ý Định của bạn và của tôi
			Mặc dù không có dịp được 
			trang bị về Phân Tâm Học, thi sĩ Xuân Diệu đã có những lối nhìn xuất 
			sắc về Vô Thức (6) :
			«  Ai đem phân chất 
			một mùi hương,
			« Hay bản cầm ca, tôi 
			chỉ thương,
			« Chỉ lặng chuồi theo 
			dòng cảm xúc,
			« Như thuyền ngư phủ 
			lạc trong sương.
			« Làm sao cắt nghĩa 
			được Tình Yêu ?
			« Có nghĩa gì đâu một 
			buổi chiều,
			« Nó chiếm hồn ta bằng 
			nắng nhạt,
			« Bằng mây nhè nhẹ, 
			gió hiu hiu ... »
			Hẳn thực, phải chăng 
			trước khi yêu ai, tôi đã biết ngồi lại, cân nhắc, đánh giá một cách 
			bình tĩnh và sáng suốt, để rồi sau đó tôi có thể một lần dứt khoát 
			chọn lựa và quyết định, mà không sợ mình đã sai lầm ?
			Theo lối nhìn của Tâm lý 
			đương đại, trong địa hạt tình yêu, cũng như trong bao nhiêu sinh 
			hoạt khác, không bao giờ chúng ta có khả năng quyết dịnh , một cách 
			dứt khoát, trong chỉ một lần. Trái lại, để cho tình yêu đâm chồi, 
			nảy lộc, nở hoa và kết trái, ngày ngày chúng ta phải chọn lựa lại, 
			quyết định lại. Từ xưa, tổ tiên và cha ông chúng ta đã nhắn nhủ : 
			Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân. Mỗi ngày, đổi mới. Mỗi ngày, 
			đổi mới lại. Càng ngày càng đổi mới. Bằng không, chúng ta chỉ là 
			« hồn ma phiêu bạt », sống cũng không ra sống. Chết cũng không chết 
			hẳn. Cho nên, chúng ta chỉ là gánh nặng, cho nhiều người cùng chung 
			sống.
			Khi nói về ý định  -của 
			bạn, của tôi hay là của một ai khác- chúng ta cũng cần có một lối 
			nhìn sáng suốt và thức tỉnh như vậy :
			- Thứ nhất, ý định phát 
			xuất từ nhiều tầng sâu của nội tâm. Trong đó, vừa có lối nhìn của tư 
			duy soi sáng hướng dẫn, vừa có những xúc động đang động viên và thúc 
			đẩy tôi.
			- Thứ hai, duy chỉ tôi 
			mới có thể biết ý định của tôi. Tuy nhiên, cái biết ấy rất hạn chế. 
			Còn bao nhiêu yếu tố khác đang thoát ra ngoài vòng ý thức của tôi.
			- Thứ ba, những ai khác, 
			ngoài tôi ra, không thể nào biết ý định của tôi, ngoại trừ sau khi 
			tôi bộc lộ mình cho người ấy. Trường hợp họ đinh ninh rằng họ biết, 
			là vì họ đang bói đoán  hay là dự tưởng mà thôi. Đó không phải là 
			cái biết phát xuất từ suy luận, bởi vì họ không thể nào có những dữ 
			kiện khách quan, để xây dựng tiến trình tư duy của họ.
			Không có những kiến thức 
			cơ bản và rõ ràng về ý định như vậy, chúng ta dễ áp đặt cho kẻ khác, 
			những ý định không có mặt trong nội tâm của người ấy. Chúng ta chỉ 
			« phóng ngoại » những gì đang nung nấu, trong cõi lòng của chúng ta 
			mà thôi. Khi phóng ngoại như vậy, tôi đang chiếu lên khuôn mặt của 
			kẻ khác, một cuốn phim  xoay vần trong nội tâm của tôi.
			Ngược lại, khi kẻ khác áp 
			đặt cho tôi một ý định, điều quan trọng, khả dĩ tạo nên những quan 
			hệ xung đột, hận thù giữa tôi và người ấy, không phải chỉ là ý định 
			mà thôi. Nhưng là vết thương lòng lở lói, do thái độ của người ấy 
			tạo nên, trong lảnh vực xúc động và tình cảm của tôi. Chính vì lý do 
			đó, mặc dù người ấy đã rút lại lời nói của họ hay là cải chính tin 
			tức đã đưa ra, vết thương lòng của tôi vẫn cứ rướm máu, nhức nhối. 
			Hận thù vẫn tiếp tục. Xung đột vẫn kéo dài.
			Để thoa dịu và hàn gắn 
			vết thương trong tâm hồn của một người, như tôi sẽ nói tới, trong 
			những đoạn sau này, là NHÌN NHẬN và ĐÓN NHẬN vết thương xúc động của 
			người ấy. Chỉ biết chừng đó, chúng ta đã bắt đầu có khả năng nâng 
			cao chất lượng làm người, trong bản thân của chúng ta và trong đời 
			sống của nhiều người khác.
