Nguyễn Văn Lục
 Nhìn lại cuộc di cư 1954-1955   
			Tôi chỉ là 
			một hạt cát trong cái biển người di cư từ Bắc vào Nam. Đã sấp sỉ 60 
			năm rồi. Những hạt cát ấy nay trở thành mảnh đất phù sa mầu mỡ của 
			miền Nam Việt Nam trước 1975. Những hiểu biết của tôi về cuộc di cư 
			ấy trước đây vẫn chỉ là những mảnh rời. Phần đọc còn nhớ lại lãng 
			đãng, nhớ nhớ quên quên trong cuốn: Cuộc di cư vĩ đại, Sàigòn 
			1956 do chính quyền miền Nam xuất bản. Sách in khổ lớn với rất nhiều 
			trang hình ảnh, trình bày trang nhã và đẹp mắt...
			Nay tôi nhìn 
			lại cuộc di cư ấy trước hết là sống lại hình ảnh kỷ niệm quá khứ.
			Như một cái 
			vẫy cánh của một con chim xa tổ, đã lìa cành, nhìn lại.
			Sau nữa nhìn 
			lại chiến dịch Operation Passage to Freedom của hải quân Mỹ 
			để thấy rằng không có chiến dịch này, cuộc di cư của gần một triệu 
			người có thể không trọn vẹn. Nghĩa là thất bại và để lại nỗi tuyệt 
			vọng cho bao nhiêu người đã không ra đi được.
			Và mặc dù đã 
			có những cố gắng tột bực trong việc đưa gần một triệu người di cư 
			vào miền Nam, nhiều người đã không đi được và bị kẹt lại. Việc bị 
			kẹt lại trở thành một hệ luỵ ê chề không tránh khỏi cho những người 
			còn ở lại miền Bắc như người viết sẽ trình bày ở cuối bài viết.
			Và nếu nói 
			theo một thứ lý luận của người trong cuộc, tức người di cư từ Bắc 
			vào Nam, người viết nghĩ rằng đã có một thời những con người di cư 
			ấy không có một thời đại nào khác, không có thứ lịch sử nào khác 
			ngoài thời đại và lịch sử mà họ đã sống, đã trải nghiệm.
			 Đó là thời 
			đại của cuộc di cư không tiền khoáng hậu đã để lại dấu tích không 
			phai nhòa trong mỗi mảnh đời của họ. 
			Chẳng hạn, 
			hình ảnh bà mẹ còn giữ lại chiếc đồng hồ quả lắc cũ treo trên tường 
			cũng như những tấm phản đã mang vào miền Nam mà cho đến bây giờ, bà 
			vẫn nằm trên đó. Hay hình ảnh đồng bào Thiên Chúa giáo xứ Kẻ Sặt còn 
			mang theo quả chuông nhà thờ. Họ đã để lại hết, nhưng quyết đem cho 
			bằng được quả chuông này tượng trưng cho niềm tin sắt đá của họ.
			Và hơn mọi 
			thứ khác, mỗi người di cư đã không mang được thứ gì khác ngoài niềm 
			tin rằng chủ nghĩa cộng sản là tàn bạo mà bằng bất cứ giá nào họ 
			cũng phải ra đi.
			Và đó là tất 
			cả phần đời của họ còn lại.
			Vì thế, tôi 
			bùi ngùi nhớ đến những người đã muốn đi mà không đi được và chịu cái 
			cảnh đọa đầy thêm mấy chục năm và nay đã hơn nửa thế kỷ trôi qua.
			Còn đối với 
			người Mỹ, qua chiến dịch của hải quân Hoa Kỳ, ngoài vấn đề chi phí 
			vật chất đồ sộ trong việc giúp người tỵ nạn di cư vào Nam, tôi còn 
			nhìn thấy ở đấy tính cách nhân đạo của chiến dịch này. 
			Cũng từ đó 
			tôi nhận ra hai điều: những tấm lòng của thủy thủ các tầu Mỹ, đồng 
			thời nghị lực phi thường với một quyết tâm sắt đá cuả người di cư. 
			Sự phi thường ấy làm ngỡ ngàng, gây ngạc nhiên cho các thủy thủ đoàn 
			trong các chuyến tầu của Mỹ chở người tỵ nạn vào Nam.
			
			“The determination of the men of Viet Nam: determined to worship 
			their God, determined to be free, determined to escape to be so”.
			Điều mà tôi 
			muốn nhắc lại ở đây là cái quyết tâm của lớp người di cư miền Bắc, 
			bằng mọi giá, giá nào cũng trả để di cư vào miền Nam. Không có cái 
			quyết tâm ấy, họ đã không đi được.
			 Cái quyết 
			tâm ấy còn giúp họ sau này xây dựng tương lai họ và cho con cái họ.
			Việc di cư 
			ấy nói cho cùng chỉ là sự kéo dài tình trạng trốn chạy cộng sản mà 
			không
			phải đợi đến 
			Hiệp định Genève, 1954. Ngay từ đầu thập niên 1950, phong trào tỵ 
			nạn cộng sản đã thành hình dưới hình thức ”phong trào nhập thành", 
			hay nói nôm na là phong trào “dinh tê”. Đã có bao nhiêu người 
			tìm mọi cách dời bỏ khu “an toàn Phát Diệm”, thoát đi bằng đường 
			biển, từ cửa Cồn Thoi, ra Hải Phòng vào những năm sau 1950? Và đã có 
			bao nhiêu người có tiền bạc của cải đã chạy trốn vào Nam khi mà Hiệp 
			định Genève chưa thành hình? Không phải theo Tây, cũng chẳng theo Mỹ, 
			không theo Nhật, không theo Tầu cũng chẳng vì theo Thiên Chúa giáo 
			mà người ta chọn đứng về phía này, phía nọ. Tất cả đều là những chọn 
			lựa bất đắc dĩ chỉ vì không thể sống chung với người cộng sản được. 
			Cộng sản trước đây và cộng sản bây giờ cũng vậy.
			Cho nên đơn 
			giản là chỗ nào có cộng sản thì người ta chạy. Liều mạng mà chạy. 
			Chết cũng chạy. Cuộc di cư 1954-1955 và cuộc di tản 1975 đều giống 
			nhau ở một điểm: không chấp nhận sống dưới chế độ cộng sản. 
			
			Không phải 
			chỉ người Việt mới trốn chạy như thế. Dân chúng Đông Âu, từ những 
			nước chư hầu của Nga cũng tìm cách trốn sang Tây Âu. Vào măm 1966, 
			6110 người Đông Đức đã đào thoát  được sang Tây Đức. Tính từ năm 
			1949 đến 1952, 228.500 người đã trốn thoát khỏi các vùng do Nga Sô 
			kiểm soát để tới Bá Linh. Và cứ như thế, 5 vạn người Tiệp Khắc đã 
			trốn ra khỏi nước họ.{Trích Cuộc Di Cư lịch sử, Phủ Tổng Ủy Di Cư tỵ 
			nạn, trang 276}
			Cũng vậy, ở 
			Hung Gia Lợi, ở Roumanie, ở Albanie, ở Ba Lan. Người ta cũng liều 
			mạng trốn ra đi để tìm Tự Do.
			Vì vậy, thế 
			giới đã nhìn rõ thân phận người di cư, thấy họ lao đao khốn khổ liều 
			mạng và đã dơ tay cứu vớt và không khỏi không khâm phục họ.
			Theo nhận 
			xét của phần đông thủy thủ Mỹ, nhiều người di cư đem theo những thứ 
			lỉnh kỉnh không có đáng một đồng xu. Như một cái chậu, một cái thùng 
			bằng nhựa, một tay nải quần áo cũ. Những thứ lỉnh kỉnh không đáng gì. 
			Phải, Nothing. Nhưng lại chính là gia tài của họ. 
			Sản nghiệp 
			ra đi có khi không có gì, có khi chỉ là đôi tay nải. Nhưng lòng lại 
			tràn ngập niềm tin tưởng.
			Thủy thủ 
			Majesky trên chiến hạm Menard đã viết thư về cho cha mẹ tả lại hoàn 
			cảnh khốn cùng của những người di cư chân đất, chân không, không một 
			thứ gì mang theo, bước lên tầu.Trong khi đó, chẳng hạn trên chiến 
			hạm General House trớ trêu thay, có những thương gia Tầu giầu 
			có đem theo cả gia sản tới hàng 200 tấn kiện hàng đủ loại. {Trích 
			Operation Passage to Freedom, OPTF, trang 194}
			Họ còn ngạc 
			nhiên như Zeigler và các bạn ông không hiểu được khi thấy những con 
			người tầm vóc loắt choắt bé nhỏ ấy vác những bao gạo 200 pounds lên 
			tầu LTS một cách nhẹ tâng, trong khi thủy thủ phải cần hai người Mỹ 
			mới giúp bê nổi những bao gạo ấy {ta gọi nôm na tầu LST là tầu há 
			mồm, tầu dùng để chuyên chở xe tăng, xe cộ v.v.}.
			Hình ảnh con 
			tầu LST rất quen thuộc đối với người tỵ nạn vốn chỉ dùng để chuyên 
			chở xe tăng, vũ khí hạng nặng dùng để giết người, nay chở những con 
			người tỵ nạn bất hạnh. Và đã có 26 chiếc, {có tài liệu viết 74 chiếc 
			là không đúng, vì tất cả số tầu của hải quân Mỹ tham dự vào chiến 
			dịch là 113 chiếc bằng nhiều chuyến hải trình Hà Nội, Hải Phòng, 
			Sàigòn}. Dù chỉ là chiếc tàu nhỏ, bình thường chở được 170 người, 
			tối đa 700 người, nhưng trường hợp khẩn cấp, có thể chở đến cả 1000 
			người di cư. Các tầu LST có thể cập bến dễ dàng để vớt người tỵ nạn, 
			sau đó có thể dùng để chở ra các tầu lớn. {Trích Operation Passage 
			to Freedom, Ronald B. Frankum, Jr. trang 137}
			Đó là những 
			chiếc LST- 526, LST-803, LST-825, LST- 840 v.v. Nhiều bạn đọc có thể 
			còn nhớ tên những chiếc tầu LST thân yêu này…
			
			Các tầu há mồm LST là biểu tuợng cho những con tầu chở người di cư
			Những người 
			di cư ấy đều quyết tâm như thế mới đi được. Người ta nói đến cuộc bỏ 
			phiếu bằng đôi chân. Có đến gần 2 triệu đôi chân đã bỏ phiếu như thế. 
			Đó là đôi chân trần, chưa hề biết xỏ chân vào đôi giầy, đôi dép. Họ 
			là những người dân quê nghèo nàn, cơ cực. 
			Cũng không 
			phải chỉ có đa số là người Thiên Chúa giáo di cư mà thôi như đã có 
			sự hiểu lầm từ trước đến giờ.  Cuộc di cư 1954-1955 là của toàn thể 
			dân chúng miền Bắc, Kinh có, Thượng có và đủ thành phần xã hội và 
			tôn giáo.
			Họ thuộc đủ 
			loại người, đủ thành phần xã hội. Đồng bào các tỉnh miền Thượng như 
			Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang {vốn là những nơi sào 
			huyệt của Việt Cộng} cũng cùng với đồng bào Thượng ở Hòa Bình bỏ lại 
			tất cả rừng núi quen thuộc lần mò về Hà Nội để vào Nam. Đã có hơn 10 
			ngàn người Nùng ở Hòn Gai được di cư dưới quyền đại tá Sung. Có 2340 
			người Nùng gốc Tầu đi vào Nam ngày 2/9 trên tầu Montrose. Có chuyến 
			tầu như Beauregard chở các người thuyền chài và gia đình họ mang 
			theo cả dụng cụ đánh cá. Đặc biệt hơn cả, có những gia đình và có 
			khi cả một làng ở trong các vùng do Việt Minh kiểm soát như Vinh, 
			Nghệ An tìm cách trốn thoát khỏi sự kiểm soát của cộng sản.  Tỉ dụ 
			dân chúng ở Ba Làng, huyện Tĩnh Gia tụ họp hơn 2 vạn người đòi di cư 
			bị việt cộng nã súng bắn giải tán.Tỉ dụ những người di cư ở Vinh đà 
			trải qua bao gian nan, khốn khó mới tìm được con đường đi đến tự do. 
			Sau này, họ tụ tập định cư trong khu vực Bình Giả, Bà Rịa. 
			
			Trên bước 
			đường đi tìm Tự do, nhiều người đã lên được tàu, nhưng vì quá mệt 
			mỏi, kiệt sức đã chết trên tầu.
			Trên chiến 
			hạm Telfair, chuyến thứ tư chở người di cư vào miền Nam của Hải quân 
			Mỹ ngày19/8. Người ta ghi nhận đã có hai người di cư chết trên tầu 
			vì sốt rét và quá kiệt sức và bù lại có hai trẻ sơ sinh ra đời: “The 
			deaths were caused by malaria and general weakness. The physical 
			condition of the Vienamese as they boarded the American ships was 
			often observed as desperate. Many of the Vietnamese had traveled 
			great distances to reach the embarcation center, often at peril to 
			them and seldom without hardship”. Căn bệnh sốt rét và sự ốm yếu 
			chung đã gây nên chết chóc cho nhiều người. Người ta nhận thấy rằng 
			tình trạng cơ thể của người Việt Nam khi họ lên những chiếc tầu Mỹ 
			thường là tuyệt vọng. Nhiều người Việt Nam đã phải đi những đoạn 
			đường rất dài để đến trung tâm tiếp cư, thường là nguy hiểm cho 
			chính bản thân họ và ít khi mà không có sự gian khổ. {Trích OPTF, 
			trang 82}
			Nhưng nếu 
			tính chung tất cả cuộc di cư thì đã có 66 người di cư chết trên biển 
			vì nhiều nguyên do, nhưng đồng thời ghi nhận có 184 trẻ sơ sinh trên 
			các tầu chiến.
			Và còn bao 
			nhiêu người bỏ xác trên biển trên những bè mảng ghép vội vàng để đi 
			tìm tự do?
			Tình trạng 
			đó cho thấy người di cư đã phải trả giá cho chuyến hành trình đi tìm 
			tự do của họ. 
			Bất kỳ ai, 
			đã là người Việt Nam đều có đủ lý do chạy trốn cộng sản. Cho nên, họ 
			đều có một quyết tâm phi thường dám từ bỏ tất cả chỉ để mưu cầu một 
			cuộc sống tự do. Và không thể có lời biện minh nào hùng hồn, xác tín 
			và rõ ràng hơn được nữa.
			Có thể đó là 
			đôi chân của một ông già trên 60 tuổi, râu tóc đã bạc mà chính ra 
			chỉ còn đủ thì giờ để nghĩ tới chuyện đời sau, cụ đang ngồi nghỉ mệt 
			qua ống kính của William Ray Park trên tầu USS SKAGIT và người ta 
			hỏi: Sao cụ lại bỏ xứ ra đi. 
			Chắc là cụ 
			có sẵn câu trả lời.
			Hay là hình 
			ảnh một bà cụ cõng cháu gái di cư, mang tương lai tuổi trẻ lên đường. 
			Hay câu chuyện về những trẻ em Việt Nam thưởng thức món quà tự do. 
			Đó là những chiếc kẹo Mỹ mà lần đầu tiên trong đời các em đã được ăn.
			Henry Đỗ, 
			một trong những đứa trẻ đã nhận ăn cái kẹo do người thủy thủ Mỹ cho 
			năm 1954 viết lại như sau: “I cannot forget the first moment I 
			stepped onto a American ship to go to South Viet Nam. A sailor 
			handed me a candy, at the moment, I could not say thanks in English… 
			Oh, my God, it was very very delicious. It was the best candy in the 
			world. 21 year after, the sweet moment I meet the candy again at 
			American soil...I can eat the candy anytime I want, but I didn’t eat 
			many candy…I eat the candy only I want to remember the sailor and 
			the ship that brought me and my family to the freedom land”. {Trích 
			lại trong bài viết Passage to Freedom in Việt Nam của Gertrude 
			Samuels, số tháng 6-1955} Tôi không thể quên được cái giây phút 
			đầu tiên tôi bước lên một chiếc tầu Mỹ để đi đến miền Nam Việt Nam. 
			Người thủy thủ đưa cho tôi cái kẹo. Lúc ấy, tôi không nói được câu 
			cám ơn bằng tiếng Anh. Ôi, trời ơi! Ngon thật là ngon. Cái kẹo ngon 
			nhất thế giới. Hai mươi mốt năm sau, cái giây phút dễ thương là khi 
			tôi lại trông thấy kẹo ở đất Mỹ. Tôi có thể ăn kẹo bất cứ lúc nào 
			tôi muốn, nhưng tôi không ăn nhiều kẹo đâu... Tôi ăn kẹo chỉ để muốn 
			nhớ đến người thủy thủ và chiếc tầu đã đưa tôi và gia đình đến vùng 
			đất tự do.
			Tôi cũng 
			muốn viết ra đây câu chuyện cảm động xảy ra trên tầu General 
			Brewster, chuyến chót của hải quần Hoa Kỳ chở người di cư vào ngày 
			15/3/1955. Trong chuyến tầu chót này, có một người cha và đứa con 
			gái phải ra đi vì người vợ muốn ở lại Hà Nội. Họ đành chia tay. Đó 
			cũng có thể là một thảm cảnh biểu tượng chia lìa trong một số gia 
			đình di cư khác.  Như trường hợp nữ tài tử điện ảnh Kiều Chinh mà 
			chúng tôi trích dẫn ở cuối bài viết. 
			Có những 
			cuộc chia lìa bà con, anh em, họ hàng, làng nước. 
			Cũng đành 
			đoạn mà bỏ đi thôi. Nào ai muốn thế đâu? Sau này, liên lạc Bắc Nam 
			giới hạn vào một tấm bưu thiếp in sẵn. Nhưng dù chỉ là một tấm bưu 
			thiếp, gia đình tôi ở trong Nam gửi ra cho anh tôi nhiều lần, nhưng 
			đã không bao giờ nhận được thư trả lời của người anh Cả ở lại Hà Nội.
			Họ đã vứt 
			thư của gia đình chúng tôi.
			
			Nhưng dù sao, cuộc chia lìa 1954, người di cư miền Bắc  mới chỉ mất 
			nhà, mất cửa
			1975, kẻ ra 
			đi mới là kẻ mất nước
			Bên cạnh 
			những khổ đau, cuộc di cư ấy không thiếu những nét đẹp
			Tôi vẫn thấy 
			đẹp và ý nghĩa là câu chuyện do một anh thủy thủ người Mỹ tên John 
			Ruotsala trên chiến hạm Montrose kể lại như sau: Khi bước lên tầu, 
			các người di cư phải xịt thuốc DDT để diệt trừ chấy rận. {Mỹ chở 
			sang 6 tấn DDT bột dùng trong công tác này} Nhiều người di cư hoảng 
			sợ vì phải cởi quần áo, nhất là phụ nữ. Trong đó có trường hợp một 
			bé gái khoảng 9 tuổi bế đứa em khoảng 3, 4 tuổi. Thủy thủ Mỹ đã 
			chẳng may xịt thuốc vào mắt đứa em 3 tuổi. Nó khóc, chị nó bình tĩnh 
			dỗ dành em và lau mắt cho em. Sau đó như không có chuyện gì xảy ra, 
			ôm em bước lên thang để lên tầu.
			Câu chuyện 
			có vẻ bình thường, nhưng lại là những hình ảnh đẹp nhất trong cuộc 
			di cư này.
			Nó cho thấy 
			tình nghĩa đùm bọc của gia đình Việt Nam, cho thấy tình chị em, cho 
			thấy tình người, cho thấy tình liên đới nhân loại vượt lên trên 
			những dấu ấn chính trị vốn đè nặng lên tâm trí người tỵ nạn.
			Hình ảnh đó 
			làm thủy thủ đoàn cảm động và nhận ra tính cách nhân đạo, tình người 
			của cuộc di cư này. Đó là một khía cạnh đặc biệt bị quên lãng mà chỉ 
			đến bây giờ đọc lại tôi mới nhận thức được rõ rệt về điều đó.
			Và những 
			thủy thủ đoàn trên các chiến hạm Mỹ có quyền hãnh diện về điều này.
			Điều mà cô Anne Peterson phục vụ trên tầu Consolation đã 
			nói thay cho tâm tình của họ:  “We were just heartbroken because 
			we couldn’t do anything to help them”. Chúng tôi chỉ đau buồn vì 
			chúng tôi đã không thể làm được gì để giúp cho họ”. {Trích Operation 
			Passage to Freedom, OPTF, trang 123}
			Trong cuộc 
			di cư này, cần ghi nhận rất nhiều thiện chí và những tấm lòng bên 
			cạnh những con tầu chiến của hải quân Mỹ.
			Đoàn lũ ấy 
			người di cư từ khắp nơi trên giải đất miền Bắc và một phần miền 
			Trung, trẻ già lớn bé mà phần lớn là trẻ con đã được bồng bế, gồng 
			gánh ra đi như thế.
			Ra đi để tìm 
			ra một con đường sống... ý nghĩa, có tự do cho tương lai của họ.
			Có lẽ đây là 
			cuộc di cư vĩ đại và có ý nghĩa nhất sau cuộc di cư trong việc phân 
			chia nước Ấn Độ làm hai giữa Hồi Quốc và Ấn Độ vào năm 1947. Cuộc di 
			cư này cũng nhắc nhở mọi người đến cuộc di cư từ Bắc Hàn sang Nam 
			Hàn vào mùa thu năm 1950. 
			Nó là bằng 
			cớ cho thấy không thể nào sống chung với cộng sản được, dù là cộng 
			sản Bắc Hàn hay cộng sản Việt Nam.
			Hễ đã là 
			cộng sản thì con người muốn làm người không thể sống chung được.
			Khi đã vào 
			đến miền Nam, họ nghĩ ngay đến việc tái định cự lập nghiệp. Và vô số 
			những trại định cư sau này ra đời. Có những địa danh mới, địa chỉ 
			mới trên bản đồ miền Nam Việt Nam. Tên nó là Gia Kiệm, Hố Nai, Cử 
			Chi, Phước Lý, sau này là Rạch Giá với các kênh 1,2,3,4.
			Hố Nai đi 
			hàng đầu với 26.912 người ở giai đoạn đoạn đầu. Sau này con số người 
			đến Hố Nai là trên 40 chục ngàn người mà dự liệu lúc ban đầu chỉ là 
			10 ngàn người. Gia Kiệm với 10.107, Củ Chi với 4196 người và không 
			thể quên Xóm Mới với 8606 người. Có những nơi ít đến không hiểu được 
			như Đức Hòa, Chợ Lớn với 90 người, Chợ Gõ chỉ còn 50 người và Cây Co 
			chỉ có 32 người.
			Tỉnh đứng 
			đầu trong việc dự liệu đón tiếp đông đảo người tỵ nạn là Xuân Lộc 
			200.000 người, Biên Hòa 100.000 người. {Trích OPTF, trang 98}
			Trong số 
			những người mới di cư vào Nam thì đến 60% là nông dân, 10% là dân 
			thuyền chài. Còn lại trải đều cho công chức, sinh viên, thợ thuyền 
			và người buôn bán.
			Những người 
			dân nghèo, 80%, ít học tưởng đi theo Việt Minh  mới phải thì lại là 
			thành phần đông đảo sợ hãi cộng sản nhiều nhất. Và đi nhiều nhất. Đi 
			rất đông. Đi cả nhà. Và nhất là đi cả làng. Không phải một làng mà 
			nhiều làng. 25 ngàn người trong cùng khu vực không hẹn mà cùng nhau 
			bỏ ra đi.
			Bài học ra 
			đi ấy nhắc nhở chúng ta nhiều điều. Nhưng cái chính là dạy cho người 
			cộng sản một bài học: con người không thể sống yên ổn và tử tế với 
			người cộng sản được. Phải ra đi thôi. Bài học đó còn được nhắc lại 
			một lần nữa vào năm 1975, nhưng xem ra người cộng sản vẫn chưa thuộc 
			hay không muốn học vì cái bệnh vĩ cuồng của họ đã che mờ tất cả.
			Và tôi mường 
			tượng gần một triệu người di cư miền Bắc thì nay sẽ là bao nhiêu 
			người? Họ ra sao bây giờ? Họ là những ai? 
			Lịch sử một 
			đời người và lịch sử cả một dân tộc qua cuộc di cư này đánh dấu 
			những thời kỳ đen tối nhất của dân tộc dưới gọng kìm cộng sản, đen 
			tối hơn cả thời kỳ thuộc địa 100 năm thời Pháp thuộc, bị đè nén và 
			sợ hãi hơn 1000 năm đô hộ Tầu. Nói ra mà hổ thẹn.
			Nhân chứng 
			cho những thời kỳ đen tối của lịch sử đất nước với con người của 
			1955 và 1975 vẫn còn cả vài triệu người.
			Tôi viết bài 
			này để làm chứng cho cái thời kỳ đen tối ấy, cho thế hệ sau hiểu…
			
