GS Nguyễn Đăng Trúc
 Nỗi khắc khoải của kiếp người
          
          "Fecisti nos ad Te, 
          et inquietum est cor nostrum donec resquiescat in Te"
          
          
                                         
                               [Confessiones 
          - 1, 1 (1)]
          Con người và lời 
          nói
          
          Câu trần tình ngắn gọn:
          
          
          "Ngài đã dựng nên chúng con để hướng về Ngài, 
          và tâm hồn chúng con không nghỉ ngơi cho đến khi nghỉ yên trong Ngài"
          
          
          hàm chứa toàn bộ nội dung cuốn "Confessiones" của Thánh 
          Augustinô, 
          và thấm nhập toàn bộ tư tưởng và đời sống của một vị đại thánh Kytô 
          giáo, một vị thánh hiền chân thực, một nhà văn hóa lỗi lạc của nhân 
          loại.
          
          Chỉ qua câu nói này, Augustinô đã dám đưa ra một lối trình bày, một 
          ngôn ngữ độc đáo làm đảo lộn truyền thống văn hóa được ghi lại trong 
          các đại tác phẩm Đông Tây.
          
          Như một qui ước, đồng thời cũng là một tiền kiến truyền kiếp trong 
          sinh hoạt văn hóa nhân loại, ngôn ngữ được dùng để 
          diễn đạt tư tưởng 
          
          luôn giả thiết phải đạt đến một mức độ trừu tượng nào đó, biểu lộ 
          những phong thái vượt lên thực tế của cuộc sống thường ngày. Kết quả 
          là các mối tương giao sống động 
          
          “tôi 
          - anh - chị - chúng ta" 
          được chuyển thành những ý niệm 
          
          "nó - chúng nó …", 
          để ta bàn luận, nói ‘về’, thay vì trực diện nói ‘với’. 
          Thật vậy, ngôn 
          ngữ văn hóa có thể được diễn tả bằng văn thể mô tả, tượng trưng hay 
          qua lời nói nghịch thường đi nữa cũng khó mà đưa vào các đại danh từ
          "tôi - anh - chúng ta". Một cái gì thiếu vắng, phản tự nhiên 
          bàng bạc được cảm nhận để rồi nảy sinh ước muốn có được một ngôn ngữ 
          khác, một lối nói cận kề với thinh lặng, hàm ngụ sự khước từ chính giá 
          trị xác thực của ngôn ngữ.
          
          Trong tâm thức đó, 
          Trang Tử nhận xét rằng:
          
          
          "Cái nhìn cao siêu về Đạo và mọi vật, lời nói hay thinh lặng cũng 
          không thể chứa nỗi. Nó vượt lên trên lời nói và cả sự thinh lặng, ở 
          ngoài bất cứ khả năng diễn tả nào của con người" 
          
          
          
          
          
          [1]
          
          
          Nếu cần phải dùng lời diễn tả triết học, thì có hai cách để thấm nhập 
          nội dung các tác phẩm văn hóa. Hoặc tiền kiến chủ trương sự toàn năng 
          của trí khôn con người, và hệ luận đương nhiên là chấp nhận đẳng thức 
          tuyệt đối - giữa trí năng - ngôn ngữ và 
          - 
          
          sự vật. Hoặc tiền cảm một tình trạng bất cập, phân ly về hữu thể học 
          có tính cách căn đế 
          
          
          
          
          [2], 
          một cảm thức tuyệt đối bi quan về thân phận con người trước chân lý;
          
          
          bấy giờ, nều còn chần chừ thì 
          sử 
          dụng lối nói biểu tượng; nếu dứt khoát thì đi đến 
          cả
          
          
          việc từ khước 
          sử 
          dụng ngôn ngữ.
          
          Tác phẩm "Confessiones" cống hiến một thứ ngôn ngữ khác. 
          Ngôn ngữ của tập sách nầy không 
          phải là lối nói hằng ngày biểu lộ những xúc cảm thông thường, những ưu 
          lo thế sự; 
          nó
          
          
          cũng không phải là phương thức diễn đạt ý nghĩa sự vật; và cũng không 
          phải là một dấu hiệu để ám chỉ một cái gì khác lạ.
          
          Ngôn ngữ ấy
          
          
          diễn tả một mối liên hệ, không phải giữa vật này với vật 
          khác, nhưng giữa một ai với một ai khác. Vị "Ai
          Khác" 
          xuất hiện ra vào đầu cuốn "Confessiones" là một "Ngài"; chính 
          từ Ngài phát sinh ra lời nói, nhưng Ngài đó lại ẩn mặt.
          
          Xin Ngài đừng che mặt với con                          
            [Conf. 
          1-1(5)]
          
          Người kia chính là Augustinô, lại không phải là một nền tảng vững chắc 
          và ổn cố của cái "tôi" trong triết học Descartes, cũng không 
          phải là cái "tôi siêu nghiệm" 
          
          
          
          
          [3] 
          của Kant, có đầy đủ khả năng đồng hóa. Nhưng từ ngay trong mối giao 
          tiếp của cuộc đối thoại, tôi nhận ra tôi như một vấn nạn, một câu hỏi 
          cho chính mình.
          
          
          Con đã trở thành một vùng đất đầy gai góc và khốn khổ cho chính con  
          
                                                                                   
          [Conf. 
          X-16(25)] 
                  
                    
          
          
          Dưới mắt Ngài, con đã trở thành một vấn nạn cho chính con
              [Conf. 
          X-33(50)] 
          
          Vượt lên trên bất cứ một lối ngôn ngữ nào của con người mãi tìm về 
          chân lý của sự vật, lối nói của "Confessiones" là sự biểu lộ 
          của đức tin, là lời kinh của một Kitô hữu.
          