			Thêm vào đó, chúng ta nên 
			nhớ rằng : vết thương vừa có mặt, không những trong người bị áp đặt 
			một ý định. Vết thương lòng cũng có mặt trong người áp đặt ý định 
			cho người khác, một cách hồ đồ. Sở dĩ họ làm như vậy, là vì họ đang 
			bị Vô Thức khống chế. Họ đang lo sợ. Họ đang khổ đau. Họ cảm thấy 
			mình không được yêu thương và chú trọng, đúng như lòng mong đợi. Cho 
			nên, khi chúng ta bị áp đặt từ ngoài một ý định không có căn cứ, 
			thay vì chối từ, đính chính với một thái độ tự vệ hay là biện minh, 
			chúng ta bắt đầu hướng đến niềm đau của người ấy :
			«  Bạn vừa nói rằng tôi 
			có ý định phá hoại dự án mà bạn đã tốn rất nhiều công phu, để suy 
			nghĩ và xây dựng. Như vậy là bạn đang khổ đau rất nhiều, vì cảm thấy 
			mình không những không được nâng đở, mà còn bị bạn bè cản trở. Bạn 
			có thể chia sẻ thêm cho tôi hiểu : bạn đang khổ tâm đến độ nào. Sau 
			đó, tôi xin trình bày cặn kẻ ý kiến và thái độ của tôi, đối với 
			bạn... ».
			Hẳn thực, khi một người 
			đang đau khổ, vì bất cứ lý do gì, chất lượng làm người gọi mời chúng 
			ta hãy tìm cách băng bó vết thương lòng còn lở lói của người ấy, 
			trước khi phân trần hoặc giải thích thái độ và tác phong chân thực 
			của mình.
			Sào huyệt thứ bốn của 
			Vô Thức : vấn đề ĐỒNG TRÁCH NHIỆM của mỗi người
			Trên một chuyến tàu làm 
			người, mọi người cùng có mặt với nhau. Họ mang nhiều tên tuổi khác 
			nhau như : Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mỵ Nương hay là Vua Hùng Thứ Mười 
			Tám, và bao nhiêu người khác...Nhưng tất cả đều liên đới với nhau. 
			Như trên đây tôi đã trình bày cặn kẻ, mỗi người  -bất kỳ họ là ai, 
			lớn nhỏ, nam nữ, già trẻ...-  đều đóng ba vai trò cùng một lúc :
			- Thứ nhất là vai trò làm 
			cha mẹ có trách nhiệm truyền thừa cho người đến sau một gia tài 
			phong phú.
			- Thứ hai là vai trò làm 
			người đồng hành và chia sẻ, họp nhau lại thành « một trăm con mắt » 
			để thấy, « một trăm cánh tay » để làm.
			- Thứ ba là vai trò làm một 
			đứa con hạnh phúc, « nuôi lại Tổ Tiên và Cha Mẹ của mình ». Những điều 
			mà quí vị đả bắt đầu, hôm nay tôi tiếp nối. Những điều mà quí vị đã 
			thành đạt, hôm nay tôi mở rộng chân trời. Những điều mà quí vị đã thất 
			bại, hôm nay tôi « rút kinh nghiệm », sáng tạo thêm những con đường 
			cao cả và bao la, thay thế vào những con đường lầy lội.
			Thay vì bước tới và đi 
			lên cùng với nhau như vậy, chúng ta  đã và đang lặp đi lặp lại những 
			con đường mòn xung đột và tranh chấp giữa hai nhân vật « Sơn Tinh và 
			Thủy Tinh ». Tại sao chỉ hai người ấy mới « có tiếng nói », trong 
			vòng bốn nghìn năm văn hiến ? Tại sao duy hai người ấy mới có độc 
			quyền « chỉ đạo » con tim và bộ óc của chín mươi tám  anh chị em 
			khác ?
			Khi chúng ta tố cáo, kết 
			tội, phê phán... chúng ta đưa tay chỉ phe bên kia và qui chiếu về 
			phía họ mọi trách nhiệm. Còn chúng ta, chúng ta từ khước trách nhiệm. 
			Chúng ta khoác cho mình vai trò « làm nạn nhân » hay là « ăn cơm nguội, 
			nằm nhà ngoài », và rình rập chĩa súng bắn lén sau lưng họ.
			Khi chúng ta  lưu tâm đến 
			công việc lên án, kết tội...chúng ta chỉ biết  NHÌN QUÁ KHỨ, nhìn LẦM 
			LỖI. Và chúng ta quên rằng : cuộc sống làm bằng hiện tại và tương 
			lai, Yêu Thương và Hiểu Biết, Thứ Tha và Bao Dung.
			Trái lại, khi chúng ta biết 
			cùng nhau ngồi lại, rút ra những bài học, chắt lọc những kinh nghiệm, 
			lỗi lầm lúc bấy giờ  sẽ trở thành một bàn đạp, một điểm tựa quí hóa, 
			để chúng ta có khả năng dời núi, lấp sông, xây lại những chiếc cầu 
			« đồng cảm ».