			Cuộc di cư  1954-1955 dưới mắt người Cộng sản
			Không gì tức 
			tối bực bội hơn cho chính quyền cộng sản là chiến thắng xong, đuổi 
			được  thực dân Pháp phải ra đi. Vậy mà vô lý thay gần một triệu 
			người đã ùn ùn kéo nhau bỏ chạy cộng sản. Gần một phần mười dân số 
			toàn miền Bắc đấy. {Miền Bắc gồm 12 triêu người và chiếm 60.900 dặm 
			vuông, miền Nam 11 triệu người và chiếm 66.300 dặm vuông} Ngay những 
			người dân trong vùng bị Việt Minh kiểm soát từ 1946 như Vinh, Nghệ 
			Tĩnh càng lo bỏ chạy bán sống bán chết. Họ phải hiểu tại sao chứ? Họ 
			phải làm gì để hàng triệu người đã trốn chạy như vậy? Phải có một 
			câu trả lời chứ?
			Nhưng họ cố 
			tình không cần biết điều ấy và tìm cách bôi nhọ hình ảnh cuộc di cư 
			1954-1955. 
			Vì thế, cộng 
			sản Hà Nội đã cho xuất bản cuốn sách: Sự thật về vấn đề di cư ở 
			Việt Nam, Hà Nội. Đó là sự thật của họ không phải là sự thật của 
			người di cư. Cuốn sách này không dễ mấy ai còn giữ lại. Nhưng nó 
			được tuồn sang Pháp. Sau này, ông linh mục, giáo sư Trần Tam 
			Tỉnh, dạy ở tỉnh bang Québec, Canada đã dùng tài liệu này viết một 
			cuốn sách rất bôi bác và tồi tệ về cuộc di cư này, đó là cuốn 
			Dieu et César. Les catholiques dans l’histoire du Việt Nam, Rome 
			ngày 19-5-1975, Vương Đình Bích, môt linh mục nữa đi theo cộng 
			sản mà tôi gọi là một trong bọn Tứ nhân bang đã chuyển ngữ ra tiếng 
			Việt và đã đổi nhan đề cuốn sách thành:Thập giá và lưỡi gươm.
			Vương Đình Bích 
			cũng bỏ không dịch câu: Les catholiques dans l’histoire du Viet Nam.
			Sự tùy tiện của Vương Đình Bích còn thấy ở phần cuối cuốn sách. 
			Ông đã bỏ phần Bibliographie selective của tác giả. Ông tự nhét thêm 
			bài viết của Nguyễn Quang Huy, trưởng ban tôn giáo chính phủ về vấn 
			đề phong thánh vốn chẳng ăn nhập gì với cuốn sách Dieu et Cézar. Đồng 
			thời cho in bức thư chung của Hội đồng giám mục Việt Nam 1986.
			Phần ông Trần Tam Tỉnh, trong lời nói đầu của cuốn sách, ông đã 
			viết: “Ce livre écrit avec amour par un des membres fidèles, de 
			cette église catholique vietnamienne, n’a autre ambition que de 
			présenter la vérité historique} Cuốn sách này được viết ra do một 
			trong những đứa con trung thành của giáo hội Thiên chúa giáo Việt 
			Nam, không có một tham vọng nào khác ngoài việc trình bày sự thật 
			lịch sử. {Trích Dieu et César, Trần Tam Tỉnh, trang 13}
			Nay thì chúng ta thử tìm 
			hiểu xem, căn cứ vào cuốn sách để thứ tìm hiểu thứ lịch sử mà ông Trần 
			Tam Tỉnh đưa ra là thứ lịch sử nào, một thứ lịch sử sao chép theo 
			tài liệu của cộng sản Hà Nội trong cuốn: Sự thật về vấn đề di cư 
			ở Việt Nam?
			Và đây là những sự thật 
			dưới mắt Hà Nội:
			        - Có những tin đồn 
			rằng quân Mỹ sẽ ném bom nguyên tử tiêu diệt miền Bắc.
			        - Đức mẹ được 
			giao chức năng chính trị là để giải thoát những kẻ tôn sùng ngài.
			        - Chúa Ki tô đã 
			đi vào Nam. 
			        - Đức mẹ đã rời bỏ 
			Bắc việt. Trong tập Passing the Torch, một trong những tuyển tập gồm 
			18 cuốn cũng nêu ra một nhan đề như sau: “The Blessed Virgin is 
			moving South”, trích trang 95 {Đây là một vài khẩu hiệu mà ngày nay 
			đọc lại người viết không mấy làm thích thú. Những khẩu hiệu này do đại 
			tá Edward Lansdale in và phổ biến chung quanh Hà Nội và Hải Phòng.
			Sau 
			này đại tá Lansdale được giải thưởng:  Distinguished Service Medal 
			on January 8, 1957. Ông là người trực tiếp chỉ huy những chiến dịch 
			tâm lý chiến vào giữa thập niên 1950, Psychological war-fare 
			projects}.
			        - 
			Lời một nhân chứng: Tôi không cầm nổi nước mắt, họng tôi nghẹn ngào, 
			trí óc ghi sâu bức tranh thảm cảnh di cư đó của những con người vô 
			tội bị giật lôi ra khỏi nơi chôn nhao cắt rốn, rồi bị bốc lên xe, 
			chở đi và bị đối xử chẳng khác nào những súc vật người ta chở tới lò 
			mổ. Một bầu khí rất nặng nề, còn những người ở lại thì nín bặt không 
			dám nói ra, vì chắc là sợ bị trả thù bởi những tay bạo chúa tổ chức 
			di cư.
			        - 
			Một tổ chức phá hoại có hệ thống tại Hà Nội trước khi quân Pháp rút 
			đi, chẳng hạn sẽ làm hỏng kho dầu xe buýt, phá hư các máy móc và đặt 
			mìn đánh sập chùa Một cột, ngôi chùa đầy giá trị lịch sử và tôn giáo 
			có từ hằng trăm năm.
			        - 
			Giám mục Phát Diệm, Lê Hữu Từ thì nhảy lên chiếc ca nô cuối cùng của 
			quân Pháp đang rời cảng, bỏ quân lính của ông tại chỗ. Một vài tên 
			thấy giám mục mình hành động hèn nhát như thế, bèn nổi giận đến nỗi 
			lấy lựu đạn ném theo ông.
			         - 
			Bị các linh mục lôi kéo vào cuộc mạo hiểm nhục nhã và bi đát này, họ 
			cảm thấy mình bị bỏ rơi do sự phản bội của quân Pháp.
			        - 
			Việc Đức mẹ hiện ra: một linh mục đã dàn dựng mặc áo Đức mẹ cho một 
			thiếu niên và đã cho em đứng vào sau bàn thờ Đức mẹ Fatima. Trước 
			mấy cây nến lung linh, một vài nhà “đạo đức” coi đó là Đức mẹ hiện 
			ra, nói với họ một giọng dịu dàng nhưng minh bạch rằng, phải từ bỏ 
			đất Cộng sản với bất cứ giá nào, mà tìm lánh sang vùng đất tự do, 
			Đức mẹ sắp bỏ miền Bắc. {Trích dẫn tóm tắt Thập giá và Lưỡi gươm, 
			Trần Tam Tỉnh, từ các trang 101-112}
			
			Sau này 
			những khẩu hiệu có tính cách tuyên truyền này được nhóm Giao Điểm, ở 
			hải ngoại rêu rao cùng khắp trên báo chí của họ.
			Sau đây, xin 
			dẫn một chứng từ của những người còn phải ở lại phải hứng chịu sự 
			tuyên truyền của cộng sản, cái thời 54-55 của thế kỷ trước. Người 
			bạn văn miền Bắc, anh Vân Hải đã  viết cho tôi như sau : « lũ học 
			sinh vùng tạm bị chiếm chúng tôi vừa được anh bộ đội cụ Hồ tiếp quản... 
			Ai chẳng đọc thuộc lòng những lời thơ đừng đi theo giặc vào Nam:
			
			 Nghe ai lầm phải lời điêu
			
			 Mà đành cuốn gói bước liều ra đi.
			 Ra 
			đi là bước lưu ly
			
			 Đường vào Nam Bộ sầu bi não nùng.  
			
			 Ra đi là bước long đong,
			
			 Bỏ nhà nằm bãi ngủ đồng quạnh hiu.
			
			 Ra đi là bước tiêu điều
			
			 Đem thân cho giặc sớm chiều vút roi
			
			 Ra đi là bước lạc loài
			
			 Chủ nhà lại hoá tôi đòi xứ xa....
			 Hay:
			 Một chiếc nhạn lià đồng tháng tám
			
			 Lũ cắt xanh rừng thẳm chực mồi
			
			 Nhắc trông ngát cảnh chim trời
			
			 Lòng tôi chất nặng những lời hờn căm.
			
			 Vì lũ giặc tay cầm thuốc độc
			
			 Mưu rắc lên đất nước hoà bình...
			
			Bên cạnh đó là những tin đồn mà các thủy thủ Mỹ thu lượm được qua những 
			người di cư kể lại lúc lên tầu do Việt Minh tung ra như sau:
			
			       - Người Mỹ cắt tay của trẻ sơ sinh và quẳng đàn bà xuống biển, 
			còn đàn ông thì bắt đi làm cao su cạo mủ tại các đồn điền cao su.
			
			       - Tầu há mồm ra đến biển thì há mồm ra, rồi xô đẩy người ta 
			xuống biển.
			
			       - Với những áp lực đủ kiểu, nhờ một lối tuyên truyền xảo trá, 
			tạo ra một cơn hốt hoảng tinh thần nơi dân chúng công giáo.
			
			      - Một khi bầu khí hoảng loạn thì mạnh ai nấy chạy, trong khi 
			đó từng toán xe tải nhà binh tiến vào các làng để bốc hốt đi thật 
			nhanh, kể cả dùng bạo lực cưỡng ép tất cả dân chúng.
			Độc 
			hại hơn cả, chính quyền Hà Nội còn dùng chiêu bài tôn giáo bằng cách 
			nhờ cậy đến phái đoàn tôn giáo Ba Lan nhằm thuyết phục giới lãnh đạo 
			Thiên Chúa giáo miền Bắc theo gương Ba Lan “sống đạo trong 
			lòng thế giới cộng sản”.
			
			Cô Trần Thị Liên ở bên Pháp có phổ biến một tập tài liệu quý giá của 
			phái đoàn tôn giáo BaLan, vào năm 1954. Tài liệu có tựa đề: “Vấn 
			đề công giáo miền Bắc Việt Nam qua tư liệu lưu trữ Ba Lan’’ 
			{1954-1956} được phổ biến trên Thời Đại Mới, số 4, tháng 3/2005.
			
			Phái đoàn tôn giáo Ba Lan sang Việt Nam do lời mời của chính phủ Hồ 
			Chí Minh để cố vấn chính phủ về các vấn đề liên quan đến tôn giáo 
			trong đó có nhiệm vụ khuyến cáo các địa phận công giáo nên ở lại và 
			hợp tác với chính quyền cộng sản như ở Ba Lan. Theo báo cáo số 
			243/10/55 của đại sứ Jery Grudzinski gửi Bộ ngoại giao Warsaw một 
			cách sai lạc về số phận một số giáo dân đã di cư vào Nam: “Thất vọng 
			vì không được cấp phát ruộng đất và trâu cầy như chính quyền Bảo Đại 
			đã hứa hẹn, họ yêu cầu được trở lại miền Bắc”.
			
			Tài liệu của phái đoàn Ba Lan cho biết vào những năm 1945-1947, có sự 
			liên minh, hợp tác giữa người Thiên Chúa giáo và Hồ Chí Minh. Hồ Chí 
			Minh có cả một chính sách “công giáo vận” mà tài liệu còn cất 
			giữ được tại thư khố quân đội ở Vincennes bên Pháp. Thật vậy, khi 
			thành lập chính phủ, ông Hồ đã chọn Nguyễn Mạnh Hà, một trí thức ở 
			Pháp về làm bộ trưởng bộ kinh tế. Trong phái đoàn tham dư hội nghị 
			Fontainebleau, ông Hồ đề cử ông Nguyễn Đệ tham gia phái đoàn. Ông Đệ 
			có nhiều liên hệ tốt với Pháp và giới ngân hàng Đông Dương. Trong buổi 
			lễ tấn phong giám mục Lê Hữu Từ, cùng một lúc có buổi lễ thành lập 
			liên đoàn công giáo {liên đoàn công giáo không nằm trong hệ thống 
			liên đoàn của Việt Minh} vào tháng 10/1945. Trong dịp này có phái 
			đoàn cao cấp chính phủ gồm Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp về dự, đồng 
			thời cũng cử tân giám mục Lê Hữu Từ  làm cố vấn tối cao của chính phủ 
			Hồ Chí Minh.
			
			Chính sách công giáo vận có đạt được điều gì cụ thể?  Ung Văn Khiêm 
			đã nghiêm cấm mọi hành động phẫn nộ hay khiêu khích với người Thiên 
			Chúa giáo. Hồ Chí Minh đã ra lệnh không giới nghiêm trong đêm Giáng 
			sinh v.v.
			
			Thật ra chính sách tôn giáo đó chỉ có cái bề mặt của một chủ trương 
			chiến lược, thực tế, người Thiên Chúa giáo vẫn là đối tượng nghi ngờ 
			số một. Nhưng sang đến năm 1950-1951, mối liên hệ tốt đẹp giữa hai 
			bên kể như chấm dứt. Khu tự trị Phát Diệm dần trở thành một thứ tiền 
			đồn chống Cộng Sản.
			
			Không lạ gì, khi có cuộc di cư, khu Bùi Chu, Phát Diệm có tỉ số 
			người di cư cao nhất trên toàn miền Bắc. Khoảng 50% dân theo đạo 
			Thiên Chúa giáo.
			
			Việt Minh và cả Pháp cũng không tiên liệu được số người di cư lên 
			cao đến như thế. Tài liệu của phái đoàn tôn giáo Ba Lan đã cắt nghĩa 
			tìm hiểu tại sao có số đông người di cư như thế và cố tình bóp méo 
			một số sự việc. Theo họ, yếu tố chính thức đẩy người ta di cư là 
			vấn đề tôn giáo.
			-  
			
			
			    Yếu tố tôn giáo: Trong bản báo cáo của đại sứ Ba Lan Tomasz 
			Pietka, ông đã xếp yếu tố tôn giáo lên hàng đầu. Ông viết: “Vấn đề 
			di cư của người công giáo vẫn tiếp diễn”. Chính phủ và đảng đã 
			làm tất cả những gì có thể để giảm bớt, nhưng vẫn gặp những khó khăn 
			to lớn...Vấn đề giáo dân sẽ còn đè nặng lên chính sách nội trị của 
			Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa {VNDCCH} trong thời gian tới đây… 
			Vì số yếu tố tôn giáo lên hàng đầu, ông viết: “Vấn đề di cư của 
			người công giáo vẫn tiếp tục, số lượng người Thiên Chúa 
			giáo bỏ nhà bỏ cửa đi quá đông. Một chiếc tầu Ba Lan, một chiếc tầu 
			duy nhất bên phe cộng sản vào Nam chở bộ đội Việt Minh và gia đình họ 
			ra Bắc, nhân tiện đó khi đi vào Nam, họ nhận chở giúp đồng bào di cư 
			Thiên Chúa giáo vào Nam”. Hiện nay, tầu Kilinski của ta phải lo 
			chuyển giáo dân vào Nam. Cho đến ngày 18 tháng 5, nó sẽ phải chở 
			10.000 người. Đang có tin đồn, người Pháp muốn đề nghị kéo dài thời 
			hạn 300 ngày cho dân chúng có thể chuyển vùng. Đại sứ Pietka xác nhận: 
			“Chính phủ ta đồng ý để cho tầu Kilinski chở 5400 giáo dân từ Bắc 
			vào Nam, trong tinh thần bắt tay người thiên chúa giáo”.
			
			Trong phần bài viết về số giáo dân di cư vào miền Nam, chúng tôi ước 
			lượng vào khoảng 300.000 người. Số người có dạo di cư có đông, nhưng 
			không phải là yếu tố quyết định hàng đầu.
			-          
			
			
			Yếu tố thứ hai là kinh tế: Kinh tế suy sụp với sự đe dọa của nạn 
			đói. Trong bản báo cáo tháng 2, ông đại sứ viết: Thị trường cần cung 
			cấp thêm lúa gạo và các nông sản khác đang bị thiếu hụt nghiêm 
			trọng. Cần phải ngăn ngừa nạn đói có thể xảy ra ở khu bốn là nơi hội 
			đủ những triệu chứng như: hạn hán, ruộng đất bị bỏ hoang. 
			Nếu Việt Nam không nhận được viện trợ to lớn về lúa gạo thì tình 
			hình sẽ trở thành nguy ngập và cuộc bầu cử sẽ hết sức bấp bênh. Báo 
			cáo của đại sứ Ba Lan tháng 3 như sau: “Một trong những khó khăn 
			nhất mà các đồng chí của chúng ta gặp phải là nguy cơ xảy ra nạn 
			đói... Hiện nay viện trợ của CHNDTQ đã tới nơi, nhưng không đủ đáp 
			ứng nhu cầu. Vụ mùa tháng 5 không khả quan vì hạn hán kéo dài. May 
			thay, nhờ có viện trợ Trung Quốc nên tháng 5, năm 1955, VNDCCH đã 
			tránh được nạn đói”. Theo báo cáo của đại sứ Ba Lan: “Cuối 
			tháng tư tình hình được cải thiện một chút nhờ gạo, gà và khoai lang 
			gửi từ Trung Quốc đã sang tới nơi ”. 
			{Báo cáo của 
			đại sứ Pietka, Hà Nội, ngày 2/5/1955}
			Báo cáo này 
			giúp chúng ta bây giờ mới hiểu ra rằng, Việt Minh khi vào Hà Nội đã 
			nhận một mảnh đất trống, chỉ còn xương với sẩu, chỉ còn lại “Vỏ 
			lon bia và thùng carton rỗng có nhãn hiệu Made in USA” như lời 
			nhận xét của bác sĩ T. Dooley. Bởi vì tất cả những gì xét ra có thể 
			dùng được thì người Pháp, qua tầu Mỹ đã chuyên chở hết vào miền Nam.
			
			Các gia đình 
			phía quân đội Quốc Gia khi di cư vào miền Nam được phép mang theo cả 
			giường tủ bàn, ghế khảm xà cừ, sập gụ tủ chè v.v. Một người bạn trẻ, 
			anh Vũ Thế Thành có kể cho tôi là khi di cư vào miền Nam, gia đình 
			anh đã mang theo được chiếc đồng hồ quả lắc coi như gia sản quý giá 
			nhất, thêm hai tấm phản dày. Cho đến bây giờ đồng hồ vẫn chạy, dù 
			chạy chậm vì đã quá cũ.Còn hai tấm phản thì nay cụ bà này đã 92 tuổi 
			vẫn nhất định nằm trên phản đó, nhưng chập đôi lại.
			Quá khứ ấy 
			ghi khắc sâu trong lòng cụ bà và cụ sẽ mang theo mình khi về bên kia 
			thế giới.
			Nghĩ đến 
			chuyện này, tôi nghĩ người cộng sản còn hên và may mắn. Vì năm 1975, 
			họ đã không gặp hoàn cảnh tương tự như 1954-1955 và họ đã nuốt trọn 
			gói không trừ một thứ gì như một thứ cướp cạn, vì Mỹ quá sai lầm 
			trong cơn tháo chạy.
			Tại miền 
			Bắc, những trang bị cơ sở kỹ nghệ tiêu biểu của kỹ nghệ như nhà máy 
			cement Hải Phòng, hãng thủy tinh, đài phát thanh Radio Hà Nội, trang 
			thiết bị cơ sở mỏ Hòn Gai, nhà máy dệt Nam Định. Tất cả cái gì có 
			thể tháo gở được thì tháo gỡ, còn không thì ở trong tình trạng bất 
			khả dụng.
			Vì thế, họ 
			đói là phải và giả dụ không có viện trợ cấp thời của Trung Cộng thì 
			dân chúng miền Bắc còn ở lại sẽ ra sao?
			Nhưng những 
			nhận định của phái đoàn Thiên Chúa giáo Ba Lan về việc người di cư ở 
			trên rất thiếu xót và thiếu một điều không thể thiếu: Sự kiện người 
			di cư đông đảo là vì người dân di cư sợ và trốn tránh cộng sản.
			Không hẳn 
			chỉ là vấn đề đạo Thiên Chúa giáo. Nhưng nếu hiểu tôn giáo là mọi 
			đạo thì hoàn toàn đúng. Vì có khoảng 500.000 người là đạo Phật, đạo 
			Ông Bà, đạo Tin Lành và “đạo nào cũng có“.
			Tất cả những 
			người di cư ra đi trước sau chỉ vì lý tưởng: chọn tự do đồng 
			nghĩa với không chấp nhận cộng sản.
			Đó là lý do 
			chính yếu. Sợ mà đi, sợ mà trốn, thù ghét mà bỏ vào Nam. Cho nên 
			người giầu hay người nghèo, người các tôn giáo, người “đạo nào cũng 
			có”, rồi trẻ già lớn bé đều cuốn gói vào Nam cả.
			Làm sao 
			người cộng sản giải thích được trường hợp một người què cả hai chân, 
			và từ chối không để hải quân Mỹ bế ông lền tầu chiến. Ông đã bò bằng 
			hai chân và cả hai tay, tay có hai đôi dép làm giầy. Các quân nhân 
			Mỹ đứng khoanh tay nhìn ông bò lên tầu? Chỉ cần một người khuyết tật, 
			một người thôi. Đáng nhẽ người ấy nên ở lại, vậy mà người ấy đã 
			cương quyết ra đi.
			Cho nên, 
			không có vấn đề thúc ép phải di cư. 
			Không ai ép 
			người khác phải di cư được? Nếu tự chính họ không muốn. 
			
			Di cư là hình thức tự nguyện cao nhất để đi tìm Tự Do
			Cũng vì thế, 
			phái đoàn Ba Lan đã phải thừa nhận thất bại của họ ở cuối bản 
			báo cáo như sau: “Để phản ứng lại chuyến đi thăm của phái đoàn, một 
			chiến dịch tuyên truyền chống Ba Lan đã được đẩy mạnh trong giới 
			công giáo Việt Nam”.
			Cụ thể là 
			những sự việc sau đây được phái đoàn ghi lại:
			Giám mục 
			Trịnh Như Khuê đã “treo chén” hai linh mục trong Ủy Ban toàn quốc 
			những người công giáo yêu tổ quốc, yêu Hòa Bình do linh mục Vũ 
			Xuân Kỷ làm chủ tịch.
			Các giới 
			chức công giáo đã tỏ ra lạnh nhạt nếu không nói là thù nghịch với 
			phái đoàn Ba Lan như các vị giám mục Trịnh Như Khuê ở Hà Nội, giám 
			mục Trần Hữu Đức ở Vinh, linh mục Tân, đại diện ở Thanh Hóa, linh 
			mục Liêm, đại diện ở Phát Diệm, linh mục Hiệp đại diện ở Hải Phòng.
			Đặc biệt là 
			giám mục Trịnh Như Khuê, Hà Nội, phái đoàn báo cáo: “Giám mục đã 
			tỏ thái độ thù nghịch đối với phái đoàn, chỉ cho phép hai linh mục 
			cử hành lễ thánh trong một nhà nguyện đóng kín”. Sine assistentia 
			populi. {Không cho phép giáo dân được dự lễ}
			Đây là một 
			hình thức tẩy chay của Tổng Giám Mục Trịnh Như Khuê, dùng giáo luật 
			để loại trừ hai linh mục Ba Lan. Đến độ, phái đoàn Ba Lan đánh giá 
			hai giám mục Trịnh Như Khuê và Trần Hữu Đức là “phản động”, mặc dầu 
			hai giám mục này tình nguyện ở lại miền Bắc và khuyên giáo dân cũng 
			ở lại như họ.
			
			Số người tập kết ra Bắc
			Theo phúc 
			trình của Ba Lan, tàu Ba Lan đã chở 85 ngàn người ra Bắc so với con 
			số 800 ngàn người vào Nam. Theo báo cáo “chuyên chở bộ đội Việt 
			Minh trên tầu Kilinski 1954-1955. Nautologia 2001 n.1-2(136), trang 
			18-21” của thuyền trưởng tầu Jan Kilinski, ngày 7/4/55 thì tổng 
			cộng chỉ một mình chiếc tầu Ba Lan đã chở khoảng 85.000 người từ Nam 
			ra Bắc, 3500 tấn thiết bị quân sự và 250 tấn đạn dược ra Bắc. Con số 
			85.000 người do chỉ một chiếc tầu thôi, giả dụ mỗi lần chở được tối 
			đa 5000 người, tàu JanKilinski phải mất bao nhiêu chuyến hải trình?
			Chiếc chiến 
			hạm Mỹ chở nhiều chuyến nhất và nhiều người nhất là tầu General 
			House, đã chở được 50.000 người di cư vào miền Nam. Chiếc General 
			House thuộc loại tầu đổ bộ T-AP, dùng để chuyên chở binh lính. Bình 
			thường chở từ 1200-2000 binh sĩ. Chở quá tải là 3000 người. Trường 
			hợp khẩn cấp có thể chở từ 5000-7000 người. {Trích OPTF,  trang 213}
			Nhưng ngược 
			lại, theo Ramesh Thakur trong cuốn Peacemaking in Viet Nam, The 
			University of of Alberta Press,1984, trang 131 thì con số người từ 
			Nam ra Bắc thật ít ỏi. Chỉ có 4269 người bỏ miền Nam ra miền Bắc. 
			Trong khi đó Ronald B. Frankum, Jr. viết như sau: “At the same 
			time, personnel and equipment moved to the South, The French and 
			Polish were involved in transporting those who wished to go to the 
			North.The French had allocated approximately ten shịps for Viet Minh 
			transportations and had estimated that sixteen thousand of the 
			possible one hundred fifty thousand personnel had already 
			completed the trip north” {trích OPTF, trang 138} Cùng lúc, các 
			nhân viên và các thiết bị được chuyển vào Nam, Pháp và Ba Lan đã để 
			hết tâm trí vào việc chuyên chở những người muốn được đi ra Bắc. 
			Nước Pháp đã phân phối cho Việt Minh độ 10 chiếc tầu để chuyên chở 
			và ước lượng vào khoảng 16 ngàn người trên tổng số ước lượng có thể 
			là 150.000 ngàn nhân viên đã hoàn tất chuyến đi ra Bắc rồi”.
			Theo tài 
			liệu trong cuốn Cuộc Di Cư Lịch Sử trang 244, thì chuyến bay 
			đầu tiên chở người ra Bắc vào ngày 8-4-1955 và tổng cộng chỉ có 15 
			chuyến.
			Có 1018 
			người được chở ra Bắc bằng phi cơ.
			Và có 3340 
			được chở ra Bắc bằng tàu thủy của Pháp. Cộng chung là 4.358 người.
			Tài liệu của 
			Phủ Tổng Ủy Di cư rõ ràng là thiếu xót, vì không đề cập đến số lượng 
			người được chở ra Bắc bằng tàu của Ba Lan như đã nêu trên. Vì thế 
			con số hơn 4000 người được chở ra Bắc là không sát thực.
			Tuy nhiên, 
			có một sự thực không thể chối cãi là sau này có một số người tập kết 
			đã bỏ trốn về miền Nam như trường hợp anh Trịnh Minh Cầm ở tỉnh Bình 
			Định và đồng bạn. Nhật báo Cách Mạng Quốc Gia thời 1955 có bài viết 
			tường thuật đầy đủ về trường hợp của anh Nguyễn Minh Cầm. Theo anh 
			Cầm, đã có khoảng 300 người đã cùng trốn đi như thế với anh và họ đã 
			vào được đến Quảng Bình, rồi từ Quảng Bình tới được bờ sông Bến Hải. 
			Nhưng khi tới được bờ sông Bến Hải thì chỉ còn lại có 195 người, 
			những người khác đã chết ở dọc đường. {Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, 
			Phủ Tổng Ủy Di Cư, trang 250}
			Trên những 
			chuyến  tầu chở ra Bắc của tầu Kilinski, Ba Lan, người viết có tấm 
			hình bộ đội Bắc Việt chở ra Bắc cả một đàn voi vốn là phương tiện 
			chuyên chở của bộ đội Bắc Việt ở Cao nguyên Trung phần.
			Riêng một số 
			người di cư được tầu Ba Lan ”chở dùm” vào miền Nam thì không được 
			cái may mắn như những người di cư được chở vào miền Nam trên các tàu 
			Mỹ. Đó là trường hợp cuộc ra đi bất hạnh của một số đồng bào Ba Làng 
			{Thanh Hóa} di cư vào Nam trên tầu Kilinski của Ba Lan. Và đây là 
			lời kể lại của những con người bất hạnh đó:
			“Chúng 
			tôi bước lên tầu Ba Lan với tất cả hồi hộp và lo sợ vì chúng tôi vẫn 
			có cảm tưởng bọn Việt Cộng sẽ đưa chúng tôi đi biệt tích một nơi nào 
			khác, chứ không phải vào Nam. Chính vì sợ thế mà nhiều đồng bào 
			chúng tôi không dám đi... Việt Minh chia chúng tôi làm 3 hạng, hạng 
			“phản động” bị giam xuống đáy tầu, nóng như lò lửa. Hạng “lừng khừng”, 
			hạng “tiến bộ” được đối xử khá hơn, bị gò ép như cá hộp, nghẹt thở 
			và không phân biệt lúc nào là ngày và đêm. Ăn thì mỗi ngày được lưng 
			bát cơm với một miếng thịt bò nhỏ xíu mà mặn không thể tưởng tượng... 
			Một số đàn bà trẻ con vì nhịn đói, nhịn khát, nóng bức quá nên bị 
			ngất đi...Thủy thủ Ba Lan trên tầu này không hề nhìn ngó đến chúng 
			tôi.{Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, Phủ Tổng Ủy Di Cư, trang 252}
			Người Pháp 
			cũng nhờ hải quân Mỹ chở người tập kết ra Bắc. Vào ngày 15 tháng 8, 
			Hải quân đô đốc Sabin đã từ chối yêu cầu của người Pháp chở 18.000 
			người tập kết ra miền Bắc. Và kể từ đó, hải quân Mỹ được lệnh từ 
			chối tất cả mọi yêu cầu chở người tập kết ra Bắc. Chúng ta không kể 
			đến một số không nhỏ nhiều người theo Việt Minh còn lưỡng lự không 
			muốn rời bỏ miền Nam để ra sinh sống ngoài Bắc. Cũng không kể có một 
			số người được cài lại miền Nam để phá rối hiệp định Genève. 
			