			Thêm vào đó, mấy ai trong 
			chúng ta đang sống trong ánh sáng của Ý Thức, để can đảm và sáng 
			suốt chấp nhận rằng : Khi có một lỗi lầm xảy ra bất kỳ ở nơi đâu, do 
			bất kỳ ai khởi xướng, chính tôi đã GÓP PHẦN mình trong đó, không 
			nhiều thì ít. Sở dĩ như vậy, một đàng vì trong bao nhiêu năm, tôi đã 
			THINH LẶNG ĐỒNG LÕA. Đàng khác, vì tôi đã la lối ỏm tỏi, chống đối 
			rùm beng bằng mồm miệng. Đang khi đó, tôi không bao giờ tra tay vào 
			một việc làm cụ thể và hữu hiệu.
			Càng chống đối bằng ngôn 
			từ thuần đơn, tôi chỉ quảng cáo và tạo thêm cơ hội thuận lợi, để cho 
			lỗi lầm càng ngày càng lan tràn và phát triển, như vết dầu loang.
			Nhằm chuyển hóa một vấn đề 
			hay là một lỗi lầm, Phân Tâm Học đề nghị cho chúng ta những đường hướng 
			hành động thiết thực sau đây :
			- Thứ nhất, ý thức và gây 
			ý thức về tiến trình phát sinh của vấn đề, khi vấn đề đang còn ở 
			trong giai đoạn trứng nước. Trái lại, kêu gào giải quyết vấn đề, tổ 
			chức những cuộc đấu tranh bằng mồm miệng, khi vấn đề đã lên tới giai 
			đoạn cực thịnh, chúng ta chỉ làm công việc chữa bệnh dịch hạch, bằng 
			cách « thoa dầu cù là » ngoài lớp da mà thôi.
			- Thứ hai, ở bên dưới mổi 
			vấn đề to hay nhỏ, luôn luôn có một niềm đau, một vết thuơng lòng rướm 
			máu, một nỗi lo sợ sâu xa chưa được ai băng bó. Nếu chúng ta muốn đi 
			nhanh, dùng bạo động, chiến tranh, hận thù để giải quyết, có lẽ 
			chúng ta dập tắt được một ngọn lửa. Nhưng đám cháy sẽ lan tràn, tiêu 
			hủy cả một rừng già, một giang sơn gấm vóc.
			- Thứ ba, trong cuộc sống 
			làm người, để giải quyết bất kỳ một vấn đề gì, chúng ta không thể 
			không ngồi lại với chính những người trong cuộc, thậm chí đó là một 
			trẻ em. Ngồi lại, lắng nghe, tôn trọng quyền phát biểu của người ấy. 
			Quyền ấy cũng là quyền làm người.
			- Sau hết, truớc khi đi 
			vào nội dung cụ thể của vấn đề tranh chấp, xung đột, hãy nhìn nhận 
			và đón nhận vô điều kiện những xúc động của người đối diện, như lo sợ, 
			tức giận, cảm nghiệm bị đàn áp, bốc lột...Đó là những vết thương 
			lòng rướm máu đang khống chế và làm băng hoại chất lượng làm người của 
			họ. Hãy mang lại cho họ chất lượng làm người, tràn đầy và thấm nhuần 
			trong tấm lòng của chúng ta, họ sẽ dần dần trở nên người anh chị em 
			thực sự và thân thương.
			Bốn cách làm ấy đã có mặt 
			trong tác phong « làm Bản Ngã trợ tá » của một bà mẹ, xuyên qua mỗi 
			quan hệ tiếp xúc và trao đổi với đứa con, vừa đi ra khỏi cung lòng 
			ấm cúng của mình. Cuống rốn nối kết hai mẹ con đã được cắt lìa. 
			Nhưng một cuống rốn vô hình khác làm bằng Tình Thương, Hiểu Biết và 
			Tinh Thần Trách Nhiệm đang được sáng tạo và thành hình mỗi ngày. Nhờ 
			vào đó, đứa con có gan mạo hiểm đi vào lòng cuộc đời, để trở thành 
			người.
			Sào huyệt thứ năm của 
			VÔ THỨC : Đời sống Xúc Động
			Gần như trong tất cả mọi 
			cuốn sách được tôi viết ra từ trước cho tới nay, luôn luôn tôi đã 
			dành ra ít nhất một chương, để trình bày những khám phá và nghiên 
			cứu của tôi, về đời sống xúc động. Vừa hoàn tất một tác phẩm, tôi đã 
			nhận thấy ngay lập tức nhiều trọng điểm chưa được « tát cạn ». Bao 
			nhiêu tin tức còn nóng hổi, vừa xuất hiện trên các diễn đàn văn 
			hóa...Hẳn thực, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Phân Tâm Học đã 
			ấn mạnh vai trò của xúc động trong toàn diện cuộc sống của con 
			người. Tuy nhiên, trong vòng 20 năm gần đây, bao nhiêu phương pháp 
			tiếp cận, thuộc nhiều lảnh vực khác nhau, đã ra đời, như khoa học về 
			não bộ, phương pháp « Tạo Trung Gian » trong khoa học xã hội, Thuyết 
			Cấu Trúc trong địa hạt Triết lý...đã cung ứng nhiều nguồn ánh sáng 
			rất thiết thực và độc đáo. Cho nên, tôi không thể không mang đến cho 
			giới trẻ, nhất là ở Quê Nhà, một vài tin tức về hướng đi của Nhân 
			Loại, trong thời đại Nghìn Năm Thứ ba.