			Tài liệu đọc 
			thêm: 
			Người viết hiện đang có trong tay tập tài liệu ghi lại về việc cộng 
			sản cài người ở lại miền Nam Việt Nam như sau: Cuộc xâm lược từ 
			miền Bắc, hồ sơ về chiến dịch chinh phục miền Nam Viêt Nam của 
			Bắc Việt của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Trong phần V của tập tài liệu có 
			ghi như sau: “Khi Việt Nam bị chia đôi, hàng ngàn đảng viên được 
			lựa chọn kỹ càng và được lệnh ở lại tại chỗ miền Nam và gìn giữ 
			guồng máy bí mật của họ cho nguyên vẹn hầu giúp tăng tiến mục đích 
			của Hà Nội. Võ khí và đạn dược được tích trữ để sau này được đem 
			dùng. Du kích quân trở về với gia đình để chờ lời kêu gọi của Đảng. 
			Những kẻ khác rút vào những sào huyệt ở tận rừng sâu.
			Đa số, 
			khoảng 90 ngàn người đi ra Bắc Việt. 
			{Trích tài 
			liệu trang 26}
			Việt Nam 
			Cộng Hòa sau này cũng cho xuất bản một cuốn Bạch thư nhan đề: 
			Chính sách xâm lược của Việt Minh Cộng sản do chính phủ VNCH ấn 
			hành vào tháng 7/1962.
			Trong các 
			con số Việt Minh tập kết ra Bắc, con số nào là chính xác? Khi những 
			người miền Nam được gọi là “tập kết” ra Bắc, phần không nhỏ, bọn họ 
			để lại gia đình trong Nam. Vậy con số 85.000 được chuyên chở trên 
			chỉ một chiếc tầu thủy theo thuyền trưởng tầu Ba Lan có tin được 
			không? Cũng không hiểu tầu Kilinski thuộc loại tầu gì? Khả năng 
			chuyên chở tối đa là bao nhiêu? Và họ đã chuyên chở bao nhiêu chuyến 
			từ Bắc vào Nam? Tỉ lệ quá chênh lệch giữa hai bên này muốn nói gì?
			
			Những sĩ quan và quân đội quốc gia tiếp quản những 
			khu vực do Việt Minh trao trả lại trước khi ra Bắc theo Hiệp Định 
			Genève
			Đây là một 
			vấn đề ít được sách vở tài liệu nói tới. Theo lời một nhân chứng, 
			đại úy Tùng lúc bấy giờ là sĩ quan tham dự vào chiến dịch tiếp quản 
			này kể lại như sau cho tôi như một chứng từ miệng:
			Đại úy Tùng 
			thuộc đơn vị Sub Division Nam Định. Đơn vị này trước đây thuộc quân 
			đội Pháp và đã được chuyển giao cho quân đội Quốc gia vào năm 1954 
			do sĩ quan Dương Quý Phan làm Tư lệnh. Trong đơn vị này có các sĩ 
			quan như Tôn Thất Xứng {sau này thăng Thiếu tướng} trung tá Phạm Văn 
			Đổng {sau cũng thăng Thiếu Tướng}.
			Sau đó, đại 
			úy Tùng được lệnh di chuyển vào miền Nam, tháng 7/1954. Đơn vị của 
			ông do đại tá Lê Văn Kim {sau này thăng Trung tướng} làm chỉ huy 
			trưởng cuộc hành quân. Tôn Thất Đính {sau thăng Trung Tướng} làm 
			Tham Mưu trưởng đi tàu há mồm LST của Pháp đổ bộ Sa Huỳnh rồi thẳng 
			đường đến Quy Nhơn. Tuy nhiên, việc tiếp quản lại do một tiểu đoàn 
			dù của Tây đi trước nhận bàn giao trực tiếp từ phía Việt Minh, sau 
			đó mới giao lại cho quân đội Quốc Gia. Sau khi tiếp quản Quy Nhơn 
			rồi lần lượt đến tiếp quản  Sông Cầu, Tuy Hòa. Cũng xin nhắc lại 
			trước khi có Hiệp định Genève thì nơi đây đã xẩy ra một cuộc hành 
			quân lớn tên Opération Atlante có sự tham dự của Đỗ Cao Trí mang một 
			Tiểu đoàn Khinh binh từ Bắc vào Tuy Hòa. Cuộc hành quân kết cục là 
			thất bại.
			Tình hình ở 
			Quy Nhơn lúc bấy giờ nằm trong tay quân đội Việt Minh. Không có điện, 
			nước. Chỉ ở đường phố chính có điện nhờ dùng hai dynamô của xe thiết 
			giáp chạy bằng dầu hỏa. Việc giao thông thì có một đoạn đường xe lửa 
			chạy dài chừng 20 kilô mét, chỉ có một toa. Không có đầu máy. Khi 
			chạy thì người ta dùng tay nhận một cái cần từ trên xuống dưới như 
			một thứ piston, cộng thêm sức của chừng 10 người đẩy cho toa xe lửa 
			có đà để chạy. Khi nào toa xe ngừng lại thì xuống đẩy tiếp. Đến nơi 
			thì họ lại nhảy xuống kéo thừng để cho toa xe ngừng lại thay cái 
			thắng.
			Tình hình 
			dân chúng thì tỏ vẻ lạnh nhạt, nếu không nói là ác cảm với quân đội 
			Quốc Gia. Một lần, lính Quốc Gia mang trứng gà đến nhà dân để xin 
			luộc, dân chúng từ chối không cho mượn bếp để luộc trứng.
			Sau này, 
			quân đội Quốc Gia phải bỏ công rất nhiều, dùng tâm lý chiến để lấy 
			được lòng dân. Đặc biệt, sau khi tiếp quản Quy Nhơn xong thì thủ 
			tướng Ngô Đình Diệm có ra thăm ủy lạo dân chúng và sau đó, trong dân 
			gian đã truyền tụng hai câu thơ như sau: 
			
			                                    Mười năm không thấy cụ Hồ
			
			                                    Mới có 10 ngày đã đón cụ Ngô
			
			Operation Passage to Freedom
			Phải nói 
			rằng năm 1954-1955 đánh dấu một cuộc di cư vĩ đại về người trong 
			lịch sử nhân loại. Và đối với người Mỹ, nhất là những thủy thủ trực 
			tiếp trong việc cứu vớt người tị nạn thì công việc cứu giúp người di 
			cư từ miền Bắc vào miền Nam thì trước hết và sau cùng cũng vẫn chỉ 
			là một trách nhiệm tinh thần, một Moral obligation của một 
			dân tộc giúp một dân tộc để có thể sống tự do trong một chính thể 
			dân chủ, không bị đe dọa bởi cộng sản.
			Thật vậy, 
			đối với phần đông các thủy thủ các tầu chiến, đại diện cho nước Mỹ 
			nay ở tuổi 70 và 80, họ chỉ nhìn thấy công việc của họ với tính cách 
			nhân đạo và cả đời họ sau này, điều gì còn lại vẫn là tình nhân loại 
			trong công việc làm của họ.
			Hãy cho họ 
			cái đặc quyền được hiểu như thế.
			Sự dấn thân 
			và tinh thần lý tưởng ấy vẫn phải được nhìn nhận. Mặc dầu sau này, 
			chính phủ Mỹ đã trực tiếp tham gia vào chiến trường miền Nam thì đó 
			lại là một vấn đề khác, nhất định không phải là vấn đề của họ.
			
			Riêng đối 
			với người Việt Nam từ Bắc chí Nam, ý nghĩa cuộc di cư ấy là một 
			chọn lựa chính trị dứt khoát không chấp nhận chế độ cộng sản.
			Cả thế giới 
			đã chú tâm theo dõi biến cố chính trị thời đó. Đặc biệt là báo chí 
			Mỹ. Tôi tâm đắc với nhan đề một bài báo với hàng chữ lớn: Let Our 
			People go. Hãy để cho dân chúng tôi đi. Hành trình ra đi đó gợi 
			nhớ cho người viết cuộc ra đi hơn 2000 năm trước đây của người Do 
			Thái ra khỏi Ai Cập đi tìm miền đất hứa.
			Và xin được 
			dẫn một chứng từ về cuộc ra đi hào hùng ấy của đồng bào Thanh Hóa {thuộc 
			liên khu 4 của Việt Cộng}:
			“Kế hoạch 
			bàn định xong, vào một đêm không trăng, chúng tôi cho đàn bà trẻ con 
			xuống bè mảng trước, còn đàn ông chúng tôi ở lại điều khiển đốt 
			làng.“Đốt cho sạch”, ấy là khẩu hiệu chung của chúng tôi. Mỗi gia 
			trưởng và trai tráng trong mỗi gia đình đều có nhiệm vụ thanh toán 
			bằng lửa túp nhà của mình, nên ai nấy đều hăm hở, mặc dù là đốt mồ 
			hôi nước mắt của chính mình.Thế rồi hiệu lệnh phát ra, trăm bó đuốc 
			châm lên, trăm ngôi nhà đỏ rực.
			Đây mới thực 
			là lửa đỏ căm hờn bùng cháy.
			Lửa đỏ đầy 
			làng, đốt cháy bao cơ nghiệp của dân làng, mà dân làng đều vui mầng 
			hớn hở cũng đau đớn thật. Xong công việc chúng tôi rút lui ra chỗ 
			thuyền bè đậu, cách xa bờ  độ 100 thước, và hối hả chống chèo hướng 
			ra bể khơi. Chúng tôi say sưa chèo mãi cho đến khi ánh lửa trên bờ 
			tàn và dần dần tắt hẳn mới trở lại thực tại và thấy mình lênh đênh 
			giữa biển cả...
			Đi là cái hy 
			vọng độc nhất của chúng tôi. Mãi cho đến lúc rạng đông, mặt biển 
			song sao, gió lộng, ánh thái dương ló dạng chúng tôi mới quay lại 
			phía sau, nhìn lên bờ, nhưng không thấy đâu là bờ bến cả.
			Lênh đênh 
			trên mặt biển cho đến lúc đứng bóng thì đoàn chúng tôi trông thấy 
			một chiếc tầu chiến ở ngoài xa. Chúng tôi reo hò, dơ tay vẫy, có 
			người có sáng kiến hơn, cột mảnh áo trắng lên trên cây xào làm cờ 
			phất lia lịa. May quá, chiếc tầu chiếu đèn lên 5,6 lần hướng về phía 
			chúng tôi. Một hồi sau chúng tôi tiến đến bên tầu chiến. Các sĩ quan 
			và thủy thủ hình như đã được lệnh tiếp đón chúng tôi, nên họ không 
			hỏi han gì cả dòng thang giây xuống đón chúng tôi. Họ niềm nở, đỡ 
			tất cả bọn chúng tôi lên tầu, và mọi người lúc ấy mới thật là hú 
			vía, thoát hiểm.
			Và tàu cập 
			bến Hải Phòng lúc 2 giờ đêm. 
			{trích Cuộc Di cư lịch sử, trang 90-91}
			Nhưng đã có 
			bao nhiêu người di cư may mắn như đám người trên?
			Tác giả Minh 
			Võ, trong bài viết: Di cư, một kỷ niệm đắng cay sau trở nên ngọt 
			ngào viết: “Mẹ tôi kể lại, bốn mẹ con phải đi 4 lần mới có 
			một lần thành công. Đường đi dài gần 200 cây số mà cứ gần đến Hải 
			Phòng thì lại phải dẫn nhau quay về, vì lần nào cũng bị Việt Minh 
			ngăn cản, dụ dỗ, đe dọa. Lần thứ bốn, may có một cán bộ địa phương 
			thương tình cấp giấy tờ cho đi hợp pháp mới tới nơi. Bà đã gặp lại 
			người cán bộ này tại miền Nam chỉ ít ngày sau đó. Anh ta nói khi cấp 
			giấy cho gia đình tôi, là trong bụng đã ôm mộng bỏ đảng ra đi rồi. 
			{Trích Minh Võ, trong Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc, 
			trang 293-294}
			Cuộc di cư 
			này có thể chia ra ba giai đoạn: tiếp cư, di cư, và định cư.
			Giai đoạn 
			tiếp cư:
			Ngay khi 
			nghe tin Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7/5 và thỏa ước Genève vừa được 
			ký kết ngày 20/7 chưa ráo mực thì đã có những chuyển biến trong dân 
			chúng.
			Đúng ra là 
			một cuộc khủng hoảng, xáo trộn lựa chọn chính trị giữa đi hay ở. Nó 
			không giống hoàn cảnh một thứ tháo chạy rút quân như ở Ban Mê Thuột. 
			Nhưng nó cũng có một vài góc cạnh giống như thế. Việc đi hay ở tùy 
			thuộc khu vực dân chúng nằm trong vùng kiểm soát của Việt Minh cộng 
			sản hay trong vùng kiểm soát của Quốc gia. Nhiều cuộc di chuyển tháo 
			chạy, co cụm chuyển từ vùng ít an toàn sang vùng an toàn hơn.
			Người Pháp 
			đã không nghĩ tới hoặc không có một kế hoạch cụ thể nào nhằm tạm cư 
			những người dời bỏ làng mạc ra đi. Trong Passing the Torch đã nhận 
			xét như thế này: “When refugees surged into Hai Phong, they 
			encountered the chaos of an overcrowded and hostile city. By August 
			10, 1954, an estimated two hundred thousand refugees were encamped 
			at Ha Noi and awaiting evacuation. {Trích trang 98} Khi số người 
			di cư tràn ngập về Hải Phòng, họ gặp phải tình trạng hỗn độn, tràn 
			ngập người và sự thù nghịch của thành phố. Đến 10/8/1954, có khoảng 
			200.000 người tỵ nạn tạm trú ở Hà Nội và chờ đợi được di cư.
			Trong khi đó, 
			dân chúng các tỉnh phía Nam của Bắc phần bỏ làng mạc và tập trung về 
			những tỉnh như Bùi Chu, Phát Diệm, Nam Định và Phủ Lý mà họ cho là 
			an toàn hơn. Chẳng hạn tỉnh Bùi Chu có cả thảy 365 làng, nhưng phần 
			lớn đều không có an ninh. Khi nghe tin Điện Biên Phủ thất trận thì 
			dân chúng bỏ chạy co cụm về chung quanh tỉnh Bùi Chu.
			Trong sách
			Cuộc Di Cư Lịch Sử, trang 83 được viết lại như sau: “ Rồi 
			cùng với những cuộc triệt thoái của quân đội Liên Hiệp Pháp khỏi các 
			tỉnh miền Nam Trung-châu Bắc Việt, nhân dân các tỉnh Bùi Chu, Ninh 
			Bình, Nam Định, Phủ Lý vội vàng chạy về Hà Nội. Tiếp đó nhân dân các 
			tỉnh chung quanh Hà Nội như Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh, 
			Vĩnh Phúc Yên cũng hốt hoảng kéo về Hà Nội. Những lớp sóng người dồn 
			dập kéo về Hà Nội giữa khi dân chúng đô thành hoang mang lo lắng đã 
			thức tỉnh những kẻ hoài nghi, do dự và châm ngòi cho phong trào 
			di cư bùng nổ 3 ngày trước khi Hiệp định Genève được ký kết. 
			Chuyến tầu đầu tiên chở dân chúng Phát Diệm di cư vào Nam rời cửa 
			biển Bắc Việt vào ngày 17-7-1954 và cặp bến Sài Gòn ngày 21-7-1954.
			
			Xin nói cho 
			rõ hơn, Bùi Chu và Phát Diệm là hai tỉnh bị triệt thoái đầu tiên của 
			quân đội Pháp nên Bùi Chu và Phát Diệm cũng là những tỉnh đầu tiên 
			mở đầu cho phong trào di cư vào miền Nam. Vì thế không lạ gì, tầu 
			Thuỵ Điển Anna Salen rời cửa biển Bắc Việt và vào đến cảng Sài Gòn 
			chỉ một ngày sau khi Hiệp định Genève được ký kết.
			Như vâỵ, 
			người dân Phát Diệm là những người đầu tiên chính thức di cư từ miền 
			Bắc vào miền Nam.
			Phong trào 
			di cư sau đó cứ thế mà lan rộng.
			Ở đây, nơi 
			những khu vực tạm trú, mọi thứ đều thiếu thốn vì không được chuẩn 
			bị. Chẳng hạn toàn tỉnh Bùi Chu chỉ có một nhà thương với 85 giường 
			bệnh để phục vụ cho 440.000 dân. Chính quyền Quốc gia và Pháp tỏ ra 
			bất lực. May có cơ quan USOM của Mỹ giúp giải quyết được một phần 
			nào những khó khăn về thuốc men và nước uống.
			Như đã nói ở 
			trên, chỉ tính đến ngày10/8/1954, người Pháp và chính phủ quốc gia 
			phải đối đầu với 200.000 người di cư chờ được đi vào Nam. Lo chỗ ăn, 
			chổ ở nước uống, bệnh xá cho 200.000 người? Chắc không dễ.
			Phần chính 
			phủ Pháp, họ chưa thoát ra khỏi hết nỗi ám ảnh tuyệt vọng bị thất 
			trận ở Điện Biên Phủ. Và theo tinh thần Hiệp định Genève, họ phải 
			rút khỏi Đông Dương trong vòng hai năm. Trong thời gian này, họ cần 
			400 triệu đô la Mỹ để nuôi quân lính Pháp. Ai sẽ tài trợ số tiền này, 
			nếu không phải là Mỹ. Việc chuyên chở thương phế binh về Pháp cũng 
			phải thương lượng với người Mỹ. Không thì không xong. Mối bận tâm 
			hằng đầu của họ chỉ là triệt thoái an toàn binh đội Pháp ra khỏi Bắc 
			Việt. Ngay trước khi thất trận Điện Biên Phủ, người Pháp đã có kế 
			hoạch rút khỏi Bắc Việt các cơ sở hành chánh như ngân hàng, các cơ 
			sở giáo dục, các trường Tây đưa vào miền Nam.
			Và họ đã làm.
			
			Nhưng họ có 
			đủ phương tiện tiền bạc và kế hoạch để giải quyết vấn đề di chuyển 
			của người tị nạn sau hiệp định Genève không?
			Phần chính 
			phủ ông Diệm mà người ta gọi là “l’homme nouveau”, người mới, tiếng 
			là thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam từ Nam ra Bắc, nhưng xem 
			ra quyền hành của ông thu gọn ở phía Nam hơn là phía Bắc. Không thể 
			trách được vì ngày 26/6/1954, ông Diệm mới đặt chân xuống Sài Gòn 
			trong một tình huống cực kỳ bấp bênh và hỗn loạn. Bấp bênh vì có 
			nhiều chống đối từ phía người Mỹ và nhất là phía người Pháp bằng đủ 
			thứ ngôn ngữ thô tục nhất gán ghép cho ông như: thiển cận, bướng 
			bỉnh, quá cứng rắn, một giải-pháp-khác-Diệm, chống cộng cực đoan, 
			người khó khăn để liên hệ, kẻ tiên tri không có lời rao giảng. Nhiều 
			giải pháp, nhiều tên tuổi được nêu ra trong danh sách những người có 
			thể thay thế ông Diệm.
			Salan đã đón 
			chào ông Diệm về làm thủ tướng bằng cách ra lệnh triệt thoái quân 
			đội viễn chinh Pháp ra khỏi 4 tỉnh phía Nam của Bắc Việt và sau đó 
			để quân đội quốc gia thay thế. Việc triệt thoái binh đội Pháp ra 
			khỏi 4 tỉnh phía Nam trước sau cũng phải làm. Nhưng làm sao để không 
			gây ra những bất ổn chính trị, tình trạng hoảng loạn không tránh 
			được của thành phần dân chúng sống trong các vùng tề do Pháp kiểm 
			soát?
			Xin trích 
			dẫn Trần Tam Tỉnh, kẻ đưa đường cho cộng sản, mô tả hoàn cảnh người 
			di cư các tỉnh phía Nam Bắc bộ như sau: Báo chí ngày 25/10/1954 
			viết: “Cuộc xuất hành bằng đường biển với những người di cư, phần 
			đông phương tiện khác rất yếu ớt, những người di cư, phần đông là 
			công giáo, từ các vùng Bùi Chu, Phát Diệm do Việt Minh kiểm soát, 
			trong vòng 24 giờ qua đã lên tới con số khổng lồ khiến bộ tư lệnh 
			hải quân Pháp đã phải quyết định vớt họ. Đêm qua và sáng nay, các 
			đơn vị hải quân Pháp đã chở tới Hải Phòng gần 2000 người di cư, họ 
			vớt được ngoài khơi hải phận Việt Minh, ở lối 100km mạn Nam Hải 
			Phòng.Theo lời những người di cư, hàng ngàn người khác thuộc địa 
			phận Bùi Chu và Phát Diệm đang tìm cách chạy trốn, có khi phải trả 
			5000 quan Pháp cho một chỗ trên các thứ thuyền hoặc bè. Nhiều thuyền 
			bè đã bị lật và đắm luôn trong các cơn bão đang làm dữ mấy ngày này. 
			Như vậy, hàng trăm người di cư đã bị chết đuối trong tai nạn đó. 
			Ngày 26/10/1954, báo chí đưa tin: 15.000 người công giáo bỏ trốn 
			bằng ghe thuyền hoặc bè để đi tìm tự do, từ các địa phận Bùi Chu và 
			Phát Diệm đã tới được Hải Phòng”.{Trích Thập giá và lưỡi gươm, 
			Trần Tam Tỉnh, trang 109}
			Amouroux đã 
			viết trên tờ Aurore lời kêu gọi như sau: “Chúng ta, thế giới tự 
			do và không chỉ có nước Pháp, chúng ta có thể nào bỏ rơi những con 
			người đó mặc cho sự trả thù, đem quẳng họ lại vào bàn tay cộng sản 
			và làm cho cuộc bỏ trốn kỳ diệu của họ năm 1954 hóa ra vô ích sao?”.
			Thực sự trên 
			thực tế, quân đội quốc gia cũng đã không thể thay thế quân đội Pháp 
			được. Người viết bài này đã theo anh rể thuộc Bảo An đoàn, từ Phủ Lý 
			được chuyên chở bằng xe camion ra Hà Nội, rồi từ Hà Nội đáp máy bay 
			vào Tourane vào cuối tháng 7/1954. Đó là những chuyến bay sớm nhất 
			của quân đội Pháp chở binh sĩ Quốc gia và gia đình của họ di cư vào 
			miền Nam.
			Dân chúng ở 
			các tỉnh bị quân đội Pháp bỏ rơi như Hưng Yên, Sơn Tây, Hưng Hóa Bắc 
			Ninh còn có nhiều cơ may di cư ra Hải Phòng hoặc Đồ Sơn bằng đường 
			bộ. Khốn đốn nhất là dân chúng di cư từ các tỉnh phía Nam Bắc Việt 
			không dễ dầu trốn đi được bằng đường bộ cũng như đường thủy ra Hải 
			Phòng.
			Từ cửa Cồn 
			Thoi ra Hải Phòng trên những mảnh bè tre nứa ghép lại một cách vội 
			vã, tùy tiện bỏ mặc cho sự sống chết là trăm phần gian nan và khốn 
			đốn.
			Được tin này, 
			ngày 29/6 ông Diệm phản đối kịch liệt quyết định của người Pháp và 
			yêu cầu người Mỹ can thiệp với thủ tướng Mendes-France. Sự thù hận 
			và mối hiềm khích nghi kỵ của ông Diệm đối với người Pháp từ những 
			sự việc trên kéo dài. Sau này, ông Diệm yêu cầu Pháp chấm dứt mọi 
			liên hệ với Hà Nội. Pháp không nghe. Ông cũng nghi ngờ người Pháp là 
			đầu mối giật giây, âm mưu với các giáo phái cũng như đứng đằng sau 
			bọn Bảy Viễn, Nguyễn Văn Hình.
			Vì thế, khi 
			ổn định xong tình hình chính trị miền Nam thì đã đến lúc người Pháp 
			phải xách gói ra đi. Ngày 28/4/1956, ngày cuối cùng của một số binh 
			đội Pháp còn sót lại diễn hành trên đường phố Catinat, sau đó đáp 
			tầu ở bến cảng Sài gòn trên đường về nước. Cũng có nước mắt tiễn đưa. 
			Ở đâu, thời nào thì cũng thế, người ta nhìn thấy có những mệnh phụ 
			lén lút chùi nước mắt tiếc nuối. Cũng đầy đủ nghi lễ, cũng kèn trống.
			Kể từ nay, 
			chế độ thực dân Pháp thực sự chấm dứt.  
			Phải chăng 
			những nghi thức bề ngoài là những thứ mà lúc nào một người Pháp lịch 
			sự, có văn hóa cũng cần đến? Hình ảnh này nhắc nhở người ta nhớ đến 
			buổi lễ cuốn cờ của quân đội Pháp ở Hà Nội vào tháng 10/1954. 
			
			Họ muốn ra 
			đi trong đàng hoàng, trật tự như khi quân đội Pháp rút khỏi Hà Nội 
			để bàn giao lại cho Việt Minh thay thế họ?
			Sau này, ông 
			Diệm chỉ riêng tặng huân chương cao quý Presidential Citation with 
			Ribbon of friendship cho hải quân đô đốc Sabin tại SàiGòn khi giai 
			đoạn di cư đã hoàn tất.
			Nhiều tin 
			đồn cho hay quân đội Pháp bỏ bom các tỉnh phía Nam Bắc việt làm chết 
			cả ngàn người và rằng xe nhà binh Pháp chỉ chịu chở thường dân với 
			giá 100 đồng mỗi người. Tin đồn như thế không lấy gì làm chắc chắn 
			và bỏ bom xuống dân chúng để làm gì? Số lượng máy bay dùng để chuyên 
			chở binh đội Pháp và Quốc Gia còn không đủ, lấy đâu ra máy bay để 
			thả bom giết hại dân chúng? Và ở thời kỳ 45-54, những chiếc máy bay 
			quan sát Morane của Pháp bay chậm như rì, chỉ cần một cây đại liên 
			cũng có khả năng bắn rơi? Và xin nhắc nhở một chi tiết nhỏ là loại 
			máy bay Morane chỉ có sàn máy bay là làm bằng sắt, tất cả những phần 
			thân và nóc làm bằng vải bạt. Pháp còn bao nhiêu máy bay DC3 dùng để 
			đi ném bom?
			Quân đội 
			Pháp còn rất eo hẹp, nghèo nàn và giới hạn lắm về phương diện máy 
			bay. Và đó cũng là một trong những lý do kỹ thuật làm mất Điện Biên 
			Phủ.
			Ngày 30/6, 
			ông Diệm bay ra Hà Nội gặp giới chính quyền người Pháp và bàn thảo, 
			thương lượng về kế hoạch rút quân đội Pháp và Việt Nam. Đồng thời, 
			ông cũng gặp giới chức quân đội và hành chánh Việt Nam. Trong một 
			buổi lễ do chính quyền Việt Nam tiếp đón ông, có việc một số binh 
			đội Quốc gia quần áo, gươm súng nai nịt chỉnh tề, sau đó có buổi lễ 
			tuyên thệ của giới chức trong chính phủ, quỳ và thề trung thành với 
			Quốc Trưởng Bảo Đại.
			Kết quả cuộc 
			thương thảo này không biết như thế nào?
			Nhưng việc 
			ông Diệm ra Bắc gây được tiếng vang tốt cũng như tin tưởng trong đám 
			người di cư. Ông được coi như linh hồn của cuộc di cư và một thứ bản 
			mệnh tương lai cho họ, nhất là những người theo đạo Thiên Chúa.
			Lúc này, 
			chung quanh Hà Nội như Gia Lâm, Hàm Long, Thái Hà Ấp, Nhà Ga Hàng Cỏ, 
			chung quanh hồ Hoàn Kiếm, la liệt người di cư từ khắp nơi đổ về. Chỗ 
			nào có đất trống là có người đến trú ở tạm. Ăn nằm la liệt ngổn 
			ngang khắp nơi, một vỉa hè, một công viên. Người Mỹ đã cung cấp 
			18.848 tấn gạo, 1200 tấn cá khô cho các trại tiếp cư chung quanh Hải 
			Phòng. USOM đã giải tỏa 31 triệu đồng để mua thực phẩm dự trữ. {Trích 
			OPTF, trang 23}.
			
			Trú khu Hải Phòng
			Khi Hà Nội 
			đã được chuyển giao cho Việt Minh theo thời hạn được quy định bởi 
			Hiệp Định Genève, các trung tâm tiếp cư phải chuyển xuống Hải Phòng 
			thì số người di cư tăng lên khủng khiếp.Tất cả các trường học cũng 
			như các công sở đều là nơi chứa người tỵ nạn, nhưng vẫn không đủ chỗ. 
			Nha đại diện Phủ Tổng Ủy di cư tại Bắc phần đã cho dựng hàng ngàn 
			lều vải tại vùng Vật-Cách, sát tỉnh Hải Phòng có khả năng đón tiếp 
			10.000 người, rồi một trú khu thứ hai được thiết lập ngay sau đó, 
			chứa được 15 ngàn người. Một trú khu khác của bác sĩ Dooley, cách 
			Hải Phòng 7 cây số, trên đường Hà Nội- Hải Phòng chứa được 12 ngàn 
			người.
			Trong thời 
			gian tạm trú tại Hải Phòng, đồng bào di cư được phát gạo và 7 đồng 
			tiền thức ăn, chưa kể được cung  cấp nước mắm, cá khô, sữa, củi và 
			mỗi hai người được cấp một chăn và một chiếu.
			Trước khi 
			xuống tầu, đồng bào được cấp phát bánh mì và 35 đồng/mỗi người. Nếu 
			đi theo tầu Pháp, đồng bào được chở đến bến Sáu Kho, nếu đi tầu Mỹ, 
			đồng bào được chở đến bến Vật-Cách rồi từ đó chuyển ra các tầu chiến 
			lớn đậu ở vịnh Hạ Long.
			Công việc 
			tiếp cư tại Hải Phòng cứ kéo dài như thế cho đến ngày 11-5-55 khi 
			chuyến tầu lịch sử của Hải quân Mỹ, chiếc Brewster chở 520 đồng bào 
			cuối cùng rời bến Hải Phòng. {Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, trang 
			129-130}
			Một nhân vật 
			đại diện cho Phủ Tổng Uỷ di cư trông coi việc di cư này mà chắc 
			nhiều người còn nhớ và không quên được, xin được nhắc đến ông một 
			lần: Ông Mai Văn Hàm.
			Cũng xin 
			được nhắc tới bốn vị đã lần lượt trông coi, chăm sóc cho người di cư 
			là: Bác sĩ Phạm Hữu Chương, ông  Ngô Ngọc Đối, bác sĩ Phạm Văn Huyến 
			và ông Bùi Văn Lương.
			Bên cạnh đó, 
			có đức cha Phạm Ngọc Chi được chỉ định làm chủ tịch Ủy ban hỗ trợ 
			định cư.
			Về phía 
			người Pháp cung cấp 1500 tấn gạo cho Hải Phòng ngay từ những ngày 
			đầu 28/7/1954. Sau này, ngày 9/2/1955 tờ báo Figaro của Pháp đã 
			quyên góp được 35 triệu phật lăng gửi cho người di cư. Tấm ngân 
			phiếu được trao cho Thủ tướng Diệm trước các lều di cư ở Tân Sơn 
			Nhất.
			Cũng vậy, 
			ngay ngày 31/8/1954, Phi Luật Tân đã gửi sang giúp Việt Nam 7 bác sĩ 
			và 3 nữ y tá trong khuôn khổ chiến dịch huynh đệ “Operation 
			Brotherhood” hay “Fraternity”. {Trích tài liệu của ông Đinh Quang, 
			tác giả Bình Giả, quê Hai, trang 4}
			Mặc dầu vậy 
			dân chúng trong các trại tỵ nạn thất vọng và chán nản cũng than vãn 
			về tình trạng thiếu thốn đủ loại, cộng thêm tình trạng số người chờ 
			đợi lâu mà vẫn chưa chưa được bốc đi. Hải quân đô đốc Sabin chịu 
			trách nhiệm việc chuyên chở người di cư vào miền Nam đã thăm một 
			trại tiếp cư và ông đã ghi lại như sau: “There were some 14 
			thousand people huddled in what to me seemed to be cesspool. They 
			were dirty, had little food or water and no shelter except a few 
			pieces of cloth between two sticks in the ground. This is the 
			monsoon season and that isn’t a very comfortable to live. They had 
			given up the only thing they owned which probably was a little rice 
			paddy and a thatched hut. But they had done it willingly to 
			escape the jaws of Communism”. {Trích OPTF, trang 64} 
			Đã có khoảng 14 ngàn người túm tụm trong cái mà theo tôi nó là cái 
			hầm chứa phân. Họ bẩn thỉu, chỉ có một ít đồ ăn hoặc nước và không 
			có chỗ trú ẩn ngoại trừ một vài mảnh vải vắt ở giữa hai cây sào cắm 
			dưới đất. Đây là lúc gió mùa và đành chịu cho sự bất tiện đó. Có thể 
			họ đã phải từ bỏ sở hữu duy nhất cuả họ là một ruộng lúa nhỏ và một 
			túp lều tranh. Nhưng họ đã sẵn lòng làm điều ấy để thoát khỏi nanh 
			vuốt của cộng sản.
			
			Những chứng từ cho thấy Việt Minh không tôn trọng Hiệp định Genève
			Có rất nhiều 
			bằng cớ về điều này. Bằng cớ hiển nhiên không chối cãi được. Nếu tin 
			được lời của ông Frank N. Trager trong Why, Viet Nam? Paul Mall 
			Press, London, 1966, trang 97,  một giáo sư ở Nữu Ước có  thăm Việt 
			Nam và cho biết có đến 95.000 người di cư ký trong đơn tố cáo Việt 
			Minh vi phạm Hiệp định Genève mà không được giải quyết.
			Xin dẫn chứng từ của linh 
			mục Trần Nam Bắc, một nhân chứng trong cuộc trong bài viết: “Le 
			drame des réfugiés catholiques Vietnamiens”, Paris, mars 1955, 
			trang 1-2 như sau:“Ces fuites s’accomplissaient dans des 
			conditions émouvantes, déchirantes mêmes, car les Viet Minh, en 
			pleine violation des accords de Genève, ont tenté et continuent 
			encore de s’y opposer. Ils ont employé d’abord la persuation, puis 
			la force et nombreux sont les réfugiés blessés par les balles 
			communistes. On a vu les habitants de villages entiers se mettre en 
			marche vers la mer, traversant les rizìères, pour éviter les routes 
			controlées par les forces Viet Minh, et construire des radeaux de 
			fortune se lancant sur la mer avec de grandes risques, sans aucune 
			certitude d’être secourus. Des centaines de fugitifs se noyèrent. 
			Qui pourraient jamais imaginer le spectacle impressionnant du 6 
			novembre dernier, quand une foule de 2000 réfugiés attendait sur un 
			banc de sable de Cửa Trà Lý d’êtres sauvès par des navires de 
			nations amies..
			Thảm cảnh của người công 
			giáo Việt Nam... Những cuộc tháo chạy trong những hoàn cảnh thật cảm 
			động và đau lòng, bởi vì Việt Minh đã vi phạm trắng trợn Hiệp định 
			Genève trong cố gắng chống lại Hiệp định ấy. Mới đầu họ còn thuyết 
			phục khuyến dụ, sau đó dùng sức mạnh và nhiều người đã bị thương vì 
			mảnh đạn của cộng sản. Người ta đã thấy hàng ngàn dân cả làng ùn ùn 
			kéo nhau ra biển, đi tắt qua cánh đồng ruộng, tránh đi trên đường lộ 
			bị kiểm soát bởi Việt Minh, rồi kết những bè mảng sơ sài đi ra biển 
			với rất nhiều hiểm nghèo và chẳng có gì chắc chắn là sẽ được cứu vớt. 
			Hàng trăm người di cư đã chết trên biển. Người ta làm sao có bao giờ 
			có thể tưởng tượng ra cảnh tượng gây ấn tượng như thế vào ngày 6/11 
			vừa qua, khi một đám đông gồm 2000 người tị nạn trên một cồn cát ở cửa 
			Trà Lý chờ được các tầu các nước bạn đến vớt đi.
			Xin dẫn chứng từ của tờ 
			Fides, communiqué du 29/1, trang 28 như sau: “Dans les premiers 
			jours de Janvier, 10.000 réfugiés catholiques qui s’étaient 
			concentrés à BaLang pour rejoindre le Viet Nam du Sud, furent 
			arrêtés par la force et conduits vers l’intérieur du pays, avant qua 
			la commission Intertionnale puisseintervenir.Dans cette opératiom 
			5000 soldats Viet Minh seraient intervenus pour prendre d’assaut 
			l’église dans laquelle les réfugiés s’étaient retranches. Ileut au 
			cours de la rencontre des pertes de deux côtés, mais les réfugiés, 
			qui disposaient seulement d’un armement inprovisé, furent rapidement 
			mâitrisés. Tous furent conduits vers des destinations inconnues...”
			Vào những ngày đầu tháng 
			giêng, 10.000 người tỵ nạn Thiên Chúa giáo đã tập trung ở Ba Làng để 
			đi vào miền Nam, đã bị chặn bắt lại và dẫn độ vào sâu trong đất liền, 
			trước khi Ủy Hội Kiểm soát đình chiến có thể can thiệp. 
			Trong cuộc ruồng bắt này, 5000 binh lính Việt Minh đã tấn công vào 
			nhà thờ trong đó các người tị nạn đang ẩn nấp ở đó. Trong cuộc đụng 
			độ này, có sự thiệt hại cho cả đôi bên. Về phía người tị nạn chỉ có 
			những võ khí sơ sài, tùy tiện nên dễ dàng bị Việt Minh khống chế... 
			Tất cả đều được dẫn độ đến một nơi nào không ai hay biết...”
			Tất cả những gì xảy ra ở 
			Ba Làng cũng đã xảy ra ở Lưu Mỹ với 3000 giáo dân. Kết quả có 12 người 
			chết, 50 bị thương và 200 người bị bắt sau đó. Ngày 26/9, hơn 2000 
			người di cư thuộc Hải Hậu, Bùi Chu bị Việt cộng ngăn chặn không được 
			lên bến phà đi Nam Định, từ đó đi Hải Phòng. Họ chờ cả tuần lễ không 
			được đi đành quay trở về nhà. Cũng vậy, 3000 người di cư Phát Diệm bị 
			chặn lại ở Phủ Lý. Ngày 29/9, 3000 người di cư thuộc tỉnh Thái Bình 
			bị chặn lại ở bến phà Nam Giang. Sau 15 ngày chờ đợi mỏi mòn, họ 
			đành quay trở về nhà. Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến được 
			thông báo đến nơi thì đám dân di cư đã không còn ai nữa. {Trích OPTF, 
			trang 160}
			Trong Cuộc di cư lịch 
			sử  cũng viết lại đầy đủ về sự vi phạm Hiệp Định Genève của cộng 
			sản như sau: “ Tại Thanh Hóa, ngày 8-1-55, dân chúng Ba Làng, 
			huyện Tĩnh Gia, tụ họp hơn hai vạn người đòi di cư bị bộ đội Việt 
			cộng nã súng bắt giải tán. Số lính của chúng dùng để đàn áp nhân dân 
			là 5 ngàn tên trang bị đầy đủ khí giới. Trái lại nhân dân chỉ có 
			gậy, dao đánh lại Việt Cộng. Vụ lưu huyết xảy ra, bọn quân đội ngụy 
			quyền cũng có nhiều đứa bị thương, bên nhân dân có 4 người thiệt 
			mạng, 6 người bị thương {có một người đã di cư vào Nam} Sau cuộc đấu 
			tranh đẫm máu này hơn 2 vạn người tập trung để di cư bị giải tán 
			bắng võ lực, dân chúng Ba Làng bị khủng bố, đàn áp thẳng tay, nam nữ 
			thanh niên bị Công an Việt Cộng bắt đem xử ngay tại một tòa án” nhân 
			dân” ở làng bên. Kết quả hai người bị khổ sai chung thân, 4 người bị 
			20 năm và 22 người bị 12 năm khổ sai. Những người khác sau khi bị 
			tra tấn dã man được lần lần trở về, nhưng bị quản chế , trừ 60 người 
			bị chúng coi là hạng cầm đầu nguy hiểm nên bị đưa đi biệt  tích. 
			Tiếp đến vụ tàn sát ở Lưu Mỹ càng rung rợn hơn nữa..Rồi kết quả dân 
			Lưu Mỹ bị 11 người chết, nhiều người bị thương và đến tảng sáng toàn 
			thể dân chúng Lưu Mỹ bị bắt trói.
			Dưới đây là chi tiết vụ 
			cứu vớt đồng bào ở Trà Lý do một sĩ quan hải quân ngoại quốc tham 
			gia cuộc cứu vớt ấy kể lại:” Trong đêm 5 rạng 6-11-54, một tiểu hạm 
			của Hải quân đang tuần hành ngoài khơi Trà Lý được một thuyền đánh 
			cá cho hay rằng có trên 2000 người hiện đang lâm vào cảnh nguy hiểm 
			trên bãi cát ngoài cửa biển Trà Lý. Tức thì Tiểu hạm ấy, báo tin cho 
			tầu khác, “ tầu La Capricieuse”- LSM 9.052- LCT. 9065 đến tiếp tay 
			cứu trợ...
			Một ông lý 
			trưởng cho biết có vào khoảng 30 ngàn người di cư ở tỉnh Phủ Lý muốn 
			trốn đi mà không được: “The mayor also reported that 
			approximately thirty thousand Vietnamese wished to evacuate around 
			Phu Ly, but there was no way to confirm the report”. {Trích PPTF, 
			trang 127} 
			Bác sĩ 
			Dooley, vào năm 1960 được viện thăm dò Gallup ông là một trong số 10 
			người được dân chúng Mỹ ái mộ và câu chuyện về ông như sau: “On 
			October 27, the French LST arrived in Hai Phong with a load of 
			eighteen hundred Vietnamse from Van Ly; all of them rescued from 
			sampans and bamboo rafts. The refugees reported that many in the 
			group had been detained and beaten by the Viet Minh before their 
			escape. Two of these refugees who were wounded by the Viet Minh as 
			they escaped by raft from Bui Chu were treated by Lieutenant {junior 
			grade} Thomas A Dooley, M.D, and Vietnamse Roman Catholic priest 
			Father Khuê at the Haiphong hospital”. {Trích OPTF, trang 162} 
			Ngày 27/10, tầu Pháp LST chở 1800 người Việt Nam từ Van Ly đến Hải 
			Phòng. Tất cả họ đã được cứu nguy từ những chiếc thuyền tam bản và 
			những chiếc mảng tre. Những người tị nạn báo cáo rằng nhiều người 
			trong nhóm họ trước khi trốn thoát đã bị Việt Minh giam cầm và đánh 
			đập. Trong số những người tị nạn có hai người bị Việt Minh gây 
			thương tích khi họ trốn đi từ Bùi Chu bằng chiếc mảng đã được bác sĩ 
			Thomas A Dooley và cha Khuê điều trị tại nhà thương Hải Phòng.  
			Tất cả những 
			ghi nhận ở trên chỉ cho thấy rõ rằng: cuộc di cư 1954 là một cuộc ra 
			đi để đi tìm tự do và dân chủ, để tránh cộng sản. Người di cư đã bỏ 
			nhà, bỏ cửa, chấp nhận tất cả với bất cứ giá nào- ngay cả mạng sống 
			mình- miễn là được sống trong Tự Do.
			Một số không 
			nhỏ những vùng  như Vinh, Bùi Chu, Phát  Diệm, Nam Định, Phủ Lý đã 
			bị Việt Cộng phá rối, ngăn chặn không cho đi. Một số những người di 
			cư đi được cho biết đã phải trả 7000 đồng cho mỗi đầu người, trái 
			ngược với những điều ông Trần Tam Tỉnh đã viết ở trên. Sự thất bại 
			của chính quyền cộng sản là không ngăn chặn được  “làn sóng di 
			cư” ngay ở các tỉnh mà trước đây nằm dưới quyền kiểm sót của 
			họ như k trong vụ bạo động nổ ra ở Quỳnh Lưu vào tháng 11/1956, 
			thuộc tỉnh Nghệ An, chính quê quán của Hồ Chí Minh.Theo chính quyền:
			giáo dân do sức ép của hàng giáo phẩm đã tập họp đông đảo, nơi 
			300 người, nơi 500, có mặt nhiều thanh niên. Ngày 12 và 13 tháng 11, 
			hằng trăm người công giáo đã tụ tập đòi quyền di cư vào miiền Nam, 
			hô khẩu hiệu ”Đả đảo cải cách ruộng đất” ,“Đả đảo cộng sản”, “đả đảo 
			Trung Cộng”, “Đả đảo Nga Sô“, “Đức Mẹ muôn năm”.  Vẫn theo báo 
			cáo này: đã có những xung đột với bộ đội. Kết quả là mỗi bên có 5 
			người chết và nhiều người bị thương. Vài ngày sau, Hồ Chí Minh công 
			bố quyết định sửa sai và cuộc sửa sai kéo dài đến cuối năm 1977...
			{Trích Bản ghi về hội nghị Trung ương ngày 30/11/1956 do Bộ 
			ngoại giao VNDCCH tổ chức}.
			Giữa những 
			người di cư trong vùng tự do và người di cư trong vùng chiếm đóng 
			của cộng sản, việc đi tìm tự do của loại người thứ hai khốn đốn và 
			gian nan hơn nhiều.Thường ít ai lưu tâm đến “mảng nguời di cư” 
			này. Họ phải đi lén lút, tổ chức đôi khi kéo đi cả làng, ra khơi 
			trên những bè mảng ghép lại từ những cây tre và đôi khi xảy ra xung 
			đột đẫm máu với chính quyền Việt Minh. Có báo cáo cho biết có những 
			cuộc xung đột xảy ra có đổ máu, trong số đó giáo dân bị chết và bị 
			thương có thể lên tới 50 người. {Trích Trần Thị Liên trong Vấn đề 
			công giáo miền Bắc …} Người Pháp đã gửi 2 tầu đến Vinh để đón tiếp 
			dân di cư vào cuối tháng 12/1954. Trung bình có 500 dân di cư Vinh 
			được đón tiếp trong thời gian này mà tổng số lên đến 10233 ngàn 
			người. {Trích OPTF, trang 186} 
			Việt Cộng 
			cũng đã dùng đủ mọi cách để ngăn chặn làn sóng di cư này như tuyên 
			truyền rỉ taị, đe dọa, rải truyền đơn, ngăn cản cấm đoán và đôi khi 
			dùng cả võ lực để ngăn chặn làn sóng di cư này. Điển hình là nhạc sĩ 
			Thẩm Oánh làm cho đài Radio Hà Nội bị Việt Minh đe dọa tính mang nên 
			ông yêu cầu được di cư vào miền Nam ngay lập tức. Giám đốc chương 
			trình Phạm Mạnh Phan thì không muốn nhận trách nhiệm di dời các 
			trang thiết bị đài xuống Hải Phòng. Cuối cùng vì thiếu sự quản lý 
			chặt chẽ, các trang thiết bị đó cũng biến mất ít lắm là 20%, và dù 
			được chuyên chở vào trong Nam, đài phát thanh Hà Nội cũng không hoạt 
			động trở lại được. Việt Minh cũng tìm cách mua lại các nhà in như 
			trường hợp nhà in tờ báo Pháp, tờ l’Entente cho một kẻ vô danh với 
			giá 780.000 động Việt cộng dùng những nhà in này để phổ biến truyền 
			đơn và để ngăn cản làn sóng người di cư.
			Để đánh bạt 
			những loại tuyên truyền này, hải quân Mỹ không có giải pháp nào hơn 
			là đối xử tử tế với người di cư, cho ăn uống đàng hoàng và chữa bệnh 
			săn sóc người đau ốm, mặc dầu có nhiều khác biệt văn hóa {Clash of 
			culture}.
			
			Vai trò của Ủy Hội Quốc tế kiểm soát đình chiến ICC
			ICC có ba 
			đại diện là Ba Lan, Ấn Độ và Gia Nã Đại. Nhưng vì thiếu thốn phương 
			tiện di chuyển nên lệ thuộc vào chính quyền địa phương là Việt Minh. 
			Họ bó tay, bất lực. Việt Minh dàn cảnh mỗi khi họ muốn đến thăm một 
			nơi nào.
			Bác sĩ Tom Dooley kể lại 
			kinh nghiệm của ông về vai trò của ICC như sau: “Quand les 
			représentants de la  visitaient un village, ils placaient une table 
			sur la place publique et faisaient savoir que n’importe qui, 
			désirait parler avec eux, pouvait le faire. Mais aux abords du 
			village, les Viet Minh bloquaient les routes, pour assurer, disaient 
			ils la protection des membres de la Commission. De cette manière, 
			ilks ne pouvaient receullir des informations et des plaintes que 
			d’un nombre limité de personnes, qui étaient par la suite soumise à 
			des représailles”. {Trích trong Catholiques et Bouddhistes au 
			Viet Nam, Piero Gheddo, trang 90}
			Khi đại diện Ủy Hội Quốc 
			tế đến thăm một làng, Việt Minh đã đặt một cái bàn ở một nơi công cộng 
			và cho hay rằng bất cứ ai muốn tiếp xúc với phái đoàn đều có thể nói 
			truyện. Nhưng ở đầu làng, Việt Minh đã chặn đường mà theo họ là để bảo 
			đảm an ninh cho các đại diện của phái đoàn. Bằng cách đó, đại diện 
			phái đoàn chỉ có thể lấy được những thông tin và những khiếu nại của 
			một số người rất giới hạn mà sau đó họ có thể bị trả thù. 
			
			Ký giả người Anh Robert 
			Cardigan viết trên tờ The Tablet, Londres, ngày 12/2/1955, trang 
			125-153 như sau: “Sự bất lực của Ủy hội quốc tế trong nhiều trường 
			hợp trong đó họ không thể can thiệp trực tiếp giúp cho người tị nạn 
			có quyền chọn lựa ra đi và đôi khi quá trễ, bởi vì những người di cư 
			trốn đi đã bị bắt nhốt. Hoàn cảnh của những người di cư khốn khổ này 
			đã bắt buộc nước Pháp của đại tướng Brebisson ở Paris can thiệp với 
			Commission d’armistice”.
			Cũng cùng 
			một nhận xét tương tự Ronald B. Frankum, Jr. viết: “The ICC was 
			incapable for dealing with violations of the Geneva Agreements and 
			the inconsistency of Viet Minh relocation. The Polish delegation 
			never failed to block American and South Vietnamese concerns about 
			the Viet Minh, while the North Vietnamese perceived the Canadian 
			representative to be nothing more than a puppet of the United 
			States.The Canadian members of the ICC were not reluctant to mention 
			the difficulties in working with the Polish representatives of the 
			ICC. In a conversation with Ainalie Kerr, Ottawa correspondent for 
			the Catholic weekly Ensign, several Canadian delegates confided in 
			the reporter that they were faced with insurmountable obstacles with 
			the ICC”. {Trích OPTF, trang 166} ICC không đủ khả năng để đối 
			đầu với sự vi phạm Hiệp định Genève và hành động mâu thuẫn của Việt 
			Minh. Đại biểu Ba Lan đã thành công trong việc ngăn chận mối lo ngại 
			của Mỹ và Nam Việt về vấn đề Việt Minh, trong lúc Bắc Việt nhận thấy 
			đại diện Gia-Nã-Đại không gì khác hơn là một thứ bù nhìn của Hiệp 
			Chủng Quốc. Các thành viên Gia-Nã-Đại của ICC đã không ngại ngần gì 
			đề cập đến những khó khăn khi họ phải làm việc với đại diện Ba Lan 
			của ICC. Trong cuộc đàm thoại với Ainalie Kerr, phóng viên ở Ottawa 
			cho tờ báo tuần Ensign, vài đại biểu Gia-Nã-Đại có tâm sự với người 
			ký giả rằng họ phải đương đầu với những chướng ngại không thể vượt 
			qua được với ICC.
			Trong tờ 
			Actualité, ra ngày 15/4, 1955, trích lại trong sách của Piero Ghedo, 
			tác giả bài báo dự đoán, nếu không có những vụ bắt bớ, ngăn chặn, 
			hăm dọa thì số lượng người di cư không phải chỉ là con sồ gần một 
			triệu người, mà có thể là 3 triệu người.
			Con số đưa 
			ra có thể hơi xa thực tế.
			Có một nhận 
			xét mà Việt Minh không chối cãi được là các cuộc di cư từng cả làng 
			lại là những người di cư ở trong vùng Việt Minh chiếm đóng từ năm 
			1946… Chính những người dân đã từng sống dưới chế độ cộng sản trong 
			9 năm chiến tranh dưới quyền kiểm soát của họ lại là những người 
			muốn ra đi trước nhất. 
			Xin trích dẫn một đọan 
			trong tờ Missi, 1956, số 2, trang 41: “Contastation humiliante 
			{pour le Viet Minh} la poussée la plus impétueuse et la plus 
			persistante vers le Sud vient des provinces qui, depuis 1946, se 
			trouvaient entìèrement sous le régime Viet Minh”. Một điều đáng 
			lấy làm tủi hổ cho Việt Minh là người ta nhận thấy làn sóng người di 
			cư kiên trì nhất và dữ dội nhất muốn di cư vào Nam lại là những tỉnh 
			hoàn toàn dưới quyền kiểm soát của chế độ của Việt Minh từ năm 1946.
			Hóa cho nên, càng sống 
			với Việt Minh thì càng muốn trốn thoát khỏi bọn họ. 
			Bài học càng 
			đậm, càng sâu, càng thấm thía.
			Chứng từ của 
			Ronald B. Frankum.Jr..: “Earlier, a priest who had escaped by 
			sampan from Thai Binh told American officials that twenty thousand 
			civilians from that district and fifty thousand from neighboring 
			district wanted to leave for the South but were denied transit to 
			Hai Phong by the Viet Minh … On october 1, two thousand refugees 
			arrived at Camp Pagoda in Hai Phong after a seventy-mile journey 
			through Viet Minh-held territory aboard twenty-seven sampans. The 
			new arrivals informed camp officials that another fifty sampans were 
			behind them trying to make their way to the embarkation point”. 
			{Trích OPTF, trang 139-140} Một linh mục đã trốn thoát được khỏi 
			Thái Bình bằng bè mảng đã nói với các viên chức Hoa Kỳ rằng còn có 
			20 ngàn thường dân ở Thái Bình và 50 chục ngàn người khác ở vùng lân 
			cận đã muốn đi vào miền Nam, nhưng đã bị Việt Minh ngăn chận không 
			cho đến Hải Phòng. Vào ngày 1 tháng 10, 2.000 người tị nạn đã tới 
			trại Pagoda ở Hải Phòng sau một cuộc hành trình dài 70 dặm xuyên qua 
			lãnh thổ Việt Minh trên 27 chiếc thuyền tam bản. Những người mới đến 
			đã thông báo cho các viên chức ở trại rằng còn có 50 chiếc thuyền 
			tam bản nữa đi đằng sau và đang cố tiến đến điểm tiếp cư.
			Dựa theo tài 
			liệu chính thức của chính phủ VNCH kể từ ngày 7/7/1954 đến 7/7/1960, 
			phái đoàn chính phủ VNCH đã chuyển Ủy Hội Quốc tế 3.755 lá đơn xin 
			can thiệp cho 84.129 người và 1.973 gia đình ở miền Bắc di cư vào 
			miền Nam.
			Phái đoàn đã 
			chuyển cho Ủy Hội Quốc -Tế 13.015 lá đơn xin can thiệp cho 13.843 
			người bị Việt Cộng ép buộc tập kết ra Bắc. Việt Minh khuyến dụ các 
			cán binh tập kết ra Bắc để gia đình vợ con ở lại trong Nam, hứa hẹn 
			2 năm sẽ trở về. Sau hai năm, tin trở về vẫn biệt tăm. Họ làm đơn 
			kiện đòi chồng đòi con, yêu cầu Ủy Hội Quốc tế can thiệp. {Trích Hồ 
			Đắc Huân, Sáu năm  hoạt động của chánh phủ, trang 256}
			Không bao 
			giờ có hồi âm hay hướng giải quyết của chính quyền cộng sản. Sau đây 
			xin ghi lại một câu truyện lý thú xảy ra khi có lệnh tập kết ra Bắc.
			