			Hôm nay, khi nói đến 
			những xung đột giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, làm sao tôi không nhấn 
			mạnh lại, và nhắc nhở cho đàn em của tôi, rằng : Xúc động là sào 
			huyệt lớn lao nhất của VÔ THỨC. Nhu cầu của con người nằm ở đó. 
			Nhưng đồng thời, động cơ thúc đẩy chúng ta đứng dậy, bước tới, tìm 
			đến với những giá trị lớn lao và cơ bản, trong cuộc sống làm người, 
			cũng bắt nguồn từ đó.  Nếu Sơn Tinh và Thủy Tinh biết ngồi lại với 
			nhau từ buổi đầu,  chia sẻ cho nhau về những xúc động của mình, nhìn 
			nhận và đón nhận nhau, họ đã mở ra cho các thế hệ về sau, những chân 
			trời, những kinh nghiệm, những bài học làm người quí hóa.
			Bài học thứ nhất cần 
			được chúng ta ghi nhận là vấn đề ý thức và diễn tả những xúc động 
			vừa đang hiện hình trong nội tâm
			Nếu không được mang ra 
			ánh sáng của ý thức, chúng nó sẽ tìm cách NGỤY TRANG, để trốn thoát 
			ra ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau.
			- Chiếc áo ngụy trang thứ 
			nhất là Tư Tưởng Nhị Nguyên trong những lời tố cáo, phê phán, qui lỗi : 
			Tao hơn mày thua.
			- Chiếc áo ngụy trang thứ 
			hai là xu thế ước đoán hay là khoác cho kẻ khác những ý định tiêu cực 
			như phá hoại, gian lận, phản bội... : Mày cố ý khinh thường tao.
			- Chiếc áo ngụy trang thứ 
			ba là tập quán chụp mũ, gắn nhãn hiệu, bằng những danh hiệu rất mơ hồ 
			và tổng quát : Mày là đồ cù lần.
			- Chiếc áo ngụy trang thứ 
			bốn là bộ mặt mô phạm, dạy đời : đưa ra những lời khuyên, đề nghị 
			cho kẻ khác những cách giải quyết, theo ý chủ quan của mình, hay là 
			trấn an một cách thông lệ : Thôi, can đảm lên chứ. Con trai mà khóc, 
			người ta sẽ cười chết.
			Bài học thứ hai cần 
			ghi nhận là phương thức đối ứng với những xúc động nơi người khác
			Khi nhận thấy có người 
			đang bộc lộ dưới nhiều hình thức khác nhau, những xúc động của mình, 
			điều chúng ta cần làm trước tiên là nhìn nhận và đón nhận, có nghĩa 
			là coi trọng những cảm nghiệm của họ. Coi trọng như vậy không có 
			nghĩa là đồng ý với cách phản ứng của họ. Nhìn nhận như vậy là « gọi 
			tên » xúc động đang thành hình, xuất hiện hay là còn ẩn lén trong nội 
			tâm của người đang tiếp xúc với chúng ta :
			«  Qua lời bạn vừa nói 
			ra... qua hành vi của bạn mà tôi ghi nhận... hình như bạn đang bực tức 
			và lo buồn... ».
			Chúng ta có thể nêu lên 
			hai hay ba tên gọi khác nhau. Thông thường, những xúc động không bao 
			giờ xuất hiện một mình. Hai hay ba phản ứng có thể dính liền và cùng 
			đi với nhau. Theo tác giả G. JAMPOLSKY (7), lo sợ luôn luôn có mặt, 
			mỗi lần chúng ta tố cáo, chụp mũ hay là có tác phong mất bình tĩnh, 
			khi bộc lộ một xúc động đang trấn áp nội tâm. Và trước nỗi niềm lo 
			sợ của một người, chỉ có tình yêu thương là câu trả lời thích hợp và 
			đứng đắn. Thái độ  « Nhìn nhận » phát xuất từ lòng yêu thương chân 
			thành ấy.
			Nói tóm lại, nhìn nhận 
			xúc động của một người, là khẳng định với người ấy, một cách rõ ràng 
			và chân thực, ba thái độ làm người của chúng ta :
			-              
			Thứ nhất, tôi đang lắng nghe bạn, với trọn con người của tôi,
			-              
			Thứ hai, tôi muốn tìm hiểu bạn, đúng như bạn hiểu chính mình,
			-              
			Thứ ba, tôi tôn trọng và ghi nhận xúc động đang hiện hình 
			trong bạn.