			Trong số 
			người tập kết, người viết quen biết con gái một gia đình của một cặp 
			vợ chồng trẻ. Đã bao lần, người viết có dự định viết lại câu truyện 
			đẹp này để nhận ra những tình người trong những hoàn cảnh ngang 
			trái, éo le. Không phải để trách ai, nhưng để thấy và để cảm nhận. 
			Nay xin mượn mấy dòng này kể lại câu chuyện người chồng tập kết ra 
			Bắc để lại vợ trẻ và một cô con gái chừng vài tuổi. Người vợ trẻ 
			đành kiếm kế sinh nhai, mở một quán nước, nhờ đó quen biết một trung 
			úy quân đôi VNCH. Người sĩ quan này có một tấm lòng hào hiệp chấp 
			nhận lấy người phụ nữ này đồng thời coi đứa bé gái như con ruột, 
			nuôi nấng dạy dỗ bé gái đó nên người. Trước 75, cô con gái nay đã là 
			một thiếu nữ xinh đẹp, tốt nghiệp cử nhân luật.
			Không có tấm 
			lòng của bố nuôi làm sao cô đạt được những điều như vậy. Còn vị 
			trung úy nay đã là đại tá trong quân đôi VNCH. Ông bị đưa đi học tập 
			cải tạo.
			Phần cô gái, 
			ra nước ngoài, mở quán ăn, vừa học vừa làm để nuôi con, miệt mài lo 
			học lại luật ngành chưởng khế. Nay cô đã là một chưởng khế nổi danh, 
			tham dự và giúp đỡ vào nhiều công tác xã hội và văn hóa của cộng 
			đồng người Việt.
			Nhưng cô vẫn 
			canh cánh bên lòng, phải tìm lại người cha ruột tập kết ra Bắc, nay 
			lưu lạc nơi nào. Sau nhiều thời gian và thử thách, cô đã quyết tâm 
			về VN một chuyến, lên Di Linh, vào trong vùng sâu, nơi ông già tập 
			kết nay về hưu ở với con cái của ông.
			Nỗi mừng đã 
			gặp. Nhưng không khỏi ngậm ngùi cảnh ông già đời sống không khấm khá. 
			Cô quyết định bỏ tiền ra xây nhà và giúp đỡ các đứa em cùng cha khác 
			mẹ. 
			Chiến tranh 
			làm chia lìa, làm tan đàn rã gánh, nhưng chính ở nơi ấy vẫn có những 
			tấm lòng, vẫn có tình người vượt lên trên những hận oán không dễ dầu 
			gì tránh khỏi. 
			
			Tín Phiếu và vàng của đồng bào di cư vào Nam
			Đây cũng là 
			những chi tiết tài liệu khá lý thú. Đây là những số tiền mà Việt 
			Cộng đã tịch thu của đồng bào cũng như số tiền tín phiếu Hồ Chí Minh 
			tổng cộng là: 2.533.257.860 đồng. Số tiền mà Việt Minh đã nuốt không 
			của đồng bào liên khu V khi di cư vào Nam tại các tỉnh Quảng Ngãi, 
			Bình Định.
			Bao giờ đến 
			lượt chúng ta vác đơn ra  tòa án quốc tế để kiện đồng loạt về sự 
			chiếm hữu tài sản đất đai của người di tản và nhất là tài sản của 
			các giáo hội như trường học, nhà thương, các cơ sở xã hội sau 1975? 
			{Trích Hồ Đắc Huân, 6 năm hoạt động của chính phủ, trang 257}
			Như trường 
			hợp đòi đất ở Thái Hà hiện nay?
			Tiếp theo là 
			vô số thư phản kháng gửi Ủy Hội về vấn đề phá rối miền Nam {trường 
			hợp Việt Minh ám sát đại tá Hoàng Thụy Nam, đại diện chính phủ VNCH 
			bên cạnh Ủy Hội}, phá hoại đường xá, cầu cống, đường sắt và các hồ 
			sơ tư pháp của hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.
			Phái đoàn 
			bên cạnh Ủy Hội của VN cũng cho xuất bản một cuốn Bạch thư bằng 
			tiếng Pháp, sau dịch ra tiếng Anh, năm 1959 {trích Hồ Đắc Huân với 
			cuốn 6 năm hoạt động của chính phủ VNCH} để kết án cộng sản 
			vi phạm Hiệp định Genève.
			Những 
			ngày cuối cùng ở các trại tạm cư Hải Phòng     
			Xin nhấn 
			mạnh một chi tiết là việc rút quân không đồng loạt là 300 ngày, 
			nhưng được định riêng cho từng khu vực với các thời hạn khác nhau. 
			Nhất là trong việc di chuyển quân đội Pháp. Quân đội Liên Hiệp Pháp 
			phải rút khỏi:
			-          
			
			Khu Hà Nội : 
			80 ngày
			-          
			
			Khu Hải 
			Dương : 100 ngày 
			-          
			
			Khu Hải 
			Phòng : 300 ngày
			Rồi thì cái 
			thời gian hết hạn nó cũng sẽ đến.
			Nhưng ngày 
			12/10 cũng đánh dấu giai đoạn đầu của cuộc di cư đã chấm dứt và đã 
			thành công với hơn 200.000 đã được đưa vào miền Nam. Đây cũng là lúc 
			mọi người chờ xem Việt Minh, kẻ mới tới, đối xử ra sao với người dân 
			Hà Nội? Nhiều người hy vọng rằng sẽ được đối xử tử tế?
			Dĩ nhiên còn 
			lại 200 ngày của Hải Phòng để người dân nhận biết vàng thực hay vàng 
			giả. Vì thế, không ít người đã trì hoãn lại việc ra đi vào miền Nam. 
			Cộng thêm tết nhất gần tới, dân quê thì muốn thu gặt cho xong... Bấy 
			nhiêu lý do để người di cư sống chờ đợi. Wait and see.
			Dưới đây, 
			xin ghi lại chứng từ của bác sĩ Dooley, một trong những người Mỹ 
			cuối cùng còn ở lại miền Bắc, Hải Phòng trước thời hạn tiếp thu. Bác 
			sĩ Dooley {1927-1961} làm việc trên tầu USS Montague, sau ông tình 
			nguyện làm việc cho các trại tạm cư tại Hải Phòng, ông được đại tá 
			tình báo Edward G. Landsdale tin dùng. Sau 1955, ông tình nguyện 
			sang Lào mở chẩn y viện rồi bị bệnh ung thư, ông chết rất sớm. Có 
			những vận động phong thánh cho ông, nhưng không có kết quả, ông bị 
			tai tiếng vì đồng tình luyến ái.
			Sau này, TT 
			Kennedy, nước Mỹ coi ông như một biểu tượng cho giới trẻ Mỹ.
			Nhưng đối 
			với người Việt thì coi ông tượng trưng cho lòng nhân đạo và lòng bác 
			ái.
			Cuộc di cư 
			này đậm nét với biểu tượng hình ảnh bác sĩ Dooley. Người Việt di cư 
			còn rất xa lạ với người Mỹ. Nhưng qua bác sĩ Dooley như một thứ đại 
			sứ tinh thần, người Việt di cư nhìn người Mỹ với đôi mắt thiện cảm 
			và lòng biết ơn.
			Không mấy 
			người Việt di cư mà lại không một lần nghe về vị Bác sĩ này. Ông đã 
			sát cánh bên cạnh người di cư từ lúc đầu đến lúc cuối, nhờ đó ông 
			báo cáo những khó khăn đủ loại mà người di cư gặp phải trong lúc tạm 
			thời ở các trại tiếp cư. Ông cũng là một trong những người Mỹ cuối 
			cùng ở lại để thu dọn các trại tiếp cư trước khi ra Đồ Sơn và từ đó 
			lên tầu vào Miền Nam. Bác sĩ Dooley đã ghi lại hồi ức cái ngày cuối 
			cùng đáng ghi nhớ ở Hải Phòng như sau: “It was relatively quiet 
			during the transition. The Navy Base close to day, the piers are 
			gone, the building are emptied. There is nothing left in my 
			warehouse there; all have been transferred to the ship”. 
			{Trích OPTF, trang 204}
			“Trong lúc 
			chuyển tiếp thì tương đối yên ổn. Căn cứ Hải Quân hôm nay đóng cửa, 
			các bến tầu đã mất dạng và tòa nhà thì trống không. Chẳng còn thứ gì 
			trong kho hàng của tôi ở đó cả, tất cả đã được chuyển lên tầu rồi”.
			Điều này cần 
			được nhấn mạnh thêm, vì phần đông người di cư đã không biết rằng, 
			trong cuộc di cư người này, cả người Mỹ và người Pháp đều không muốn 
			để lại bất cứ tài sản vật chất nào xét ra có lợi cho cộng sản. Ngoài 
			300.000 ngàn tấn trang thiết bị quân sự trù liệu được chở vào Nam. 
			Phần còn lại gồm phần lớn các cơ sở kỹ nghệ nhẹ được người Pháp và 
			chính quyền Quốc gia giúp đỡ để chuyên chở vào miền Nam. Người ta 
			trù liệu đến việc tháo gỡ nhà máy cement Hải Phòng, mỗi năm sản xuất 
			khoảng 400.000 tấn. Mỏ than Hòn Gai chừng 2 triệu tấn/năm, nhà máy 
			dệt Nam Định v.v. Cho dù, dự định tháo gỡ toàn bộ trang thiết bị 
			không thể thực hiện đồng bộ thì công việc tháo gỡ từng phần cũng gây 
			trở ngại không ít cho chính quyền Việt Minh sau này.
			Ngày 9 tháng 
			5, chuyển giao quyền hành cảng Hải Phòng cho Việt Minh mà không có 
			điều gì trục trặc xảy ra kết thúc hơn một năm trời việc tiếp đón và 
			chở người di cư miền Bắc vào miền Nam.
			Chiếc tầu 
			chiến cuối cùng của Mỹ dời Đồ Sơn là chiếc General Brewster mang 
			theo toàn bộ lực lượng an ninh của Pháp còn ở lại cũng như tất cả 
			các trang thiết bị của họ. Chưa kể hơn 500 người di cư cuối cùng 
			trong đó có người cha và đứa con gái ra di để lại vợ, vì bà này 
			không muốn đi khỏi Hà Nội.
			
			Giai đoạn di cư: Operation Passage to Freedom
			Để di chuyển 
			hơn 800.000 người di cư từ miền Bắc vào miền Nam, một mình người 
			Pháp và chính quyền quốc gia không thể nào cáng đáng nổi.
			Thủ tướng 
			Ngô Đình Diệm đã kêu gọi sự giúp đỡ của người Mỹ vào công việc này. 
			Tổng thống Eisenhower hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tướng Diệm đã ra 
			lệnh cho chủ lực 90 của đệ thất hạm đội Mỹ đến Việt Nam giúp đỡ việc 
			chuyên chở người di cư. Đoàn này đã trở thành những chiến sĩ hòa 
			bình giúp đỡ dân chúng miền Bắc đi tìm tự do. {Trích Cuộc Di Cư 
			Lịch Sử, trang116}
			Kể từ ngày 8 
			tháng 8 cho đến 20/ 8/1954, chương trình của quân đội Pháp là di 
			chuyển bằng máy bay vào khoảng 1500 người mỗi ngày với tổng số 
			15.400 người. Cho đến tháng 5 năm sau, máy bay Pháp đã di chuyển vào 
			Nam được 172.783 thường dân Việt Nam, 6187 quân đội quốc gia và 
			25.459 quân đội Pháp. Cộng chung, máy bay của Pháp đã chuyên chở 
			đươc 213.635 người di cư, 11.206 thường dân Pháp.
			Tầu của Pháp 
			cũng di chuyển được tổng cộng là 234.975 người di cư. Nếu cộng chung 
			hai số lượng người di cư vào miền Nam bằng máy bay và bằng thuyền 
			thì người Pháp đã chở được gần nửa triệu người di cư vào miền Nam, 
			con số chính xác là 448.610 người. {Trích OPTF, trang 205}
			Số còn lại 
			hơn 300.000 người di cư là do người Mỹ đảm trách theo kế hoạch có 
			tên Operation Passage to Freedom.
			Những con số 
			vừa nêu trên so với tài liệu chính thức trong Cuộc Di Cư lịch sử 
			của Phủ Tổng Ủy di cư cũng không mấy khác khác biệt?
			Theo tài 
			liệu trong Cuộc Di Cư Lịch Sử, máy bay Pháp chở được 4280 
			chuyến, tổng cộng 213.635 người. Bên cạnh máy bay của Pháp còn có 
			các hãng máy bay tư  giúp sức như Air France, Air-Việt Nam, Autrex, 
			Aigle-Azur, Air-Outremer, Cat, Cosara và U.A.T. Đó là cây cầu hàng 
			không lớn nhất nối liền giữa Hà Nội, Hải Phòng- Sàigòn, dài 1174 cây 
			số.
			Trong lòng 
			mỗi chiếc máy bay đã được tháo gỡ hết các ghế và dụng cụ để dành 
			thêm chỗ rộng trở thêm được nhiều người tỵ nạn.
			Tàu thủy 
			Pháp chở  được 338 chuyến, tàu Mỹ 109 chuyến, tàu Anh 2 chuyến, tàu 
			Trung Hoa, 2 chuyến, tàu Ba Lan, 4 chuyến, tổng cộng là 555.037 
			người.
			Và một số 
			người đi bằng phương tiện riêng là 102.861 người. 
			Cộng chung 
			tất cả là 871.5533. Một con số được coi là khá chính xác. {Trích 
			Cuộc Di Cư lịch Sử, trang 120}
			Trước khi 
			thực hiện kế hoạch này, người Mỹ đã chuẩn bị kỹ càng mọi chuyện như 
			thăm dò cảng đỗ cho tầu chạy dài từ Hải Phòng ra đến Đồ Sơn, phòng 
			ngừa sự phá hoại của Việt Minh đối với các tầu chiến đậu ở cảng và 
			ngoài khơi Hải Phòng. Chuẩn bị đủ các loại tầu cho việc di chuyển 
			này: đủ loại tầu tiếp viện, đủ loại tầu đổ bộ, đủ loại tầu chở xe 
			tăng, thiết giáp, tầu sửa chữa, tầu cao tốc, tầu tấn công, tầu dầu, 
			tầu bệnh viện vv..Tất cả là 113 chiếc.113 chiếc này đã chuyển người 
			từ Bắc vào Nam, có chiếc đã 3 hoặc 4 lần di chuyển từ Bắc vào Nam. 
			Chẳng hạn các tầu há mồm LST đã để ra 651 ngày hải trình trên biển. 
			Loại tầu LCU để ra 579 ngày. Loại tầu APA 264 ngày. Tổng cộng toàn 
			thể các tầu Mỹ đã để ra 2181 ngày hải trình để chuyên chở người di 
			cư từ Bắc vào Nam. {Trích OPTF, trang 139} 
			Đó là những 
			con số khó có thể tưởng tượng ra nổi. Nó nói lên nhiều điều, trong 
			đó báo hiệu kể từ nay, nước Mỹ sẽ còn dính dáng nhiều đến chính thể 
			miền Nam còn non trẻ. Những tên tuổi như Eisenhower, Nixon, Kennedy, 
			Johnson, Kissinger, Mc Namara sẽ gắn liền với những biến cố lớn nhỏ 
			ở miền Nam. 
			Số phận dân 
			miền Nam nay tùy thuộc họ. Lúc đầu họ đến với những hào quang, lòng 
			kính phục, lúc họ đi chỉ còn là cay đắng và miệt thị.
			Nhưng dù thế 
			nào thì họ cũng đã đến.
			Muốn chuyên 
			chở được như thế, hải quân Mỹ phải hủy bỏ tất cả các hải trình huấn 
			luyện đã nằm trong kế hoạch với chính phủ Nam Hàn v.v.
			Ngoài ra họ 
			đã chuẩn bị 85 ngàn phao cứu sinh, life jackets, 85 ngàn chiếu, 
			700.000 đôi đũa, 17 ngàn sô đựng nước, 150 ngàn tấn gạo.  Còn cần 
			chuẩn bị đầy đủ xăng dầu, đồ khô, đồ đông lạnh, ly giấy cho mỗi 
			chuyến hải trình.
			Họ tổ chức 
			bài bản lắm. Từng chi tiết một. Từng nhu cầu nhỏ cho người di cư 
			theo cách sống của họ. Một cái kẹo cho trẻ nhỏ, nghe thì dễ, nào đã 
			mấy người nghĩ ra được?  Vì thế, trẻ con mới nhớ đời. Người lớn thì 
			từ cái bàn chải đánh răng, kem đánh răng, chiếc khăn mặt mà rất 
			nhiều người di cư xử dụng lần đầu tiên trong đời họ.
			Phải nói là 
			đâu ra đấy. Hơn Pháp nhiều. Không phải chỉ có tiền bạc mà còn là óc 
			tổ chức, rất lô gích. Tỉ dụ, để cho tầu chiến của họ có bến đậu, 
			Pháp chẳng giúp gì được cho họ. Họ làm đủ các thứ cần thiết để bảo 
			đảm cho tầu của họ có thể cập bến an toàn suốt từ Hải Phòng ra đến 
			Đồ Sơn. Trong vòng có mấy ngày phải xong.
			Trên tầu, 
			vấn đề vệ sinh cá nhân cho người di cư là tối cần thiết. Thủy thủ Mỹ 
			đã “sáng chế  ” những cầu tiêu dã chiến bằng các sô nhựa cắt 
			đôi, rồi ghép ván lên trên để ngồi. Một chiếc tầu chở 2000 người cần 
			có 50 chiếc cầu tiêu dã chiến như thế. Và còn phải chỉ dạy cách xử 
			dụng cho đúng, vì có nhiều người tị nan xử dụng các thùng cầu tiêu 
			này để giặt giũ và tắm rửa cho trẻ con.
			Họ đáng hãnh 
			diện về những điều họ đã làm. Mà những việc làm này do những thủy 
			thủ tầm thường trên tầu tự nghĩ ra. Không ai dạy họ. Cũng không ai 
			ra lệnh cho họ phải làm. Không ai bắt họ phải dạy cho một đứa trẻ 
			lên 5 cách cầm cây gậy khúc côn cầu. Không ai dặn dò một thủy thủ da 
			đen cạo sơn trên thành tầu với một chú thợ phụ chưa quá 8 tuổi. Cả 
			hai làm việc một cách tự nhiên và thoải mái.
			Những cảnh 
			như thế đẹp lắm. Rất là người. 
			Họ lo cho 
			bữa ăn người tị nạn một cách gọn và chu đáo, hợp khẩu vị được chừng 
			nào hay chừng đó.
			Họ tỏ ra rất 
			nhân bản, đầy tình người. Còn người tị nạn tỏ ra một quyết tâm không 
			gì lay chuyển được. Hai yếu tố tinh thần đó đã làm nên chuyện lớn: 
			chuyện người di cư 54-55. Đó cũng là chuyện người đàn ông đang kéo 
			một chiếc xe bò, mặc quần xà lỏn, đôi chân trần gò lưng kéo xe. Đằng 
			sau chỉ thấy loáng thoáng một bóng dáng phụ nữ đẩy xe và ba bốn bàn 
			chân khác nhìn được dưới gậm xe.
			
			Tôi nhìn và thấy ở đấy sức mạnh của người di cư 54-55
			Như lời nhận 
			xét của tác giả OPTF, trang 163: The stories of the Vienamese 
			provide insight into not only the obstacles they had to face from 
			the Viet Minh but also the strenght of conviction that helped 
			them go on this passage to freedom. Mr Tran Van Tru, a 
			fifty-six-year-old catholic farmer from Hải Hậu district, Bui Chu 
			province, told what the eight people in his family went through to 
			arrive in Hai Phong: We abandoned our house, our garden, our rice 
			field to flee South. We arrived November 2, 1954, without having 
			been able to bring any thing with us”. 
			''Nội dung 
			câu chuyện của những người dân Việt cho thấy không chỉ vì những 
			chướng ngại mà họ phải đối diện với bọn Việt Minh, mà còn là niềm 
			xác tín vững mạnh đã giúp cho họ tiếp tục trên con đường đi tìm tự 
			do. Ông Trần Văn Trụ, một nông dân công giáo, 56 tuổi, đến từ huyện 
			Hải Hậu, tỉnh Bùi Chu, kể lại những gì mà 8 người trong gia đình ông 
			đã trải qua để tới Hải Phòng: Chúng tôi đã bỏ lại tất cả nhà cửa, 
			vuờn tược, ruộng nương để chạy trốn vào trong Nam. Ngày 2 tháng 11, 
			1954, chúng tôi đến nơi mà không mang theo được một thứ gì''.
			Rất tiếc là 
			ngày nay, ít khi chúng ta còn được nhìn thấy những đôi mắt quyết tâm 
			như thế.
			Trên mỗi 
			tầu, hải quân Mỹ yêu cầu người Pháp cung cấp thông dịch viên, nhưng 
			không có đủ. Một số người di cư có học và nhất là một số linh mục đã 
			giúp một tay đắc lực trong truyện này. Vai trò của mấy vị linh mục 
			trên mỗi chuyến tầu như trung gian để giải quyết những khó khăn cũng 
			như khi cần giải thích hoặc quy luật nội bộ cần phải được tôn trọng 
			và tuân theo trên tầu.
			Người viết 
			nghĩ rằng, người Mỹ đã tổ chức, kế hoạch tỉ mỉ, quy mô, dự liệu tất 
			cả mọi nhu cầu cần thiết cho người tỵ nạn khi bước lên tầu cho đến 
			lúc rời khỏi tầu. Những kỷ niệm đẹp, nhiều kỷ niệm khó quên trên các 
			chuyến tầu Mỹ chở người di cư, nay nhiều người không thể không nhớ 
			lại.
			Có những 
			thủy thủ đoàn đã quyên góp tiền lương và tặng lại cho người di cư đi 
			trên các chuyến tầu của họ.
			Nhiều người 
			sẽ không quên được những giường nằm cá nhân treo lủng lẳng lên bằng 
			những giây xích sắt gồm bốn tầng đu đưa trên không. Những gói quà 
			nho nhỏ “welcome kits” do thủy thủ đoàn trao tặng mỗi người tị nạn 
			trong đó có thuốc đánh răng, bánh sà bông, khăn mặt, kẹo và hộp sữa 
			nhỏ có ghi: From the people of America to the people of Viet Nam 
			– a gift. {Tóm lược bài báo của Gertrude Samuels, Passage to 
			Freedom in Việt Nam,   số tháng 6-1955, trang 15}
			Khi đặt chân 
			xuống cảng Sàigòn, người ta nhận thấy hình ảnh những người di cư, 
			phần đông người nào cũng đội một cái nón, áo vải nâu đậm khác với 
			mầu đen của người Sài gòn. Người Bắc áo nâu, người Nam áo đen. Đàn 
			bà chít khăn, rẽ ngôi giữa, răng nhuộm đen, đi chân đất, dáng mệt 
			mỏi tay xách nách mang hoặc bồng con dại, nét mặt ngơ ngác, ngại 
			ngùng bối rối, câm lặng khi bước chân đến một nơi xa lạ như đất 
			Sàigòn. Một Sàigòn xa hoa, thanh lịch, xe cộ chạy như mắc cửi đến 
			lóa mắt, nhất là những chiếc xe gắn máy lao đi như một mũi tên nhả 
			khói mù mịt cộng với tiếng còi xe inh ỏi, tiếng nói lạ tai.
			Xin dẫn một 
			chứng từ về tâm trạng một người di cư khi đặt chân lên bến cảng Sài 
			Gòn đã được đăng trên báo Tự Lập như sau: “Hải Phòng, tờ mờ sáng, 
			trên các ngả đường, đông đảo đồng bào đã lũ lượt chen chúc để lên xe 
			chở đến bến tầu thủy vào Nam. Tưng bừng và náo nhiệt... Tất cả nói 
			lên sức sống rồi rào và tinh thần bất khuất của quần chúng dưới ách 
			độc tài cộng sản... Hành lý cồng kềnh nặng nề của đồng bào đã có 
			đoàn cán bộ đeo thẻ trắng ở ngực tận tâm khuân vác giúp xuống tầu. 
			Chúng tôi đã nhanh nhẹn trèo lên boong tràn ngập niềm tin. Đối chiếu 
			luận điệu tuyên truyền của VM với những điều tai nghe mắt thấy ở 
			đây, người ta đều thông cảm nhau qua nụ cười mỉa mai có ý khinh bỉ. 
			Trông kìa, một thủy thủ ngoại quốc già đang học gánh, ông ta gù cả 
			lưng, rụt cả cổ, hai tay trước mặt cố đè cái đầu đòn gánh cho khỏi 
			bị võng mà vẫn nặng quá, loạng choạng không sao bước được. Trên tầu, 
			những tràng cười nổi lên.
			Tầu nhổ neo 
			và dần dần ra biển. Tầu Marine Serpent, một chiếc tầu Mỹ lớn có thể 
			chở được 6.000 người...Chúng tôi tha hồ ngắm cảnh nước non, lòng tôi 
			thư thái, tâm hồn tôi phơi phới. Phải chăng, tôi vừa thoát khỏi một 
			chốn tù đầy mà sống lại ở giữa cõi đời? Gặp nhau đây là xóm làng họ 
			hàng, là bà con thân thích cả. Dưới trời tự do, sức lực con người sẽ 
			đem ra xây dựng cho đời mình cơm no áo ấm, khỏi phải ”ký cóp cho cọp 
			nó sơi”, kẻ làm, sống khổ, người ngồi ăn ngon. Sự tổ chức trong tầu 
			chu đáo và khoa học lắm. Người ta được lĩnh cơm ngày hai bữa, rất 
			đầy đủ, món ăn được săn sóc kỹ càng... Mấy vị bác sỹ người Mỹ thân 
			hành đi buồng này đến buồng khác, dừng lại trước giường nằm của từng 
			người đề phân phát thuốc chữa say sóng.
			Tầu cập bến 
			Sài Gòn một sớm mai trời đẹp. Bình minh lên như đời sống đang vươn 
			lên.. ánh sáng rực rỡ của mặt trời phương Nam cũng là ánh sáng tự do 
			của đồng bào di cư Bắc Việt hàng khao khát.. Đồng bào chen chúc lên 
			đứng chật boong, lặng nhìn “cảnh ngựa xe như nước của hòn ngọc Viễn 
			Đông”. Lòng người bâng khuâng, hồi hộp trước sự tiếp đón dản dị 
			nhưng cảm động của chính phủ Quốc Gia...
			Riêng gia 
			đình ông Phạm Hùng Sơn, chủ gia đình thứ 100.000 người di cư do tầu 
			thủy Mỹ chở vào... Hải quân Mỹ đã dành riêng chiến hạm G.C 12 để chở 
			mình gia đình ông vào Nam. Và chính Thủy sư đô đốc hải quân Mỹ cũng 
			có mặt trên chiến hạm này để săn sóc gia đình ông Phạm Hùng Sơn” 
			{trích Cuộc Di cư lịch sử, trang 122-123}
			Và chỉ đến 
			cuối năm 1954, nghĩa là sau 4 tháng hoạt động, các chiến hạm Mỹ đã 
			chuyên chở được 175.227 thường dân và 14.089 binh sĩ từ Bắc vào Nam 
			Cộng thêm 6388 xe cộ và 50.238 tấn trang thiết bị. Nghĩa là hơn một 
			phần ba trên tổng số người di cư do hải quân Mỹ đảm nhận. {Trích 
			OPTF, trang 193}
			