			Khi người khác không được 
			chúng ta nhìn nhận, một cách nghiêm minh và cẩn trọng như vậy, những 
			quan hệ giữa họ và chúng ta sẽ từ từ suy vong và tàn lụi. Trong 
			những trường hợp trầm trọng hơn nữa, bao nhiêu nguyên nhân gây ra 
			xung đột, hận thù, chia rẽ đều len lỏi, nằm vùng ở đó.
			Bài học thứ ba cần ghi 
			nhận : Thương lượng, để diễn tả và chuyển hóa Xúc Động
			Mỗi lần nói đến « chuyển 
			hóa Xúc động », chúng ta nói đến hai động tác cần thực hiện : Một là 
			ý thức về những hiện tượng khá phức tạp  đang xuất phát trong nội 
			tâm. Hai là làm chủ bản thân và đời sống của mình. Có người sử dụng 
			lối nói : quản lý, chuyển dịch từ tiếng Anh « To manage, Managing, 
			Management ». Phần tôi, tôi sở hữu hóa lối nói của Kinh Dịch  « chuyển 
			hóa hay là hóa giải », nghĩa là thay vào, khoác vào một bộ mặt, một 
			hình thức thích ứng hơn, hữu hiệu hơn, có chất lượng làm người hơn. 
			Tôi xin đan cử một ví dụ : Tức giận là quyền làm người của mỗi người 
			cần được tôn trọng và cho phép. Nhưng bộc lộ tức giận bằng những tác 
			phong bạo động, la mắng, nạt nộ, trừng phạt, đánh đập... không thuộc 
			về chất lượng làm người. Trong quan hệ giữa người với người, chúng 
			ta cần sáng tạo những hình thức thích hợp hơn.
			Theo ý kiến của Tác giả 
			Douglas STONE, để có thể chuyển hóa một xúc động, chúng ta bắt đầu 
			bằng động tác THƯƠNG LƯỢNG (8).
			Hẳn thực, giữa Tư Duy và 
			Xúc Động, có những quan hệ nhân quả qua lại hai chiều. Xúc động bắt 
			nguồn từ một lối nhìn, một cách thuyên giải. Nhưng khi xúc động đã 
			có mặt trong nội tâm, nhất là những xúc động quá mãnh liệt và tràn 
			ngập, xúc động lúc bấy giờ sẽ trở lại khống chế tư duy. Trong tình 
			huống nầy, tư duy trở thành con múa rối, bị xúc động lèo lái, chỉ 
			huy, trấn áp. Nói khác đi, tư duy không còn hoạt động dưới ánh sáng 
			của Ý Thức. Tư duy bị khống chế, tê liệt, trong chế độ Vô Thức bắt 
			nguồn từ xúc động không được nhìn nhận và đón nhận.
			Thương lượng là trở lại 
			với ba nấc thang của Tư Duy, mà tôi đã trình bày truớc đây :
			- Nấc thang thứ nhất : 
			tôi đang thấy gì, tôi đang nghe gì, một cách cụ thể và khách quan. 
			Sự kiện được ghi nhận là gì ?
			- Nấc thang thứ hai : tôi 
			thuyên giải thế nào. Phía bên kia, sau khi nghe tôi, người đối diện 
			sẽ thuyên giải theo chiều hướng nào ?  Khi có những khác biệt giữa 
			hai lối nhìn, tôi sẽ đề xuất những quyết định bổ túc thế nào, cho hợp 
			tình hợp lý ?
			- Sau khi thương lương 
			như vậy, nghĩa là lắng nghe mình và lắng nghe người khác, dưới ánh 
			sáng chan hòa của ý thức, công việc còn lại là diễn tả chất lượng 
			làm người, diễn tả một tấm lòng ĐỒNG CẢM của mình.
			Sau khi lắng nghe, trao đổi, 
			tìm hiểu...cả người đối diện cùng với tôi đi đến kết luận nào ? Hay 
			là tôi vẫn tiếp tục tố cáo ? Vẫn khư khư tin tưởng như đinh đóng là 
			người kia cố tình chèn ép tôi ? Đối với tôi, lỗi vẫn hoàn toàn thuộc 
			về phe bên kia ?
			Sơ đồ diễn tả đã được tôi 
			giới thiệu và trình bày trong cuốn sách « Đồng Cảm để Đồng Hành » 
			(9) :
			-              
			Bước thứ nhất : Khi tôi thấy... tôi nghe...
			-              
			Bước thứ hai : Tôi cảm...
			-              
			Bước thứ ba : Xuyên qua xúc động ấy, tôi cần ...
			-              
			Bước thứ bốn : Vậy bây giờ, tôi xin bạn hãy ...
			Và sau khi diễn tả lòng 
			mình, chúng ta hãy lắng nghe nỗi lòng của kẻ khác. Khi đón nhận niềm 
			đau của anh chị em đồng bào, chúng ta sẽ giật mình tĩnh thức, vì thấy 
			rằng : niềm đau của chúng ta chỉ là hạt nước, trong một đại dương 
			bao la.