			Vấn đề số người Thiên Chúa giáo di cư từ Bắc vào Nam sau Hiệp định 
			Genève
			Có rất nhiều 
			con số khác nhau khi nói vế số người Thiên Chúa giáo di cư.
			-  
			
			Số liệu 
			chính thức của giám mục Phạm Ngọc Chi, người chịu trách nhiệm trực 
			tiếp trông coi khối người Thiên Chúa giáo di cư lấy 
			tên là: “Ủy ban hỗ trợ định cư”, văn phòng ủy ban đặt cạnh 
			nhà thờ Huyện Sỹ, đường Bùi Chu, SàiGòn. Giám mục Phạm Ngọc Chi đã 
			làm phúc trình và chính thức gửi về Bộ truyền giáo La Mã. Theo phúc 
			trình, có tổng số 860.206 người di cư từ miền Bắc vào miền Nam, 
			trong số đó có 676.348 người là giáo dân .
			-  
			
			Tài liệu của 
			cơ quan cứu trợ Mỹ đưa ra như sau: tổng số người di cư: 887.895. 
			Trong đó 85% là Thiên Chúa giáo: 754.710. Phật giáo và tin lành: 15% 
			133.185.
			-  
			
			Theo Stephen 
			Denney trong bài viết mới đây nhất: Giáo hội công giáo tại Việt 
			Nam, bản dịch do anh Đỗ Hữu Nghiêm chuyển ý, một bài viết với 
			rất nhiều tài liệu dẫn chứng đã cho rằng có khoảng 900.000 người di 
			cư trốn khỏi miền Bắc, trong số đó 700.000 người Thiên Chúa giáo 
			và gồm có 619 linh mục, 5 giám mục và để lại miền Bắc 375 linh mục, 
			4 giám mục Việt Nam và 2 giám mục ngoại quốc.
			-  
			
			Theo Trần 
			Tam Tỉnh trong Thập Giá và Lưỡi Gươm, trang 113, căn cứ vào 
			thống kê của các giáo phận và của Việt Minh, ông đưa ra một biểu đồ 
			tỉ mỉ và chi tiết về số người Thiên Chúa giáo di cư như sau: Các 
			tỉnh có số người Thiên Chúa giáo chiếm 50% tỉ số dân chúng di cư gồm 
			Bắc Ninh 52%, Phát Diệm 58%, Bùi Chu 60%, Thái Bình 50%, Lạng Sơn 
			50%, Hải Phòng 51%. Tổng số người Thiên Chúa giáo miền Bắc là 
			1.390.000 và tổng số người di cư có đạo là 543.500 người cộng 
			với 809 linh mục. Đây là con số người có đạo di cư thấp nhất được 
			đưa ra.
			-  
			
			Theo Piero 
			Gheddo trong cuốn sách Catholiques et Bouddhiste au VietNam, 
			trong phần chú thích, trang 99, ông ghi lại như sau: Theo tài liệu 
			của ông giám đốc của ủy ban di cư thì có: 928.152 người di cư, trong 
			đó có 794.876 là người Thiên Chúa giáo.
			-  
			
			Nhưng theo 
			cơ quan thông tin Thiên Chúa giáo quốc tế, số ra ngày 15/4/1956, 
			trang 17, có 860.206 người di cư, trong số đó có 676.384 người 
			theo đạo.
			-  
			
			J. Buttinger 
			trong Viet Nam, a dragon embattled, London, 1967, trang 900 
			cho rằng khó có thể có con số chính xác về số người di cư. Vì tài 
			liệu về người di cư đã bị hỏa hoạn trong vụ nổi loạn của Bình Xuyên 
			vào năm 1955. Mặc dầu vậy, ông đã đưa ra con số hơn một triệu người 
			di cư trong đó có vào khoảng trên dưới 200.000 quân nhân. {Con số 
			200.000 quân nhân là không chính xác.} Thường dân có 706.000 người, 
			dân thuyền chài là 88.000 người, công chức, sinh viên, tiểu thương 
			gia là 133.000. Cộng chung là 927.000. Không cho biết số lượng giáo 
			dân là bao nhiêu.
			-  
			
			Trong một 
			bài viết của bà Đặng Phương Nghi {Bà Đặng Phương Nghi tốt nghiệp 
			trường École des Chartes, cựu Giám đốc nha Văn Khố và thư viện VNCH 
			trước 1975}. Dựa vào báo cáo của ủy ban kiểm soát quốc tế cho thấy 
			có 888.124 người di cư {số của Nam Việt} và 892.876 {số của Bắc Việt} 
			so với số 4.269 người bỏ miền Nam ra miền Bắc. Nhưng những con số 
			trên không kể đến binh
			
			
			  lính, 
			hoặc những người đã trốn vào Nam sau ngày 20/7/1955. Bà Đặng Phương 
			Nghi cho rằng trong Nam vào đầu năm 1954, có 700.000 người Thiên 
			Chúa giáo, mà toàn quốc có 1.600.000. Trừ 700.000 của miền Nam thì 
			miền Bắc có 900.000 người có đạo. Nếu 700.000 người di cư thì ở miền 
			Bắc chỉ còn lại 200.000 giáo dân.Thế mà tài liệu chính thức của giáo 
			hội miền Bắc vào năm 1964, lập theo từng địa phận sau này cho biết 
			có 833.468 giáo dân. Phần giáo hội miền Nam nay tăng thêm 700.000 
			giáo dân thì tổng cộng sẽ là 1.400.000 người. Vậy mà theo ước lượng 
			của giáo hội vào năm 1960, trong Nam chỉ có từ 1 triệu mốt 
			đến 1 triệu hai giáo dân theo Seigliano ghi lại. Như vậy, con số 
			700.000 ngay cả 600.000 giáo dân di cư vào miền Nam là con số cần 
			được xét lại. Và theo bà Đặng Phương Nghi, con số 700.000 là con 
			số thổi phồng, quá khích. Theo cách tính của bà, con số giáo dân 
			di cư không quá 500.000 như Trần Tam Tỉnh xác nhận và có thể chỉ độ 
			200.000 người như các cách tính trước đây, tức chỉ tương đương với 
			25% đến 50% tổng số dân ci cư thay vì 65% như tối thiểu được ghi 
			chung trong các sách. Theo cách tính của bà, con số thích hợp 
			gần đúng nhất chỉ là 238.755 giáo dân mà thôi {Trích Về số người 
			Công giáo di cư từ Bắc vào Nam sau Hiệp định Genève, Đặng Phương 
			Nghi}
			-  
			
			Mới đây nhất, 
			tác giả Ronald B. Frankụm Jr.trong Operation Passage to Freedom
			     khẳng 
			định như sau: “Those Vienamese who made the decision to leave 
			their       homes in the North for so many reasons. Approximately 
			one-third of the people who fled were Catholics and left as a result 
			of Viet Minh treatment of those who followed the Church. {Trích 
			sách trang 14} Đối với những người Việt Nam đã quyết định dời bỏ nhà 
			cửa của họ ở miền Bắc thì có nhiều lý do khác nhau. Gần như một phần 
			ba những người trốn khỏi miền Bắc là người Thiên Chúa giáo và họ đã 
			ra đi vì lý do cách đối xử của Việt Minh đối với giáo hội của họ. 
			Một phần ba của con số 800.000 ngàn người là trên dưới gần 300.000 
			người theo đạo.
			Cách tính 
			của bà Đặng Phương Nghi có thể là con số gần đúng.
			 Và tôi nghĩ 
			rằng, cách tính chính xác nhất là căn cứ vào danh sách các người di 
			cư có đạo ở trong các trại di cư là thuận lợi nhất. 
			Vì thế nên căn cứ vào số giáo dân nằm rải rác trong các trại di cư 
			lớn như Hố Nai, Gia Kiệm và Cái Sắn. Chẳng hạn ở các trại định cư 
			Cái Sắn, một trong những chương trình định cư lớn nhất, trù liệu là 
			120.000 dân, trong đó có 20.000 dân địa phương cho thấy số giáo dân 
			thực sự ở đây là 50.000 người và dự tính có thể thêm vài chục ngàn. 
			Nhưng  thực sự các lô đất được chia làm nhà ở là 8086 lô. Giả dụ mỗi 
			gia đình trung bình là 6 người thì mới đạt con số 50.000 dân di cư. 
			Hố Nai và vùng phụ cận trù liệu 5, 6 chục ngàn người. Nhưng con số 
			lúc đầu chỉ là 41 ngàn. Và theo bảng dự tính số người định cư của Mỹ 
			trù liệu thì Biên Hòa là 100.000 người, Xuân Lộc là 200.000 người, 
			trong đó có nhiều người theo đạo ông bà và đạo Phật. Người ta sẽ 
			thấy số giáo dân không thể quá 300.000 người được.
			Nhưng nay 
			nếu chúng ta căn cứ vào những con số của Hải quân Mỹ đưa ra có phần 
			chính xác hơn cả thì đã hẳn con số người Thiên Chúa giáo di cư 
			lại một lần nữa cần phải được xét lại. Theo Ronald B. FranKum, 
			Jr. trong Operation Passage to Freedom thì: người Pháp đã chở 
			bằng máy bay và tầu chiến tất cả là 448.619 người di cư vào miền 
			Nam. Tầu chiến Mỹ nhận chuyên chở phần còn lại là: 310.848, với 
			41.378 nguời đi tự túc. Và cộng chung hai con số của người Pháp và 
			Mỹ, ta có 800.786 người di cư. Nhưng nếu trừ ra số quân nhân Pháp 
			Việt và thường dân Pháp cộng chung là 200.000 người. Lấy 800.786 
			người di cư trừ số thường dân Pháp và quân nhân, chúng ta vỏn vẹn 
			còn 600.000 người di cư. Vậy mà phần lớn các tài liệu dẫn chứng ở 
			trên đều cho thấy số giáo dân di cư là khoảng 700.000 người. Nếu 
			chấp nhận con số người di cư của Hải quân Hoa Kỳ đưa ra thì con 
			số giáo dân di cư không thể quá con số 300.000 người được.
			Ngoài các 
			trại di cư lớn mà con số lên đến vài chục ngàn người... Các trại còn 
			lại hơn trăm trại lẫn lộn các tôn giáo cũng có, mỗi trại từ 2000 
			người đến 5, 6000 ngàn người là nhiều rồi.
			
			Vì vậy, căn cứ vào số người Thiên Chúa giáo định cư tại các trại thì 
			con số khoảng chừng 300.000 là con số tương đối xác thực nhất
			Cho dù không 
			làm cách nào đạt được một con số thật chính xác và khả dĩ được mọi 
			người được chấp nhận thì cái tiếng là đa số người di cư theo đạo 
			công giáo cũng là một điều vinh hạnh rồi.
			Và đứng về 
			mặt ý thức hệ thì hệ số tôn giáo thật sự không mấy quan trọng trong 
			tầm nhìn lịch sử trong việc đấu tranh loại trừ cộng sản ra khỏi con 
			đường mà Việt Nam đang phải đi tới sau này.
			Di cư vào 
			được miền Nam đã là một kỳ công đối với mỗi người di cư. Nhưng vấn 
			đề trước mắt là làm sao ổn định được đời sống, bảo đảm tương lai cho 
			chính mình và con cái mình.
			Tương lai 
			đang chờ đón những người mới tới ở giai đoạn định cư sau đây: Đã có 
			quyết tâm ra đi, người di cư miền Bắc còn có quyết tâm xây dựng một 
			đời sống mới ngay từ những ngày khởi đầu định cư. Nhờ đó sau này con 
			số chưa tới một triệu người di cư đã làm thay đổi bộ mặt dân miền 
			Nam về mọi phương diện: từ văn hóa đến giáo dục, xã hội và kinh tế 
			và quân đội. Ở mặt nào, hình như họ cũng có phần trổi bật lên và 
			điều đó có tác dụng thúc đẩy người dân miền Nam nói chung cùng tiến 
			lên trong bối cảnh đối đầu Nam Bắc. Nhưng đã hẳn cũng có những mâu 
			thuẫn, những clash về dị biệt đời sống không tránh khỏi. 
			
			Giai đoạn định cư
			Có lẽ đây là
			giai đoạn chính có sự trực tiếp chỉ đạo của chính quyền 
			VNCH mà  cả người Pháp hay người Mỹ đều không thể trực tiếp 
			nhúng tay vào.
			Ngày 
			4/8/1954 là ngày quyết định thiết lập một cầu hàng không chở người 
			di cư từ miền Bắc vào miền Nam mà tổng số là đã có hơn 200.000 được 
			không vận từ Bắc vào Nam. Con số thật không nhỏ.
			Tiếp theo 
			sau đó, ngày 9/8/1954, chính quyền miền Nam do thủ tướng Ngô Đình 
			Diệm cầm đầu đã cho thiết lập một phủ Tổng Ủy di cư, phụ trách giúp 
			đồng bào tỵ nạn theo NĐ 111TTP-VP.
			Ông Nguyễn 
			Văn Thoại làm Tổng Ủy trưởng di cư, phụ tá là kỹ sư Đinh Quang Chiêu. 
			Mỗi ngày có khoảng 50-70 chuyến bay từ miền Bắc vào miền Nam, đem 
			theo khoảng 1500 dân di cư mỗi ngày.
			Đấy là cầu 
			không vận lớn nhất chưa từng có để chở người di cư từ miền Bắc vào 
			miền Nam. 
			Ngày 
			17/8/1954, có buổi họp giữa ông Thoại và các viên chức Pháp và Mỹ. 
			Về phía Pháp có tướng Ely, Jean Gambiez {cố vấn cho ông Nguyễn Văn 
			Thoại}. Về phía Mỹ có tướng O’Daniel và đô đốc Sabin, thông qua cơ 
			quan MAAG và STEM. Đại tướng O’Daniel đã chỉ định đại tá Rolland 
			Hamelin, đại diện ông để làm việc với hải quân Mỹ.
			Kết quả là 
			phía người Pháp cung cấp 30 xe vận tải để chở người di cư từ bến tầu 
			đến các trại tạm trú. Phía chính quyền Việt Nam cung cấp 100 xe vận 
			tải trong việc chuyên chở này. {Trích OPTF, trang 97}
			Những người 
			di cư đầu tiên được chở đến các trại tiếp cư rải rác khắp Sài 
			Gòn. Có 10 trung tâm tiếp cư chính là: Phú Thọ, Xuân Trường {Thủ 
			Đức}, Nhị Thiên Đường, Bình Đông 1, Bình Đông 2, Bình Đông 3, Bảo 
			Hưng Thái, Rạch Rừa, Bình Trị Đông và Bình Thới. Ngoài ra còn có 
			những trung tâm tiếp cư lẻ tẻ như Bệnh viện Bình Dân, Nhà Kiếng, Tân 
			Sơn Nhất, Dạ Lữ Viện, Rạch Dừa và các trường học ở Sàigòn, Chợ Lớn, 
			Gia Định, Thủ Đầu Một hay ở Gò Vấp như các trường Tôn Thọ Tường, 
			Nguyễn Tấn Nghiệm, Pétrus Ký, Cây- Gỗ lớn, Cây-Gỗ nhỏ, Đỗ Hữu 
			Phương, Phú Thọ, Đakao, Khánh Hội và các trạm cứu hỏa đường Trần 
			Hưng Đạo, tỉnh Gia Định và trại tiếp cư Hòa Khánh ở Chợ Lớn v.v.. 
			Các thành phần như sinh viên, học sinh, nhất là phái nữ thì được ưu 
			tiên tạm trú tại trường Gia Long, trường Pétrus Ký và 2000 người tạm 
			trú tại các trường học ở Gia Định vì lúc đó các trường đang nghỉ hè.
			Nhân dịp này, 
			nhắc lại các nữ sinh, hoặc nữ sinh viên nào có dịp đến tạm trú ở 
			trường Gia Long nhớ cho rằng đã có sự cứu trợ của cơ quan The 
			Intertionnal Rescue Committee đến giúp quý bà cho những nhu cầu 
			thiết yếu {in the form of living essentials} như tặng quạt máy, đèn 
			bàn học, thuốc diệt sâu bọ, bàn ủi, quần áo và sà bông, Vân vân và 
			vân vân… Chưa kể mở các lớp huấn nghệ xã hội như về sản khoa, chăm 
			sóc trẻ con v.v. {trích tài liệu International Assistance to 
			Refugees, The Junior Chambre International. J.C.I or JAYCEE}.
			Chắc nhiều 
			người di cư không quên được những ngày đầu tiên ở trại di cư Phú 
			Thọ. 
			Xin để vài 
			dòng hồi ức lại trại tạm cư này. Trại di cư Phú Thọ còn được gọi là 
			Phú Thọ “lều”, vì ở trong các lều. Các lều này được chuyên chở từ 
			Nhật về trong các kho dự trữ của chính phủ Mỹ ngày 31/7/1954. Đợt 
			đầu tiên là 2000 căn lều bạt đã tới Sàigòn và trù liệu chỗ trú ẩn 
			cho 40.000 dân di cư. Tức khoảng 4 gia đình với trung bình 4 người 
			trong một nhà lều.
			Phủ Tổng Uỷ 
			di cư đã phải cử về đây hằng trăm nhân viên để phục vụ đồng bào mà 
			trung bình có hai ba ngàn người mỗi ngày được chở đi định cư. Nhưng 
			ngay tức khắc có hai ba ngàn người khác được gửi tới.
			Trại tiếp cư 
			Phú Thọ lều cũng như trại Tân Sơn Nhất là một trong vài trại đông 
			đảo và tấp nập nhất người đến kẻ đi.
			Trại Phú Thọ 
			bao gồm trung bình khoảng 16 ngàn dân di cư và 28 ngàn quân nhân. 
			Trại di cư Phú Thọ là một trong những trại di cư kiểu mẫu, tổ chức 
			quy củ, sạch sẽ. Ai xả rác hoặc ở dơ dáy thì bị phạt. Trại được tổ 
			chức có các cửa hàng cắt tóc, tiệm thợ may, tiệm thuốc tây, tiệm bán 
			guốc, tiệm bán các đồ câu cá, tiệm bán nước giải khát... Dân trong 
			trại chỉ phàn nàn, vì họ chưa có một nhà nguyện, vì phần đông đều là 
			người theo đạo. Sau này, trại di cư Phú Thọ trở thành kiểu mẫu cho 
			các trại tạm cư.
			Chẳng biết 
			đã có ai còn nhớ một câu viết bằng phấn trên mặt vải một lều tị nạn 
			một câu như sau: “Dân Sàigòn hân hoan chào mừng những người 
			anh em miền Bắc”.
			Ngày 
			21/8/1954, giáo sư Ngô Ngọc Đối bằng mọi cách giải quyết trường hợp 
			các người di cư tạm trú trong các trường và làm thế nào đến hạn chót 
			là 30 tháng 9, phải trả lại các trường học cho dịp khai trường đầu 
			niên học.
			Chi phí dự 
			trù cho việc tiếp cư này là 1.500.000.000, một tỷ rưỡi tiền Việt Nam 
			trong đó có các chi phí như tiền ăn uống trong 3 tháng cho mỗi người 
			di cư, 12 đồng/một người, 367.000.000. Chi phí cho việc xây cất một 
			trăm ngàn căn nhà, với giá 6000 đồng/căn, 600.000.000. Có lẽ, đây là 
			chi phí tốn kém nhất. Chi phí cho việc mua dụng cụ làm đồng như dạo 
			liềm, cuốc v.v. với số tiền 377.800.000 đồng. {Trích OPTF, trang 29}
			Ngày 
			4/12/1954, một lần nữa, giáo sư Ngô Ngọc Đối từ chức và nhường lại 
			công việc cho bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến lên thay. Ông phụ tá Bùi 
			Văn Lương thay chỗ phụ tá của bác sĩ Nguyễn Lưu Viên.
			
			Số người di cư vào Nam cần định cư
			Theo tài 
			liệu chính thức của phủ Tổng Ủy di cư thì tính đến 
			ngày 30/10/1955 
			có tất cả  là 887.890 người đã được di cư vào miền Nam. Trong đó cần 
			định cư 596.031 người. Còn lại 140.000 sống rải rác khắp nơi 
			và 125.393 là gia đình các quân nhân. Để định cư con số hơn nửa 
			triệu người thì chính quyền đã cho thiết lập được 156 trại ở Nam 
			Phần, 65 trại ở Trung Phần và 34 trại ở vùng Cao Nguyên. Cứ giả dụ 
			mỗi trại định cư có số trung bình là 2000 người, chúng ta sẽ dễ dàng 
			nhận thấy sẽ có nửa triệu người được định cư trong các chương trình 
			tái định cư của chính phủ.
			Hơn nửa 
			triệu người cần được tái định cư, phải lo cho họ có nơi ăn chốn ở, 
			có công ăn việc làm tự túc, có trường học cho trẻ em, có trạm y tế 
			cho người ốm đau và nhất là nơi thờ phượng tôn giáo. Ở chỗ nào có 
			dân di cư thì ở đấy có chùa chiền, nhà thờ có mái chuông nhà thờ, 
			thánh giá có mặt. Nhất là các khu di cư công giáo. Mỗi xứ là một nhà 
			thờ. Nhà thờ nhan nhản khi chúng ta có dịp đi qua các khu Hố Nai, 
			Gia Kiệm.
			Niềm tin mọc 
			lên như nấm.
			Kể ra lối 
			tuyên truyền Chúa vào Nam cũng có phần sự thật.
			Cái tín 
			ngưỡng ấy, cái niềm tin ấy, thuần chất và đầy sức mạnh bên trong với  
			hình ảnh của một thanh niên có đạo, sau chuyến vượt thoát gian nan 
			và mệt nhọc, anh nằm lăn ra đất ở trại tiếp cư ngủ mê man, nhưng 
			trên tay, anh không quên nắm chặt cây thánh giá để trước ngực.
			Cái hình ảnh 
			ấy của người thanh niên hay hình ảnh những người dân quê, nét mặt 
			khô cằn, chắp tay nguyện cầu vẫn ánh lên một ánh mắt hy vọng và 
			cương quyết.
			Đó là những 
			hình ảnh tiêu biểu của cuộc di cư này.
			Nó không 
			mang theo tiền bạc của cải, nhưng một niềm tin, một sức mạnh tinh 
			thần, một quyết tâm vững bền không gì lay chuyển nổi.
			Vậy mà nay 
			đã có thể phai nhạt và chỉ còn là hình ảnh vang bóng một thời của 
			thời kỳ đã qua không trở lại.
			Nay còn đâu 
			và còn gì? Hoài niệm và nuối tiếc. Điều gì đã cướp đi tất cả những 
			tình cảm tôn giáo tốt đẹp ấy? Phải chăng con người bị bứng ra khỏi 
			gốc rễ thì sẽ không còn là con người khi trước nữa? Và một lần nữa 
			sau 1975, con người miền Nam bị bật gốc và lần này thì chúng ta tự 
			chôn, tự xóa tất cả những gì còn lại mang theo vào đời cách đây 5, 6 
			chục năm.
			
			Những địa điểm được chọn lựa để tái định cư. {Resettlement}
			Miền Nam 
			đúng là miền đất hứa. Chỗ nào cũng có thể dung nạp người di cư. Biên 
			Hòa hứa hẹn cho 100.000 người di cư, Thủ Đầu Một 25 ngàn, Bà Rịa 
			cũng có khả năng cho 100.00 ngàn người. Riêng thị xã Vũng Tàu chỉ có 
			thể dùng làm trại tiếp cư thôi. Nhưng dọc con đường cách Vũng Tàu độ 
			10 km sau này có nhiều trại dành cho dân thuyền chài như Rạch Dừa 
			v.v. Long Xuyên 15 ngàn người. Tây Ninh qua hội thánh Cao Đài tin 
			tưởng có thể dung nạp 100.000 người. Cần Thơ dành 25 ngàn mẫu đất 
			cho người di cư. Chưa kể các tỉnh nhỏ như Bạc Liêu, Trà Vinh, nhất 
			là Rạch Giá.
			Trong bấy 
			nhiêu tỉnh, Biên Hòa hứa hẹn nhiều nhất và là một trong những trung 
			tâm định cư lớn với khả năng 100.000 ngàn dân di cư. Mặc dầu đất 
			canh tác không nhiều và không thuận lợn cho nông nghiệp. Ngay đợt di 
			cư đầu tiên, Biên Hòa đã tràn ngập với khoảng 30 chục ngàn dân đến 
			định cư.
			Cho đến cuối 
			tháng 10/1954 đã có 135.000 dân di cư được đi định cư tại 37 trại 
			định cư mới được thành lập ở 11 tỉnh phía Nam và khoảng 70.000 dân 
			di cư được định cư tại Trung Phần như Huế 27.000 người, Đà Nẵng 
			11.000 người, Khánh Hòa, NhaTrang 11.397 người, Quảng Trị 7564 người. 
			{Trích OPTF, trang 150}
			Sau này, tôi 
			đi tìm mỏi mắt cũng không thấy một trại định cư nào nằm trong thành 
			phố Huế.
			