			*
			*  *
			Bài 
			Chia Sẻ số Ba : VÔ THỨC là một thách đố lớn lao
			Đáng lý khi nói đến những 
			sào huyệt của Vô Thức, tôi còn phải ghi nhận thêm hai loại khác, 
			cũng quan trọng và lớn lao như năm loại kia. Đó là Bản sắc làm người 
			và Quan hệ tiếp xúc.Tuy nhiên, xuyên qua chương nầy, vấn đề về Bản sắc 
			làm người sẽ được đề cập, trong những đường nét chính yếu. Và một 
			bài chia sẻ sau này sẽ khảo sát vấn đề « quan hệ giữa người với người ».
			Khi bàn đến Bản sắc làm 
			người, phần nhiều các tác giả đề nghị nêu lên câu hỏi cơ bản: Tôi là 
			ai, trong lòng cuộc đời ?  
			Robert DILTS (10) hướng dẫn 
			cách trả lời của chúng ta, bằng những câu hỏi khác ăn khớp vào nhau 
			và soi sáng lẫn nhau.
			-              
			Câu hỏi thứ nhất : Cùng đích mà tôi nhắm tới, trong cuộc đời 
			là gì ?  (What for ?)
			-              
			Câu hỏi thứ hai : Cùng đích ấy bao gồm những giá trị nào ?  (Why ?)
			-              
			Câu hỏi thứ ba : Những giá trị bao la, diệu vợi ấy trở nên hiện 
			thực, trong lòng cuộc sống làm người, bằng cách làm nào ? Chương 
			trình hành động ấy nhắm tới những mục tiêu cụ thể nào ? (HOW ?)
			-              
			Câu hỏi thứ bốn : Trong chương trình ấy, động tác cụ thể, mà 
			tôi thực hiện, ngày hôm nay, là điều nào ?  (What next ?)
			-              
			Câu hỏi thứ năm : Tôi làm điều ấy ở đâu, với ai, trong môi 
			trường nào ?  (Where, with whom... ?)
			Với phương pháp « kiến 
			tha lâu đầy tổ » hay là « cháo nóng húp quanh », do Tổ Tiên chúng ta 
			đề xướng, tôi biết rằng : tôi chỉ làm một động tác  rất nhỏ mọn, 
			thuộc tầm tay non yếu của tôi, ngày hôm nay. Còn đám mây đen to 
			tướng kia, đang bao phủ bầu trời của Bà Âu Cơ, sẽ từ từ tan biến đi, 
			khi bình minh trở lại ngày mai. Đằng sau khúc sông eo hẹp, mà tôi 
			đang cố tìm đường lách ra, giữa bao nhiêu lau sậy, Biển Cả của Lạc 
			Long Quân đang chờ đợi tôi.
			Hẳn thực, như Phần Hai vừa 
			qua đã cho chúng ta thấy rõ, Vô Thức bủa vây chằng chịt, trên mỗi đường 
			đi và lối thoát của chúng ta. Và chỗ nào có Vô Thức, chỗ ấy khổ 
			đau cũng có mặt tràn trề, man mác.  Chỗ nào có Vô Thức, chỗ ấy xung 
			đột, chiến tranh, hận thù là hiểm họa có thể bùng nổ, trong từng 
			giây, từng phút. Và tôi còn muốn thêm, một cách cương quyết rằng : 
			Chỗ nào có con người chung sống với nhau, chỗ ấy thế nào cũng có những 
			thế hệ Sơn Tinh và Thủy Tinh. Không những ở Việt Nam. Nhưng trên mỗi 
			xứ sở của Hoàn Cầu.
			Tuy nhiên, tôi không dừng 
			lại, bế tắc và bất động, trước nhận xét hoàn toàn khách quan và hiện 
			thực ấy. Tôi không bi quan, yếm thế. Trước mỗi vấn đề, mà tôi phân 
			tích, tôi luôn luôn trình bày ít nhất một hoặc hai cánh cửa mở rộng. 
			Trước mỗi bóng đen của Vô Thức bao trùm, khống chế, trấn ngự... luôn 
			luôn có một tia sáng Ý Thức kêu mời, khuyến khích. Ai lắng mà không 
			nghe ? Ai nhìn mà không thấy ? Ai tìm học, mà không có một vị thầy 
			hay cô giáo đợi họ đến gõ cửa. Vấn đề chính yếu là chúng ta có can 
			đảm đứng dậy, đi ra vùng ánh sáng hay không ?
			Qua bao nhiêu nhận xét, 
			mà tôi đã trình bày và giới thiệu, trong suốt bài chia sẻ này, tôi 
			chỉ muốn nhấn mạnh một điều :
			Cuộc sống là một thách 
			đố. 
			Vô thức là một thách 
			đố. 
			Khổ đau là một thách 
			đố. 
			Trong mỗi thách đố, cơ 
			may để tiến lên làm người luôn luôn có mặt, một cách tràn trề và lai 
			láng. 
			Nhưng vực thẳm  cũng ở 
			sát bên cạnh, tạo nguy cơ, để chúng ta có thể ngụp lặn và đắm chìm. 
			Cuộc sống luôn luôn là một chọn lựa. Và chọn lựa khó khăn nhất là 
			thay đổi lối nhìn về mình, trong chính nội tâm của chúng ta.
			Cơ may lớn lao và chắc chắn 
			nhất là người anh chị em đồng bào cùng đi, cùng bước với chúng ta. 
			Khi họ rơi, chúng ta nâng đỡ. Khi chúng ta ngã, họ đưa tay kéo chúng 
			ta lên. Khi đèn nhà tôi tắt, tôi qua thắp lại, bên ngôi nhà láng giềng. 
			Khi mặt tôi lọ lem, họ nói cho tôi hay biết: tôi đang lọ lem.
			Nguy cơ, trái lại, xảy 
			ra, khi tôi khước từ người anh chị em. Họ đưa tay, tôi không nắm bắt. 
			Họ kêu cứu, tôi không trả lời. Họ muốn sống, tôi mang tới bom đạn và 
			gươm giáo. Sống cô đơn, cô độc, tôi mất khả năng thông hiểu và sử dụng 
			ngôn ngữ họ thường dùng.
			Nỗi buồn lớn lao của tôi, 
			mỗi lần nghe lại câu chuyện Sơn Tinh và Thủy Tinh, không phải là mối 
			tình tranh chấp của cả hai người đối với Mỵ Nương. Trên Đất Nước Lạc 
			Việt, có hằng trăm, hằng ngàn, hằng triệu Mỵ Nương, còn duyên dáng, 
			mặn mà hơn Nàng Công Chúa Mỵ Nương của Vua Hùng Thứ Mười Tám. Nhưng 
			tôi buồn thấm thía, vì hai người đã một lần sát cạnh nhau, trong bào 
			thai của mẹ. Nhưng bây giờ họ không có khả năng nói chuyện với nhau, 
			bằng tiếng Mẹ Đẻ. Họ đã quên hẳn tiếng nói làm người. Họ trở thành 
			người xa lạ, người Nước Ngoài. Không có Quê Hương, để nhớ đường trở 
			về. Không có Quê Hương, để thương khóc, khi ra đi. Họ không còn có 
			khả năng cùng nhau kết dệt một giấc mơ trọng đại, trong đó có Trời, 
			có Biển, có Núi, có Sông. Có những cánh đồng cò bay thẳng cánh. Có 
			những em bé ca hát líu lo, dẫn trâu về ràn. Có những cô thiếu nữ hò 
			giả gạo, dưới ánh trăng đêm. Có những bà mẹ đang dắt tay con đi vào 
			những hang động Huyền sử của Nước Non.
			Buồn làm sao, vì cả Sơn 
			Tinh và Thủy Tinh đã quên rằng họ là những người « luyện vàng », 
			nghĩa là có khả năng hiến tặng một tấm lòng, mặc dù người Anh hay 
			người Em của mình, trong một phút giây khổ đau, vô thức, mê muội... 
			đã mở lời tố cáo, phê phán, nghi kỵ, hằn học, ganh đua, tranh giành 
			phần hơn. 
			Trong mọi tình huống như 
			vậy, phải chi hai người anh em ấy biết dừng lại « tri chỉ »…tìm cách 
			học hỏi và tâm sự với nhau :
			Em là Nước ? Anh xin 
			làm Biển Cả,
			Cùng theo Em đến những 
			miền xa lạ,
			Gieo vãi Tình Thương, 
			Khung Trời mở rộng,
			Hiến cho đời mầm non, 
			trào nhựa sống.
			Anh là Hoa ? Em xin 
			làm Mảnh Đất,
			Ấp ủ vun trồng, dịu 
			dàng thân mật,
			Dưới mỗi bước chân, 
			hương trầm ngào ngạt,
			Trên khắp Non Sông, 
			nương đồng bát ngát.
			Em là Trời ? Anh xin 
			làm Không Khí,
			Đón nhận 
			Em trong Trái Tim bình dị,
			Em an 
			bình, tâm hồn Anh diệu vợi,
			Em hạnh 
			phúc, cuộc đời Anh phơi phới.
			Anh là 
			Mây ? Em nguyện làm Gió Mát,
			Thổi ân 
			tình vào lòng ai ngột ngạt,
			Gieo thái 
			hòa giữa vùng đất bạo động,
			Nuôi chí 
			khí, đánh thức người tuyệt võng.
			Em là Núi ? 
			Anh nguyện làm Rừng Xanh,
			Động viên 
			Em với tất cả lòng thành,
			Hãy đứng 
			thẳng, nhìn Mặt Trời tỏa rạng,
			Tay vươn 
			cao tiếp thu nguồn Ánh Sáng.