			Chi phí cho mỗi đầu người di cư
			Cơ quan STEM 
			ước định, để có thể cung cấp đầy đủ cho người di cư cho đến khi họ 
			tự túc được thì số tiền tài trợ phải bỏ ra là ở phía Nam là: 
			1.205.000.000 tỉ đồng. Chưa kể khoảng một tỉ đồng cho các tỉnh miền 
			Trung. {Trích tóm lược trong OPTF, trang 149}
			Ngày 
			02/02/1955, Hoa Kỳ đã hoàn tất chương trình viện trợ để ổn định 
			500.000 người di cư. Ngày 28/2/1955, Hoa Kỳ tháo khoán 18 triệu Mỹ 
			Kim giao trực tiếp cho Việt Nam mà không qua tay Pháp.
			Ngày 
			1/7/1955, ngân khoản mà Hoa Kỳ đã trợ cấp cho người di cư là 1 tỉ 58 
			triệu. Trong đó có 480 triệu để trợ cấp định cư, 300 triệu để trợ 
			cấp cho người định cư làm nhà.
			Ngày 
			1/7/1955, đại sứ Mỹ Rheinarat trao cho Thủ tướng Ngô Định Diệm ngân 
			phiếu 11 triệu Mỹ Kim của dân chúng Hoa Kỳ tặng cho người di cư. 
			Không quên là trước đó tháng 12/1954, tướng Lawton Collins đã trao 
			một chi phiếu 28.571.428 triệu Mỹ Kim. {Trích Bình Giả, quê Hai, 
			Đình Quang}
			Cũng cần ghi 
			nhận là những số tiền lớn như thế đã được trao cho Thủ tướng Ngô 
			Đình Diệm, sau đó được phân phối cho các trại tị nạn về phân phối 
			lại. Cho đến nay, ít có dư luận đồn thổi về vấn đề tham nhũng về 
			những khoản chi tiêu này, ngay ở các cấp dịa phương cũng không mấy 
			có dư luận không tốt về các cấp lãnh đạo tôn giáo đạo cũng như đời.
			Đó là một 
			điểm son cho việc định cư gần một triệu người tỵ nạn. Vâng đó là một 
			điểm son. 
			Khi tới trại 
			tạm cư, mỗi người được trợ cấp 12 đồng/ngày cho người lớn và 6 đồng/ 
			ngày cho trẻ em. 
			Nhưng bắt 
			đầu từ 11/3/1955 thì ngay khi tầu cập bến được cấp 800 đồng mỗi 
			người, cấp một lần một và sau đó được đưa tới các trại định cư. Khi 
			tới trại định cư được cấp 3.000 đồng để tự túc dựng lấy một căn nhà, 
			chia làm ba kỳ để mua vật liệu cất nhà như tre, nứa. Chưa kể được 
			cấp phát giường 
			chiếu, chăn mùng, cấp phát dụng cụ làm ruộng, hạt giống, phân hóa 
			học để mưu sinh. {Tài liệu Phủ Tổng Ủy di cư, trích lại trong Bình 
			Giả, quê Hai, tác giả Đình Quang}.
			Bên cạnh đó, 
			có nhiều cơ quan từ thiện như CARE cung cấp 25 ngàn thùng quần áo, 
			giầy dép v.v. Công việc này xét ra không thực tế, vì quần áo thường 
			quá rộng, mầu sắc sặc sỡ, áo phần lớn quần áo ấm dành cho mùa đông, 
			giày dép quá khổ như những chiếc thuyền... Khi được phân phối đến 
			tay mỗi gia đình đã gây những trận cười bể bụng cho người tị nạn.
			Cơ quan xã 
			hội công giáo Hoa Kỳ, The National Catholic Welfare Conference {NCWC} 
			với 400.000 pounds sữa bột và sau đó còn gửi thêm một số lượng khổng 
			lồ là 1.000.000 pounds sữa bột, 900.000 pounds dầu ăn, bơ và phó mát. 
			Thật là một phí phạm vì có nhiều gia đình không ăn quen sữa bột đã 
			dùng cho heo ăn. Cho đến năm 1960, khi còn là sinh viên nghèo, tôi 
			còn mua được những thùng mỡ Shortenning dùng thay bơ, ăn với bánh mì 
			mỗi buổi sáng.
			Bên cạnh cơ 
			quan xã hội công giáo Hoa Kỳ, còn có cơ quan The Catholic Relief 
			Service đã cứu trợ 1.1000 tấn quần áo và thuốc men. 50 máy may và 
			trường học dạy may, giúp xây cất 69 nhà thờ, giúp xây dựng 81 Hợp 
			tác xã, giúp xây một nhà thương ở Biên Hòa  với 250 giường bệnh, 
			giúp xây dựng các trại mồ côi ở ở Thủ Đức, Gò Vấp, Ban Mê Thuột, 
			giúp xây dựng nhà thương cho người cùi ỏ Di Linh, giúp xây dựng 4 
			nhà máy làm gạch ở  Phước Lý, Biên Hòa, Tây Ninh và Đà Lạt.
			Phải kể thêm 
			các cơ quan thiện nguyện khác như The Phiippine Jaycees, UNICEFF, 
			Rotary club và Jaycee, The American Women Association, Operation 
			Brotherhood, Hội cứu trợ công giáo Pháp và Đức do giám mục Rhodain 
			và Daniels đại diện v.v.{ trích tài liệu International Assistance To 
			Refugees}
			Ôi, rất 
			nhiều bàn tay đã dơ ra để giúp đỡ người di cư trong lúc đầu đến lập 
			nghiệp ở miền Nam.
			
			Về một vài trại định cư tiêu biểu
			Thật ra có 
			rất nhiều trại định cư đã thành công, đã trở thành nơi ăn chốn ở 
			vĩnh viễn cho người di cư như các trại ở Di Linh, Bến Tre, Xuân Lộc, 
			Ban Mê Thuột, Đà Lạt và Biên Hòa. Sự thành công đó phần lớn dựa vào 
			đất đai trồng trọt, đất tốt, mầu mỡ có thể làm ruộng hoặc trồng rau 
			hoặc trồng cây ăn trái, trồng cây kỹ nghệ như cà phê xen lẫn đậu 
			phọng ở Ban Mê Thuột, trồng cây sợi Ki- náp, trồng cây bông vải, 
			nuôi bò tại Quảng Nhiêu … 
			Trừ trường 
			hợp ở Biên Hòa, diện tích trồng trọt thu hẹp lại không phải đất để 
			canh tác. Dân di cư tụ về đông chỉ vì mấy ông cha sở họ đạo Biên Hòa 
			cũng như ông đầu tỉnh Biên Hòa sẵn sàng dành 55 ngàn mẫu tây đất làm 
			trạm dừng chân cho người di cư. Thế là giám mục Phạm Ngọc Chi, phụ 
			trách người di cư cùng với Đức ông Harnett, phụ trách cơ quan xã hội 
			Thiên Chúa giáo Hoa Kỳ ghé thăm Biên Hòa. Mảnh đất ấy gần một con 
			sông rộng và nằm cạnh một rừng tre vốn xưa là vùng đất của Việt Minh. 
			Diện tích rộng đến có thể chứa được 25 ngàn gia đình, nghĩa là 
			khoảng trên dưới 100.000 dân tị nạn.
			Sự tụ tập 
			đông đảo dân di cư bắt đầu chỉ là như vậy. Dù không thuận lợi cho 
			việc trồng trọt, nhưng nó có thuận lợi khác như gần trung tâm Sài 
			Gòn, con cái có chỗ ăn học đàng hoàng, thanh niên có thể kiếm công 
			ăn việc làm ở Sàigòn hoặc ngay tại Biên Hòa, vì có căn cứ quân đoàn 
			III ở đó. Sau này lại có thêm căn cứ Long Bình của Mỹ.
			An ninh rất 
			là tốt mà người ta bàn tán đến một “vòng đai chiến lược” của 
			các trại định cư như Hố Nai, Dốc Mơ, Gia Kiệm. Dốc Mơ là nơi tập 
			trung rất nhiều dân cư Phát Diệm, cách SàiGòn 40 dặm mà chỗ nào cũng 
			là rừng tre mọc khắp nơi. Tre sẵn đó để người di cư làm nhà. Cứ mỗi 
			ngày có thêm 100 căn nhà mới được dựng lên. Và chỉ trong hai tháng 
			thôi, đã có một trường tiểu học và một ngôi chợ mọc lên.
			Chỉ sau hai 
			tuần lễ đã có người được vào ở trong những căn nhà mới cất xong và 
			cứ như thế, hằng 
			2, 3 ngàn người chờ đến lượt mình có nhà ở.
			Ai cũng đến 
			lượt và ai cũng sẽ có một chỗ cư trú chờ đón một cuộc đời mới mà khi 
			bước lên tầu há mồm có thể họ đã không mường tượng ra được.
			Cứ như một 
			phép lạ Ai Cập, chỉ thiếu một ông Moi Sen cầm gậy chỉ huy lên đường. 
			Có thể có một ông Moi Sen, nhưng người đời đã mau chóng quên lãng 
			ông. Cho dù có thiếu một ông Moi Sen đi nữa, nhưng lại có nhiều 
			những ông Trùm, ông Quản, ông Chánh Trương, ông Lý nay đứng ra lo 
			việc làng xứ. 
			Cứ như thế 
			mà lớn lên. Cả một “làn sóng di cư” chạy cộng sản lớn lên cùng với 
			đất nước miền Nam. Miền đất hứa, rộng lượng và khoan dung.
			Tương lai 
			như mời mọc chờ đón. Tôi nghĩ rằng, nay những người di cư đó, có thể 
			có người đã không còn nữa, có người đã phải chống gậy, ngồi nghĩ lại 
			đời mình... thì đấy là thời đẹp nhất đời.
			Tôi viết bài 
			này cho họ và cho tôi.
			Đi đến đâu, 
			dù là ở vùng đất mới này, dù chưa được ổn định, chân ướt chân ráo, 
			dù chưa lo kịp vấn đề cơm áo, họ đã nghĩ ngay đến việc phải có 
			trường học cho con em họ. 
			Lo cho tương 
			lai trước đã rồi mọi việc tính sau.Thật đáng quý.
			Mà phải là 
			một trường học đàng hoàng, khang trang và xây cất vững chãi. Cơ quan 
			FOA đã gửi sang những máy làm gạch để ngày đêm dân di cư sản xuất 
			lấy gạch xây trường học. Cho nên, không lạ gì và không ở đâu, ở bất 
			cứ tỉnh nào mà việc học Trung học ở các lớp thi tú tài 1 và 2 nhiều 
			như ở Biên Hòa và vùng Hố Nai, Gia Kiệm, Dốc Mơ. Chỉ riêng trường tư 
			thục Khiết Tâm của linh mục Yến có đến 8 lớp đệ nhất mà phần không 
			nhỏ học sinh là con cái các gia đình túa ra từ các trại định cư. Các 
			trường tư nhỏ khác cũng có một vài lớp đệ nhất như thế.
			Về những 
			thành tích đáng kể về mở mang trường học ở những năm đầu chế độ đệ 
			nhất công hòa. Xin đưa ra một vài con số tiêu biểu.
			-  
			
			Về tiểu học: 
			Năm 1954, toàn quốc chỉ có 1598 trường với 7000 lớp học. 
			Năm1959-1960, ta có 4418 trường với 29.000 lớp học và 1.001.757 học 
			sinh. Như vậy trong khoảng 6 năm, ta xây cất thêm 2820 trường với 
			13.100 lớp học.
			-  
			
			Về trung 
			học: Năm 1954, trong toàn các tỉnh phía Nam, ta chỉ có 29 trường 
			trung học với 20.999 học sinh. Đến năm 1960, đã có 69 trường với 
			62.130 học sinh.{ trích Hồ Đắc Huân, 6 năm hoạt động của chính phủ, 
			từ 651-655}
			-  
			
			Có thể nói 
			đến  một sự “ bùng nổ” về giáo dục với 2379 giáo sư Trung Học và hơn 
			20 chục ngàn giáo viên tiểu học. Sau đó mười mấy năm dài, chúng ta 
			không còn thấy những điều như thế nữa.
			Phần tôi, 
			nghĩ đến 
			điều này, nghĩ đến hàng hàng lớp lớp thanh niên trẻ, hàng vạn người, 
			không hơn thế nữa đã đi qua đời tôi mà tôi đã mời mọc họ vào ngôi 
			trường của Socrate. Và sáng nay, vừa thức dậy, 
			tôi nhận được một thư nhỏ từ một 
			người thân thương nhất 
			trong đám họ nhắc lại một đoạn trong bài 20 năm tuổi trẻ miền Nam
			của tôi. Tôi đã viết như thế này: “Tôi đã không biết bao lần 
			quên lối về bởi chiếc áo dài con gái NhaTrang, Huế, Biên Hòa, Sài 
			Gòn để rồi hôm sau vào lớp nhìn em ngại ngần”.
			Sau trường 
			học, sau chợ, một chẩn y 
			viện là đến nhà thờ. Ba cái nền đó làm nên cái khung hình người tị 
			nạn Thiên Chúa giáo. Trường học giải quyết vấn đề kiến thức, chợ cho 
			nhu cầu giao thương, buôn bán và nhà thờ cho nhu cầu tâm linh.
			Chỉ còn 
			thiếu một điều: Nghĩa địa cho người chết. Nhưng đã hẳn là thể nào 
			cũng phải có.
			
			Trường hợp trại di cư ở Củ Chi
			Nhưng có một 
			vài trại đinh cư như các trại ở Củ Chi mà con số người di cư lúc đầu 
			lên đến 6, 7 ngàn người. Trại này do người Pháp đỡ đầu, được hưởng 
			nhiều quyền lợi từ hai phía, từ chính quyền đến người Pháp giúp ủi 
			đất, dựng nền nhà, đào giếng, xây dựng trường học, nhà thương, nhà 
			thờ do tiền quyên được của nhật báo Le Figaro ở bên Paris tài trợ. 
			Từng dãy nhà nền đắp cao, tươm tất, ngay hàng thẳng lối, chia ra khu 
			một, khu hai, khu ba, khu bốn và khu năm. Những 
			trại thiếu cầy trồng, thiếu cây trái, thiếu vườn tược như vùng đất 
			hoang dại. Cỏ chỉ mọc lởm chởm vì nền đất cứng như xi măng với một 
			mầu trắng 
			xóa. Nhà thờ được xây cất bằng gạch đâu ra đấy. Mái lợp tôn. Trường 
			học có đến cả các lớp bậc trung học mà từ trước đến giờ dân địa 
			phương không hề có. Con cái các gia đình địa phương muốn đi học 
			không còn cách nào khác ngoài đạp xe đến trại định cư ghi tên học. 
			Chắc không khỏi có nỗi bất bình. Nhưng nào phải lỗi của chính quyền. 
			Tình thế nó tạo ra như thế.
			Vậy mà sau 
			này trại mỗi ngày mỗi ít người đi, vì nhiều người đi tìm chỗ lập 
			nghiệp khác. Vì là vùng đất phèn, nước đục lờ nhờ. Đào giếng độ nửa 
			mét sâu là đụng đất đỏ với đá đỏ. Ai đã chọn vùng đất này đã không 
			nghĩ tới điều đó. Dân di cư chỉ có thể trồng khoai mì, hay củ sắn và 
			trồng mía. Người ta không thể chỉ ăn khoai mì mà sống được
			Đành bỏ mà 
			đi chỗ khác làm.
			Củ Chi chỉ 
			là một trường hợp. Bởi vì sau này có một số trại định cư đã bị giải 
			tán và đưa người di cư đi nơi khác. Đó là các trại Vĩnh Phát, Trà Cổ, 
			Xuân Ninh, Cầu Vang, Gò Chai, Rạch Rẽ, Lương Hòa Trung, Lương Hòa 
			Thượng, Vĩnh Phát, Du Sinh, Cầu Đất v.v..
			
			Trường hợp trại di cư Bình Giả
			Trại Bình 
			Giả là do người di cư Thiên Chúa giáo địa phận Vinh mà tổng số hiện 
			nay là trên 10.000 người di cư vào Nam đến đó lập nghiệp. Miền đất 
			Đông Nam bộ đã gắn liền với số phận của hơn 10 ngàn giáo dân Nghệ 
			Tĩnh từ khắp nơi đổ về. Nó có tất cả các yếu tố để trở thành một 
			trại kiểu mẫu lý tưởng về tổ chức, về nếp sống đạo, về tinh thần 
			đoàn kết, đùm bọc, về tổ chức giáo xứ với đầy đủ các hội đoàn, các 
			ban ngành, được sắp đặt, bầu cử quy mô và chặt chẽ.
			Cả một 
			truyền thống sống đạo hăng say và nhiệt thành đem theo. Người dân có 
			đạo vùng Thanh Nghệ Tĩnh theo đạo là theo lấy được, sống trọn vẹn. 
			Thời hạn 300 ngày sắp hết mà dân chúng trong vùng bị cộng sản che 
			đậy vẫn không hay biết gì. Đến khi biết được thì dấy lên phong trào 
			đòi di cư vào Nam, rồi cộng sản phải nhượng bộ. Thế là đồng bào gồng 
			gánh, thuê xe cộ để vượt qua cầu Bến Hải, vĩ tuyến 17 vào Nam.
			Sống trong 
			bầu khí đạo hạnh ấy thì không ở đâu hơn được.
			Nếp nhà, nếp 
			đạo vẫn y như cũ. 
			Nhưng mặc 
			dầu nó tồn tại cho đến 1975 và sau này. Đã hẳn, người dân trong giáo 
			xứ phải sống chật vật lắm mà chỉ vì yêu quý nhau cùng một cội nguồn 
			mà nhiều người cứ nấn ná ở lại.
			Việc chọn 
			lựa địa điểm định cư này gồm những nhân vật nổi tiếng như Phó Tổng 
			Ủy trưởng, ông Mai Văn Hàm, ban đại diện di cư Vinh: cha Khai, cha 
			Đông, cha Kiệu, ban đại diện giáo dân như: quý ông Đinh Thế Lựu, 
			Nguyễn Báu, Nguyễn Xuân Hiền, Nguyễn Trọng Hiếu, Nguyễn Trọng Thanh 
			và Hoàng Công Phu.
			Các đại diện 
			dân chúng đã đi thăm Ban Mê Thuột và một số nơi, nhưng không ưng chỗ 
			nào cả. Nay thì quyết định chọn Bình Giả.
			Trong khi đó, 
			những đồng bào Thanh Nghệ Tĩnh may mắn hơn đã chọn Ban Mê Thuột, vì 
			đó là nơi đắc địa. Khí hậu và đất đai cho cây trồng thì không ở đâu 
			tốt hơn được. 
			Khi chọn 
			Bình Giả thì cũng nhờ các chuyên viên về thử mẫu đất, chuyên viên về 
			đo đạc, lập họa đồ cẩn thận lắm.
			Nhưng Bình 
			Giả vốn là vùng đất dữ, hoang dã, khí hậu khắc nghiệt sinh ra lắm 
			bệnh thời khí như thương hàn, sốt rét, kiết lỵ, tử phúc trung {con 
			chết trong bụng mẹ}. Dĩ nhiên, bấy 
			giờ người ta biết rằng những bệnh như thế chưa chắc đã do khí hậu mà 
			sinh ra. Và vì vậy, nhiều người đã dời đi nơi khác và trại nào cũng 
			có người bỏ đi. Nhất là sau 1963, Bình Giả phải đối đầu trực diện 
			với cộng sản, nhiều gia đình có điều kiện một lần nữa bỏ ra đi…
			Bình Giả là 
			một tấm gương sáng của người di cư từ Bắc vào Nam. Nhưng cũng là nơi 
			mà số phận đã dành cho quá nhiều cay nghiệt. {Trích Bình Giả, Quê 
			Hai của tác giả Đình Quang}
			
			Trại định cư tiêu biểu: Cái Sắn
			Cái Sắn hội 
			đủ các điều kiện về đất đai phì nhiêu, lý tưởng của một trại định cư 
			kiểu mẫu và trù phú.Thủ tướng Ngô Đình Diệm gọi vùng đất này là để “dành 
			cho con người, để nối liền Long Xuyên với Rạch Giá và qua Rạch Giá, 
			mảnh đất đem lại yên hàn và trật tự cho vùng này”.
			Còn đối với 
			người Mỹ thì như nhận xét sau đây trong Passing the Torch: “Cái 
			Sắn was hailed by the US as a symbol of South Viet Nam‘s 
			determination to shelter people who linked their future with that of 
			the free government”. {Trích Passing the Torch, trang 141} Cái 
			Sắn được chính quyền Mỹ chào đón như biểu tượng về lòng quyết tâm 
			của  miền Nam Việt 
			Nam 
			để che chở 
			những ai đặt tương lai của họ vào tương lai của một chính quyền tự 
			do”.
			Nha định cư 
			đã đưa tất cả 42.145 đồng bào tới định cư ở Cái Sắn, gồm 15 trại 
			định cư và 8325 căn nhà.
			Giải đất 
			hình chữ nhật, rộng đến 270.000 ngàn mẫu tây, chiều dài kênh Cái Sắn 
			là 25 dặm, chiều ngang 16 dặm, được tưới tiêu bằng con kênh Rạch Sỏi, 
			chạy dọc theo trại và đổ ra dòng sông Bassac. Kênh đó nay được gọi 
			là kênh Cái Sắn, một trong những vùng đất lý tưởng nhất cho việc 
			định cư. Phía Bắc có 14 con kênh đào, phía Nam có 3 kênh. Thêm vào 
			đó là 13 kênh nhỏ với chiều dài tổng cộng là 159 cây số. Những con 
			kênh này, bề ngang rộng 6 mét và sâu 4 mét, chiều sâu ở giữa kênh và 
			bờ kênh thì sâu 1 mét 50. Bên mỗi bờ kênh, sâu vào 20 mét là những 
			căn nhà ở của dân chúng. Đất đào ở các con kênh thì dùng để đắp nền 
			nhà. Việc đào kênh đều làm bằng tay mà trung bình một người đào được 
			khoảng 7mét khối/một ngày.
			Các kênh 
			được gọi là kênh 1, kênh 2, kênh 3, kênh 4, kênh 5 rồi kênh Tân Hiệp 
			và sau đó tiếp theo là các kênh A, B, C, D, E, F, G, và H. Công 
			chung tất cả các kênh gồm 8.086 lô đất. Mỗi lô đất dành cho một gia 
			đình là 3 mẫu tây vừa là nhà ở và đất để trồng trọt. Mỗi lô đất rộng 
			30 mét tây chiều ngang và 1000 mét chiều dài.
			Nhưng để đất 
			có thể trồng trọt được, cơ quan USOM đã dùng 110 máy ủi đất để cào 
			sới đất, sau đó dùng máy cầy san đất. Tính chung là 1.800.000 mét 
			đất đã được ủi và cào xới.
			Chính quyền 
			có cấp phát cho các gia đình trâu để cầy ruộng. Trâu mua từ Thái Lan 
			về. Đã có 2148 con trâu đã được cấp phát cho các trại di cư ở Nam 
			Phần và 40 con ở Trung Phần. 
			Riêng ở Cái 
			Sắn, cứ 4, 5 gia đình chung nhau một con trâu để cầy ruộng. Sau này, 
			nhiều người có tiền thì có thể mỗi nhà có một con trâu để lo việc 
			cầy bừa ruộng. 
			Trên toàn 
			thể các trại di cư, chính phủ đã giúp đào được 5405 cái giếng và 
			phân phối khoảng 400 tấn phân bón. Đồng thời phân phối khoảng 60 
			ngàn cuốc xẻng. Chính phủ cũng cho nông dân đi định cư vay một số 
			tiền là 118.217.200 triệu đồng.
			Hầu hết diện 
			tích 270.000 mẫu tây dành cho người di cư và một phần dành cho người 
			dân địa phương chưa có nhà cửa. Những cư dân địa phương, khoảng 
			20.000 ngàn người thì được ở khu vực kênh Tân Hiệp vốn đã có sẵn từ 
			trước.
			Chính phủ 
			Hoa Kỳ còn cung cấp cho dân định cư, lúc đầu là 50.000 người, dự trù 
			thêm 50.000 nữa, một số tiền là 400 triệu đồng cùng với tất cả các 
			dụng cụ nông nghiệp mà số tiền tính ra khoảng 1 triệu Mỹ kim.
			Mùa gặt đầu 
			tiên ở Cái Sắn đã thu về được 4000 tấn gạo mà phần lớn từ mùa thu 
			hoạch  “lúa xả, hay floating rice”.
			Cái Sắn là 
			một tiêu biểu cho sự thành công của người di cư tị nạn cộng sản.
			
			
			Ghi lại một vài chứng từ của những người đã di cư vào miền Nam
			Kiều Chinh, 
			tháng 8, 2004.
			“Là con út 
			trong ba anh chị em, tôi được bố thương nhất. Suốt thời niên thiếu, 
			tôi chi biết có bố. Bố tôi quyết định vào Nam. Nhưng đêm trước 
			ngày ra đi, anh tôi bỏ nhà trốn ra khu theo phong trào thanh niên 
			cứu quốc. Anh Lân là con trai duy nhất của bố, năm đó mới 20 tuổi. 
			Sáng hôm sau, chỉ còn hai bố con ra phi trường Bạch Mai, Hà Nội. 
			Hàng ngàn người già trẻ lớn bé nằm ngồi 
			la liệt dưới nắng cháy, chờ đợi đển được lên máy bay di cư vào Nam. 
			Mãi tới cuối ngày mới tới lượt bố con tôi. Bố đẩy tôi lên máy bay 
			rồi bất ngờ nói: con vào Nam trước, bố ở lại tìm anh Lân rồi sẽ vào 
			sau. Tôi la khóc cố nhào ra với bố, nhưng bị đám đông xô lấn đẩy lui. 
			Cửa máy bay đóng xập xuống. Đó là lần cuối, tôi được nhìn thấy bố. 
			Lần đầu xa bố, lần đầu xa nhà, lần đầu đi máy bay. Tôi ngồi co rúm 
			trên sàn máy bay vận tải nhà binh Pháp, suốt chuyến bay nôn oẹ khóc 
			sướt mướt giữa đám người chen chúc ngột ngạt...Tôi chờ bố từng giờ. 
			Hy vọng mỏng dần..Tôi đếm từng ngày cho tới buổi phát thanh cuối 
			cùng của đài Pháp Á loan tin thời hạn 300 ngày đã hết...Tôi òa khóc. 
			Bức màn tre đã xập xuống, chia đôi đất nước ngăn cách bố con tôi. 
			Năm mươi năm sau cuộc di cư đã qua. Bố tôi đã chết. Anh tôi đã chết. 
			Nhiều người di cư thời năm mươi năm trước đã ra đi vĩnh viễn.Thế hệ 
			tôi cũng sắp ra đi. Xin thắp một nén nhang cho những người quá cố. {Trích 
			50 năm Bắc Kỳ di cư 1954-2004, trang 82-83} 
			Nguyễn 
			Duy Chính
			“Cho đến 
			giờ phút này tôi vẫn không sao hiểu được tại sao gia đình tôi lại di 
			cư  
			
			vào miền Nam. Mà nào có phải ra đi một cách thoải mái, dễ dàng gì, 
			trải qua chín chết, một sống, ba bốn đợt mới dắt díu nhau xuống Hải 
			Phòng… hôm đó, cha tôi chở hai anh em trên xe đạp từ làng lên Thạch 
			Thất nói dối lá đưa chúng tôi sang làng Nủa ăn giỗ. Mẹ tôi và đứa em 
			út phải ở lại để cho người ta tin rằng chúng tôi không có âm mưu trốn 
			đi. Lên Sơn Tây, chúng tôi lên xe về Hà Nội, có chú tôi chờ sẵn, đợi 
			những đợt sau ra được để thu xếp cho gia đình xuống Hải Dương. Đầu 
			năm 1955, một ít ngày trước khi thời hạn di cư chấm dứt thì mẹ tôi 
			ôm đứa em trai đi thoát. Gia đình tôi phải đi làm nhiều đợt nên mới 
			lâu như thế.
			
			Chúng tôi lại bồng bế nhau xuống tầu há mồm đưa ra tầu lớn đậu xa xa 
			ngoài khơi. Chiếc tầu đó là của nhà binh Pháp đi từ bến Hải Phòng đến 
			bến Sài Gòn mất cả thảy 3 ngày, hai đêm, sau đó có xe cam nhông chở 
			vào trại di cư Phú Thọ cạnh trường đua, xế trường Bách Khoa ngày nay…
			
			Quả thực những người như gia đình tôi không đủ trí tuệ và kiến thức 
			để bảo rằng ra đi nhằm mục đích tìm tư do, hay chọn lựa một chính 
			nghĩa theo lằn ranh Quốc Cộng. Chúng tôi quyết định hoàn toàn do bản 
			năng, theo linh tính như những con thú đánh hơi thấy hiểm nguy, đằng 
			trước là sự sống, đằng sau là sự chết. Hình ảnh đó
			tôi lại thấy trên khuôn mặt những người dân hoảng hốt di tản năm 
			1975. {Trích 50 năm Bắc Kỳ di cư, trang 69-70}
			Đời 
			tỵ nạn của N.N.T
			
			Cha tôi bị Việt Minh giết. Vâng, bị Việt Minh giết. Anh tôi, vì là 
			người phòng vệ Đức cha Phạm Ngọc Chi nên tính mạng luôn bị đe dọa. 
			Thời gian đình chiến, Việt Minh công khai hoạt động. Chúng lùng bắt 
			người quốc gia gán cho tội theo Tây theo Pháp hay theo Ki tô giáo. 
			Chúng gọi những thành phần này là phản động. Có những lần chúng đem 
			theo giáo mác, súng ống, gậy gộc, xiên nhọn, đi từng nhà lùng bắt, 
			chúng lục lạo từ nhà trên nhà dưới, bụi tre, đống rơm để tìm kiếm. 
			Vào một buổi chiều, đại gia đình tôi gồm 9 người chuẩn bị rời nhà. Từ 
			nhà đến địa điểm của thuyền chờ đợi cách xa chừng bốn cây số. Không 
			ai nói với ai, cứ đi theo người đi trước mình.. Thuyền được rời bến 
			ngay sau đó. Chừng hơn 30 thuyền lênh đênh trên sông Hồng. Người 
			thuyền trưởng cho biết đọan đuờng nguy hiểm đã qua. Nghe thế, mọi 
			nguời trên thuyền đều mừng rỡ. Xa xa, có nhiều ánh sáng như thiên 
			đàng chờ đón ngươòi tỵ nạn chúng tôi. Càng chạy tới thì ánh sáng 
			càng tỏ hiện. Nhiều tầu chiến, nhiều tầu há mồm, ánh sáng tỏa ra như 
			một thành phố trước mặt. Đối với tôi, đó là một thiên đường… {Trích 
			Đời Tỵ nạn, trong 50 năm Bắc Kỳ di cư, trang 64}
			
			Ghi lại một vài chứng từ đối với những người còn ở lại miền Bắc
			
			Phải xin thú 
			thực với lòng mình rằng khi viết về cuộc di cư 1954-1955, tôi chỉ 
			nghĩ đến những kẻ ra đi, đến những người di cư đã rời bỏ miền Bắc 
			vào miền Nam. Nghĩ đến tâm trạng của họ, đến nỗi lo âu khốn khổ cũng 
			như gương can đảm và lòng quyết tâm của họ.
			Có nghĩa là 
			coi vấn đề di cư chỉ trực tiếp liên hệ đến kẻ ra đi mà không liên 
			quan gì đến kẻ ở lại.
			Sách vở viết 
			về cuộc di cư cũng chỉ viết về kẻ đã ra đi. Không một ai nghĩ đến kẻ 
			ở lại nghĩ gì, sống ra sao, có hệ lụy gì?
			Đấy là một 
			thiếu sót cần được bổ khuyết. Nhưng mặt khác, người di cư bỏ miền 
			Bắc ra đi không thể nghĩ hay viết thay cho người ở lại. Vì thế, 
			người viết xin ghi lại một vài tâm tình của một vài người bạn đã ở 
			lại miền Bắc sau 1954.
			Chứng từ thứ 
			nhất:
			“ Sau thời 
			hạn 300 ngày, gia đình tôi đã quyết định ở lại Hà Nội. Đúng ra là 
			gia đình tôi có người ở lại, có người ra đi. Phần không nhỏ đã di cư. 
			Chẳng hạn, ông anh tôi là thiếu uý, sĩ quan, cùng khoá 4, Thủ Đức 
			với ông Thiệu nên đã theo quân đội đi vào miền Nam. Sau này lên 
			Trung tá và hiện nay đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Trong gia đình có kẻ 
			đi người ở nên đưa đến cảnh chia lìa Nam Bắc trong mấy chục năm trời.
			Đó cũng là 
			bất hạnh của nhiều gia đình.
			Mẹ tôi hồi 
			đó 54 tuổi, Bố tôi 56, thấy mình đã già. Vì thế quyết định ở lại. 
			Quyết định ở lại của gia đình tôi không phải vì lý do chính trị gì 
			cả, chỉ là lý do gia đình. 
			Ông bố tôi 
			thì nghĩ rằng, gia đình mình là dân lao động, chắc ở lại cũng không 
			sao, họ để yên, không làm gì nên ở lại.
			Phần cá nhân 
			tôi thì tôi cũng muốn đi vào miền Nam một chuyến, muốn đi để thay 
			đổi vì tò mò muốn biết miền Nam như thế nào. Tôi có người bạn là anh 
			Nguyễn Ngọc Bội, anh và gia đình quyết định đi vào Nam và có rủ tôi 
			đi theo. Nhưng tôi đã quyết định ở lại theo gia đình. Mặc dầu tôi có 
			đủ điều kiện để đi. Lúc đó tôi 15 tuổi rưỡi.
			Mặc dầu 
			không đi vào Nam, nhưng như mọi người lúc bấy giờ, chúng tôi rất 
			hoang mang. Trăn trở gữa đi hay ở. Mỗi gia đình lại mỗi trường hợp. 
			Người quyết định ra đi thì lo bán tống, bán táng thứ gì có thể bán 
			được. Chợ trời mọc ra ở nhiều nơi, kẻ buôn, người bán. 
			Riêng trường 
			hợp tôi còn mê mấy ông Bộ đội thấy họ lý tưởng quá, mời về nhà đãi 
			đằng cơm nước, làm tội bà cụ phải hầu hạ cơm nước. Nhưng đần đần thì 
			bộ mặt cộng sản của họ cũng đã lộ ra.
			Các ông bắt 
			đầu đặt loa phóng thanh ở mỗi góc phố. Đó là nỗi phiền và nỗi bực 
			mình cho chúng tôi. Mỗi sáng các loa phóng thanh đó cứ rót vào tai, 
			bắt phải nghe. Đó là lối tuyên truyền của họ, không nghe cũng phải 
			nghe.
			Bắt đầu mệt 
			rồi, công an nay có thể xông vào nhà khám xét bất cứ lúc nào. Nhất 
			là sau giai đọạn Tập Trung cải tạo và Hợp tác hóa với chế độ tem 
			phiếu. Họ bắt đầu xiết chặt rồi. Người dân cảm thấy mình bị kẹt, bị 
			sa vào cái lưới thiên la địa võng. Nhưng trễ quá rồi. Muốn trốn đi, 
			nhưng không được nữa rồi.
			Nghĩ tới 
			thân phận mình và số phận của những người di cư, tôi thấy người di 
			cư là những người may mắn quá. Và chúng tôi thì không được cái may 
			mắn như họ.Tôi ước gì được rơi vào số phận như họ. Tự nhiên là có sự 
			so sánh giữa họ và tôi. So sánh để thấy họ có cơ may mà mình không 
			có được. Từ đó, không khỏi rơi vào tâm trạng tiếc nuối. Cũng chẳng 
			phải chỉ có mình tôi có tâm trạng đó, nhất là ông bà cụ tôi. Ông cụ 
			tôi đau khổ, vò đầu bứt tai vì đã không chịu di cư vào miền 
			Nam.Trong bữa cơm, không ai được nói xa gần đến quyết định sai lầm 
			đã ở lại, đến truyện xưa. Một quyết định làm ông ân hận cả đời, nhất 
			là giết hại cả cuộc đời tuổi trẻ của tôi.
			Chẳng phải 
			chỉ có gia đình tôi hoặc ông cụ tôi nuối tiếc.Tôi nghĩ bạn bè tôi 
			hoặc người dân Hà Nội nói chung, họ cũng có tâm trạng như chúng tôi, 
			nhưng không tiện nói ra. Mọi người đều vô cùng đau khổ, nhưng biết 
			trách ai bây giờ. Người ta so sánh và tiếc cái thời tây như một 
			thiên đường. Nghĩ tới đời sống thoải mái, no đủ, mặc dù có làm bồi 
			cho Tây cũng sướng hơn.
			Trong khi 
			đó, miền Nam thì xa vời như một thế giới chỉ có trong trí tưởng 
			ttượng. Báo chí Hà Nội hay đài chỉ đưa tin nói cầu Thị Nghè bị xập, 
			chết người vô số. Giáo phái đánh nhau với quân chính phủ của ông Ngô 
			Đình Diệm. Tình hình trong đó rối loạn. Người di cư bị phỉnh gạt, 
			vào đó phải sống khốn khổ. Thanh niên thì bị đưa đi đến các đồn điền 
			cao su lao động, bị bóc lột.
			Nhưng trước 
			tình hình mỗi ngày mỗi bị bóp nghẹt, đời sống khó khăn. Nhiều người 
			bàn tính đến chuyện chốn vào miền Nam? Nhưng không dễ gì trốn được. 
			Nói hở ra một tý là bị bắt liền.
			Chẳng may, 
			năm 1961, tôi bị đi tù. Trong nhà tù, tôi thấy người ta bị bắt đông 
			lắm, không tưởng tượng nổi là có cả ngàn người, nhất là giới thanh 
			niên bị bắt vì muốn trốn vào miền Nam. Chỉ cần bàn bạc cũng đủ để 
			vào tù và bị ghép vào tội: trốn theo địch.
			Nhẹ nhất 
			cũng bị 5 năm tù. Nặng có thể tử hình.
			Như trường 
			hợp ông Trần Văn Tửu, ông cướp thuyền để trốn vào miền Nam, nên ông 
			bị lôi ra xử bắn. Và đó là trường hợp mê vào Sài Gòn nên có câu: Sài 
			Gòn ơi, ta chết vì người. 
			Nhiều lúc 
			ngồi trong tù, tôi nghĩ thà có bị chặt một ta, bị tàn tật mà đi được 
			cũng đi.  Chán quá rồi. Cho nên, dù có bị tàn tật vẫn còn là một may 
			mắn hơn là phải ở lại với cộng sản.
			Viết ra 
			những điều này, tôi mong mỏi đồng bào mình hiểu rằng, dù may mắn di 
			cư vào được miền Nam hay dù phải ở lại miền Bắc thì tâm trạng của cả 
			hai miền cũng không khác gì nhau. Ai cũng chán ghét cộng sản. Ai đi 
			được thì mừng cho họ. Ai không đi được thì buồn cho họ. Hơn phân nửa 
			cuộc đời tôi đã phải sống dưới chế độ ấy, nay còn lại phần cuối đời, 
			tôi mong mỏi Việt Nam mình thoát khỏi cảnh bạo tàn cộng sản để cho 
			dân chúng hai miền hưởng được tư do, dân chủ. Đời mình đã không đạt 
			được. Hy vọng thế hệ sau, thế hệ con cháu mình có cơ hội hưởng cuộc 
			đời tự do hạnh phúc.
			Chứng từ thứ 
			hai: 
			
			Cuộc Di Cư 54-55 đã ghi dấu ấn trong lịch sử VN không thể phai nhoà.
			
			Nó khẳng định ranh giới giữa cộng sản VN với những người Việt quốc 
			gia, để hình thành một nền đệ nhất cộng hoà non trẻ dân chủ, tự do, 
			nhân ái, nhưng cũng còn đầy rẫy nhưng gian lao, hệ lụy ở phiá Nam. Còn 
			ở miền Bắc tôi ở, nhà cầm quyền cộng sản đã tự xé bức màn chiêu bài dân 
			tộc, lột trần bản chất độc tài, khát máu, chuyên chính vô sản theo 
			cộng sản Tàu. Họ phát huy tối đa cao trào cải cách ruộng đất đẫm máu, 
			tàn ác, bất nhân. Đã phá vỡ kiến trúc xã hội ngàn năm từ văn hoá, tôn 
			giáo, tôn ti trật tự khắp nông thôn đến thị thành.
			
			Cuộc di cư vào Nam hồi 54-55 của những người miến Bắc là một sự lưạ 
			chon đúng đắn và dũng cảm. Họ đã đứt ruột rời bỏ quê hương, nơi tổ 
			tiên họ đã bao đời sinh sống. Nơi từng nắm đất, ngọn cỏ, bụi cây 
			cũng chứa đầy máu, nước mắt, mồ hôi của những thế hệ ông cha. Họ ra 
			đi như một khẳng định dứt khoát và quyết liệt. Không thể sống chung 
			với cộng sản. Dẫu trước mắt, có thể còn đầy rẫy khó khăn, chập chững 
			bước đầu nơi đất khách, lập quê hương mới. Nhưng nơi đó, họ được có tự 
			do, hạnh phúc và nhất là nhân thân họ được tôn trọng.
			
			Người đi đã thế. Những thân nhân còn ở lại chịu khổ ải bội phần. Họ 
			bỗng dưng thành những công dân loại hai. Rất nhiều người bị nhà cầm 
			quyền kéo ra đấu tố, tù đày chẳng kém gì những thành phần cường hào 
			đìạ chủ. Tuy họ không giàu, cũng không có chức tước gì trong thôn 
			xã. Nhưng họ bị tội là có thân nhân ruột thịt di cư vào Nam theo 
			giặc.
			
			Những gia đình có thân nhân di cư vào Nam thường không được vào 
			đảng… Không được nâng đỡ, thăng tiến trong công tác. Nhất là sau khi 
			có tin tức về những vụ bắt gián điệp, biệt kích từ trong Nam gửi ra. 
			Thì những gia đình có thân ruột thịt di cư như ngồi trên đống lửa. 
			Vì lúc nào họ cũng bị theo dõi nghi ngờ với những tin đồn có cánh.
			
			Họ sống trong nơm nớp sợ hãi, bất an và nghi kỵ... không kém chi 
			những thành phần địa chủ, cường hào.
			
			Đọc bài Di Cư anh viết, tôi thấy người đi đã vậy mà người ở lại cũng 
			lãnh bao nhiêu hệ lụy. Những hệ lụy dai dẳng suốt mấy chục năm kéo 
			theo bao những cảnh đời cùng khổ. Mà chẳng giấy bút nào viết hết.
			
			Không biết những người ra đi có hiểu cho người ở lại không?
			
			Và như vậy bài Di Cư không đề cập đến hệ lụy của người ở lại là chưa 
			đầy đủ. Phải không anh?
			
			Nhân đây tôi cũng chép lại bài thơ về người con gái có chồng theo 
			giặc vào Nam (Bài thơ khá được phổ biến, ngân ngợi, hò, vè). Thời đó 
			rất nhiều người thuộc:
			
			CÔ LÁI ĐÒ
			
			Khoan khoan cô lái đò ơi,
			
			Có còn rộng chỗ cho tôi sang nhờ.
			
			Khách đông, thuyền đã rời bờ,
			
			Nể lòng cô gái quay đò, tôi sang.
			
			Nắng thu như dải luạ vàng,
			
			Trên sông Tam Bạc nhịp nhàng chảy xuôi.
			
			Môi cô luôn nở nụ cười
			
			Tay cô thoăn thoắt đưa đôi mái chèo.
			
			Mạn thuyền tiếng sóng êm reo,
			
			Có dòng nước bạc chảy theo con đò.
			
			Thuyền sang tới bến bao giờ,
			
			Bỗng dưng tôi thấy ngẩn ngơ, bàng hoàng.
			
			Ước gì có chuyến đò ngang,
			
			Dài bằng cả một thời gian mười ngày...
			
			Thu qua, rồi đến xuân nay,
			
			Tình cờ qua bến sông này năm xưa.
			
			Vẫn còn nhớ lại trong mơ,
			
			Vẫn sông, vẫn bến đôi bờ xôn xao.
			
			Vẫn con đò của độ nào,
			
			Vẫn cô gái nhỏ, má đào chưa phai.
			
			Nhưng sao cô khẽ thở dài,
			
			Thẫn thờ nhìn khách ngồi hai mạn thuyền.
			
			Nụ cười tươi thắm, hồn nhiên,
			
			Năm xưa, chẳng thấy nở trên môi hồng.
			
			Hỏi dò mấy bạn sang sông,
			
			Biết thêm cô đã lấy chồng thu qua.
			
			Đời đang tươi đẹp như hoa, 
			
			Chồng cô theo giặc, bỏ nhà vào Nam.
			
			Đêm thu dưới anh trăng vàng,
			
			Dừng chèo trên bến, đò ngang đợi chờ.
			
			Nước non ngăn cách đôi bờ,
			
			Hờn căm đế quốc bao giờ cho nguôi...
			
			Bài này viết theo thể lục bát. Từ ngữ bình dị mà vần điệu nhuần 
			nhuyễn. Tôi không biết tên tác giả.Mà thuộc lòng từ thuở lên mười.
			
			Vân Hải. 
			
			Phần Kết luận  
			Bài viết này 
			đã đi được một đoạn đường dài, rảo qua tất cả những đoạn đường đầy 
			cam go và thử thách của cuộc di cư năm 1954-1955. Chắc 
			chắn còn rất nhiều điều chưa nói hết và chưa nói đủ. Kinh nghiệm khổ 
			đau của hàng trăm ngàn người, bút nào tả cho cùng?
			Bỏ ra ngoài 
			những uẩn khúc, những tỵ hiềm, những truyện cá nhân giữa người với 
			người, ngay cả những mánh mung vặt vãnh hay có tổ chức cũng không 
			tài nào tránh được trong các tổ chức trại tỵ nạn. Rồi khi có nhiều 
			va chạm giữa những kẻ mới tới và dân chúng địa phương. So sánh có, 
			tỵ hiềm có, đố kỵ có, khinh khi có, tránh né nhau cũng có, thù hằn 
			nhau cũng có. Tất cả những điều đó đều có thể.
			Cũng bỏ ra 
			ngoài truyện ăn chặn tiền cứu trợ, hoặc có những người di cư khai 
			báo đến hai ba lần để nhận tiền cứu trợ. Những điều như thế chắc 
			không cần viết ra đây làm gì.
			Không kể 
			biết bao trở ngại, khó khăn để người tỵ nạn có thể an cư lạc nghiệp. 
			Chẳng hạn, như ở Cái Sắn, người di cư không phải chỉ trông vào ba 
			mẫu tây đất là có thể ngồi đó rung đùi hút thuốc lào. Phải xoay sở, 
			phải chật vật làm thêm đủ thứ để có thêm thu nhập gia đình như trồng 
			rau, hoa mầu, lưới cá, nuôi gà vịt, heo và trăm thứ khác.
			Và đó mới là 
			cuộc sống thực, sống đích đáng và đúng nghĩa.
			Tôi cũng đã 
			nghĩ tới những thành công về mặt chính trị trong thế đối đầu với 
			cộng sản mà cuộc di cư này như cái tát trái vào mặt người cộng sản. 
			Số lượng người di cư khổng lồ như thế làm thế giới kinh ngạc và nể 
			phục đồng thời tác động mạnh mẽ đến thất bại tinh thần của chủ nghĩa 
			cộng Sản.
			Người di cư, 
			những 80% dân nghèo đã bỏ mà đi và bài học đó cần phải nhớ.
			Về ảnh hưởng 
			của người di cư trên mảnh đất mới cho thấy ở thành thị, chỉ từ 10% 
			đến 20% chất sám, chất sám miền Bắc đã làm nên chuyện lớn.
			Nhưng 70% 
			dân nghèo mà 60% là nông dân, 10% là dân thuyền chài đều là những 
			dân làm ăn cần cù, chăm chỉ {hard-working men} với một nếp sống giản 
			dị thu vén, liệu cơm gắp mắm nên ăn ít mà làm nhiều.
			Chả mấy lúc 
			mà khá giả và góp phần vào sự thịnh vượng của mảnh đất này... Và về 
			mặt xã hội, nó là hiện tượng kích cầu thúc đẩy những thành phần khác 
			trong xã hội cố gắng vươn lên theo.
			Nhưng tôi 
			nghĩ đến, từ kinh nghiệm cá nhân những gì tôi đã trải qua để thấy 
			báu vật vô vàn của đời dành cho người di cư: Đó là từ nay, họ có thể 
			sống cuộc đời của họ, tự do tôn giáo của họ, kinh nguyện của họ, bài 
			tụng của họ, nhà chùa của họ, nhà thờ của họ.
			Một điều xem 
			ra tầm thường mà những người còn ở lại bên kia bức màn tre không bao 
			giờ có được. Họ có được những điều mà những người còn ở lại vô phúc 
			không có được.
			Điều tôi 
			muốn được bày tỏ ở đây, tôi muốn nói cho rõ để thế hệ mai sau thấy 
			rằng cha mẹ, tổ tiên của họ đã có cơ may ngàn vàng có được cơ hội 
			”đổi đời” từ miền đất khô cằn phải lao lực, phải đổ mồ hôi nước mắt 
			mới có hạt cơm vào mồm. 
			Đời sống dân 
			cư miền Bắc, miền Trung là vô vàn khốn khổ. Thời của tôi, nhiều 
			người chưa bao giờ có cơ hội ngồi trên chiếc xe hàng chạy bằng hơi 
			nước, chưa bao giờ biết miếng bánh mì, chưa bao giờ biết ăn một cái 
			kẹo tây, chưa bao giờ biết đánh răng bằng bàn chải, chưa bao giờ 
			biết xỏ chân vào một đôi dép, chưa bao giờ biết cắt tóc, chưa bao 
			giờ biết sà phòng, chưa bao giờ biết đến xe đạp. Có khi bánh xe đạp 
			là bánh đặc. Chưa bao giờ thong thả, ngồi nghe vọng cổ, chưa bao giờ 
			biết cờ bạc... 
			Nhiều cái 
			chưa bao giờ lắm. Cả làng chỉ có một trường tiểu học trình độ biết 
			đọc, biết viết. Cả tổng chưa có trường trung học, cả huyện cũng thế, 
			may ra ở tỉnh thì có một trường. Các khu vực theo Thiên chúa giáo có 
			thể khá hơn. Cả làng có thể mù chữ, trừ vài người. Có được vài sào 
			ruộng đã lấy làm tự an ủi. Có dăm ba mẫu ruộng đã nên ông nên bà. 
			Cơm trắng là điều xa xỉ. Ngủ giường là điều không thể xảy ra. Quần 
			áo vá chằng vá đụp như một cái mền rách.
			Tôi nghe kể 
			rằng, ngay ở Sài Gòn sau này, có trường hợp sư bà Đàm Hướng ở đường 
			Phan Đình Phùng chăm sóc trẻ mồ côi. Người Mỹ có phân phát cho mỗi 
			em một tube thuốc đánh răng. Nhiều em tưởng ăn được, mút ăn ngon 
			lành. Sinh đau bụng. Phải gọi cấp cứu bác sĩ Mỹ đến.
			Hóa ra chỉ 
			vì những tube kem đánh răng, mùi thơm, hơi ngọt nên trẻ con tưởng ăn 
			được 
			Đời sống 
			người dân quê có được hai ba sào ruộng đã là quý. Nhà ở là túp lều 
			tranh vách đất, trống trước trống sau. Còn nếu không có nổi vài ba 
			sào thì đi cấy rẽ, cấy thuê, hoặc làm thuê làm mướn. Tôi đã thấy 
			những bữa ăn của thợ cấy, thợ cầy. Chỉ có vài quả cà. Khá lắm có 
			chút rau muống luộc thì lấy nước rau muống chan để và vội bát cơm. 
			Cả  năm không biết có mấy lần ăn được một miếng thịt. Đi ăn cỗ 
			thường 6 người/một cỗ. Họ bảo nhau ăn vài miếng, thường sau đó chia 
			nhau ăn hết món nấu, rồi cả mâm chia phần còn lại làm sáu phần lấy 
			lá chuối gói về cho vợ con. 
			Vào trong 
			Nam, tại trại định cư Cái Sắn, mỗi người được chia đến ba mẫu ruộng. 
			Nhà
			
			cửa
			khang 
			trang. Cầy cấy
			thì 
			có trâu thay cho người. Cấy lúa sạ làm chơi mà ăn thật khỏi phải 
			chân lấm tay bùn, quần quật từ sáng tới tối.
			Vào Cái Sắn 
			người di cư phút chốc lên làm người. Kể từ nay, không còn vất vả 
			quần quật nữa.
			Tại nơi đây, 
			một sức sống mới đang vươn dạy theo tinh thần Tự lực cánh sinh và 
			dần dần được địa phương hóa.
			Trên tờ Nữu 
			Ước thời báo ra ngày 16-2-1956 đã viết như sau về trại định cư này: 
			“Trên địa hạt con người, đối với những người tỵ nạn, đây có nghĩa 
			là một đời sống sung sướng và có nghĩa lý hơn, vì họ sẽ không cần 
			những sự trợ giúp có tính cách làm phúc nữa. Trên địa hạt kinh tế, 
			điều này có nghĩa là trong một ngày gần đây, Nam Việt sẽ có thể xuất 
			cảng một triệu năm trăm ngàn tấn gạo, cũng như hồi tiền chiến”.
			Chưa kể đủ 
			thứ bệnh. Chết lúc nào không hay. Các bệnh như toét mắt, ghẻ lở, 
			bệnh cứt trâu, bệnh tiêu chảy chỉ là bệnh ngoài da, bệnh thông 
			thường. Bệnh nặng thì đành chịu.
			Chưa kể lúc 
			chết không có miếng đất để chôn, phải chôn nhờ.
			Cho nên cuộc 
			di cư 1954-1955 đối với nhiều người là một sinh lộ giải thoát con 
			người ra khỏi tối tăm và cơ cực.
			Cuộc di cư 
			1954-1955, phải chăng là cơ hội để con người có cơ may làm người?