			Anh là 
			Đất ? Em hóa thân thành Nắng,
			Sưởi ấm 
			Anh bằng tấm lòng thầm lặng,
			Suốt mùa 
			đông, chết đi nuôi Anh sống,
			Qua tiết 
			xuân, gọi mời Anh hy vọng.
			Nói và làm 
			được như vậy là luyện mình thành vàng.
			Hẳn thực,  
			theo lối nhìn của văn hào Paulo CUELHO, LUYỆN VÀNG là giấc mơ kỳ vĩ, 
			trong cuộc sống làm người. Khi « va chạm » vào chúng ta, người khác 
			làm bằng với bất kỳ chất liệu gì như đồng, chì, sắt, thép… sẽ từ từ 
			hóa thân thành vàng nguyên chất.
			Tuy nhiên, 
			để có khả năng luyện vàng như vậy, nhân vật chính trong cuốn tiểu 
			thuyết lừng danh của tác giả nầy, mang tên là « Người Luyện Vàng » 
			(11), đã phải từ bỏ tất cả, trong cuộc đời hiện tại của mình, băng 
			ngàn, leo núi, vượt trùng dương, đi vào Sa Mạc. Tại nơi đây, ông đã 
			học lắng nghe tiếng gió, khám phá những dấu chân trên mặt cát muôn 
			hình vạn trạng, thương lượng với những người sinh sống bằng chiến 
			tranh. Thế nhưng, cũng nhờ sa mạc, ông đã biết yêu, đã gặp thầy, đã 
			đào đất tìm được « Hòn Đá Khôn Ngoan », bên cạnh một Kim Tự Tháp. 
			Với báu vật cuối cùng nầy, ông đã biết cách luyện vàng, để có tiền 
			trở về quê hương của mình.
			Tại một căn 
			lều bỏ hoang, mà trước đây ông đã từng chiếm cứ và qua đêm với đàn 
			cừu của mình, ông đã gặp lại giấc mơ ngày xưa của mình. Giấc mơ ấy, 
			tại nơi đây, đã bảo ông ra đi học làm người luyện vàng. Hôm nay, sau 
			hơn hai mươi năm,  cũng giấc mơ ấy, tại nơi đây, bảo ông hãy đào bới 
			những tầng sâu thăm thẳm, ở chỗ ông đã từng nằm trước đây và bây giờ 
			đang nằm. Kỳ thực, một kho vàng lớn lao đang ở trong đôi tay của ông. 
			Ông không ngờ, ông đã kinh qua hai mươi năm, học làm người luyện 
			vàng. Bây giờ, tại căn lều mà ông đã sinh sống suốt cuộc đời thơ ấu, 
			hai bàn tay ông đã đào bới được vàng.
			Sau câu 
			chuyện nầy, văn hào Paulo Cuelho đã kết luận : khi chúng ta cưu 
			mang, ấp ủ và ngày ngày vỗ về một giấc mơ, tất cả trăng sao, gió mưa, 
			đất trời và toàn thể vũ trụ...đều đóng góp phần năng động và giúp 
			chúng ta thực hiện hoài bảo của mình.
			Trở lại với 
			tất cả những điều chúng ta đã khám phá, về những tầng sâu của nội 
			tâm, chúng ta cũng có thể kết luận gống y hệt Paulo Cuelho : Nếu 
			chúng ta cưu mang chất lượng làm nguời, trong đáy sâu thăm thẳm của 
			tâm hồn, chính Vô Thức và bao nhiêu khổ đau, trong lòng cuộc đời, 
			đều là chất liệu quí hóa giúp chúng ta thành người và có khả năng 
			chuyển biến kẻ khác thành người cùng với chúng ta.
			   
			________________________________________________________
			
			
			Bí chú 
			
			1.-          SPITZ R.  - The first year of life -I.U.P N.York 
			1965
			
			2.-          NGUYỄN VĂN THÀNH - Quan hệ Mẹ Con - Tình Người,   
			Lausanne 2000.
			
			3.-          BRAZELTON T.B. - Points forts II - Stock,  Paris 
			2000 
			
			4.-          WINNICOTT D.W.- The family and Invidual development- 
			Basic Books, New York 1965.
			
			5.-          ROBBINS R.- Unlimited Power : a black choice 
			-Simon and Schuster, N.Y. 1997 p.251.
			
			6.-          100 bài thơ tình - Nhà Xb Giáo dục, Hà Nội 1993, 
			tr. 9.
			
			7.-          JAMPOLSKY G. - Aimer c'est se libérer de la peur 
			- Ed. Soleil, Genève 1980
			
			8.-          STONE D. - Difficult Conversations -M-Joseph, 
			London 1999.
			
			9.-          NGUYỄN VĂN THÀNH - Đồng Cảm để Đồng Hành - Tình 
			Người, Lausanne 2003.
			
			10.-        DILTS R. - Applications of NLP - Metapubl. 
			
			CA 1983.
			
			11.-        CUELHO P. - L-Alchimiste - éd. ill. par Moebius 
			1995