          Về lối nói này, Thánh Phaolô đã mô tả những đặc tính thiết yếu:
          
          
          Thánh Thần cũng sẽ đến để cứu giúp sự yếu hèn của chúng ta; bởi vì 
          chúng ta không biết phải xin gì để cầu nguyện cho phải lẽ.
          
          
          Nhưng chính Thánh Thần sẽ can thiệp cho chúng ta qua những nỗi rên
          
          
          siết 
          khó tả"
          
                                                                                                               (Rm. 
          8,26)
          
          
          Ngôn ngữ đó chỉ có được nhờ sự thúc đẩy của Thánh Thần linh hoạt để 
          thông dự vào Lời chân thật đã nhập thế và nhập thể. Lời nhập thế đó 
          nối kết, tạo sự gần gũi giữa Hữu thể và con người, đưa ngôn ngữ con 
          người vượt lên trên cao vọng đồng hóa hão huyền cũng như nỗi thất vọng 
          trước tình cảnh phân ly, bất cập cùng cực.
          
          
          Lạy Chúa, Ngài đã cho con đức tin để con gọi đến Ngài, đức tin mà Ngài 
          đã hưng chấn lên trong con nhờ tính nhân loại của Con Ngài, nhờ việc 
          làm của Đấng loan báo về Ngài                      [Conf. 
          I-1(1)]
          
          Nhờ sức mạnh của đức tin luôn làm cho ngôn ngữ thông dự linh hoạt vào 
          Lời của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa xuất hiện ra trong tâm hồn của con 
          người như một kẻ đang đối thoại. Từ giây phút đó, con người 
          không còn là một cái tôi đơn độc, giả ảo nữa, nhưng một chân 
          trời của chúng ta được khai mở. Như thế, hữu thể con người 
          không còn định nghĩa như một sự vật không hồn khô cằn, nhưng đi vào 
          sức năng động của các mối tương giao giữa các hữu thể sống động. 
          "Tôi" không thể tách rời khỏi "anh", khỏi "Ngài", 
          Đấng tạo nền tảng cho "tôi", cũng không xa lạ với "chúng tôi" vì đây 
          là cộng đồng thiết yếu để từ đó có thể kêu đến tên "anh", tên "Ngài".
          
          Hai chiều kích tương giao này không thể tách rời nhau; 
          và mối tương giao linh hoạt đó 
          
          đòi hỏi bất cứ một lời ca ngợi nào hướng đến Thiên Chúa đều phải là 
          một chứng tá của đức tin đã hứa ban cho mọi người.
          
          Nội dung của đức tin này đã được sách Sáng Thế mạc khải rằng: 
          "Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài" 
          
                       
          (Sáng 
          Thế 1. 27).
          
          Augustinô thể hiện sức sống của mạc khải đó trong việc quy hướng hình 
          ảnh về với Bản Gốc, về Nguồn - là Thiên Chúa;
          sự phản chiếu linh động này được thánh 
          nhân gọi tên là "nỗi 
          khắc khoải.
          Nỗi khắc khoải 
          trong tư tưởng Augustinô
          
          Nhà tư tưởng Jean Brun trong cuốn "L'Europe philosophique" đã 
          diễn tả nét độc đáo của tư tưởng Augustinô như sau:
          
           Thánh 
          Augustinô nêu lên câu hỏi nền tảng : "Con người là ai?", chứ không 
          phải
          
          
          "Con người là gì?". Câu hỏi sau này chuyển người thành vật thể, từ đó 
          các nhà chuyên môn định nghĩa con người như một cái gì đó, chứ không 
          phải một ai. Hậu quả là đủ thứ lý thuyết phát sinh; từ tiền đề đó họ 
          đã đưa ra những lối giải thích về yếu tính và thực tại của bản tính 
          nhân loại"
          
          
          
          
          [4]
          
          Hữu thể học, môn học được truyền thống đánh giá là nền tảng, đưa ra 
          những nguyên lý thượng đẳng của triết học cũng khởi phát từ câu hỏi về 
          vật thể 
          như thế. 
          Điều mà M. Heidegger rất đỗi ngạc nhiên cho rằng buổi bình minh của tư 
          tưởng, khi ánh sáng của câu hỏi về triết học 
          vừa lóe lên, 
          thì cũng chính từ câu hỏi đó bóng tối bao trùm.
          
          Câu hỏi của Augustinô như một ánh chớp khác lạ thoát ra khỏi truyền 
          thống tư tưởng này, một truyền thống mà Heidegger cho là một sự hiểu 
          lầm truyền kiếp. Câu hỏi triết học của ngài phát ra từ nỗi khắc 
          khoải, một mối tương giao căng thẳng, một chân trời khai mở nguồn gốc 
          và cứu cánh của nhân loại. Sức căng đó là hữu thể con người, là ý 
          nghĩa của thời gian và lịch sử. Hữu thể không còn phải là một 
          cái gì, một đối tượng cho lý trí cân đo, nhưng là sức sống, là sự 
          thông dự căng thẳng. Nói cách khác, hữu thể không phải là một vật, một 
          ý niệm, một bản chất ổn cố, ù lì, trơ trọi bên cạnh những hữu thể. 
          Theo Augustinô, hữu thể không nằm trong khuôn khổ của phạm trù 
          "bản chất", nhưng là một mối tương giao. Theo nguyên 
          nghĩa của La ngữ, "ens" hàm ngụ một sự thông dự với "Esse", 
          và ý nghĩa ưu tiên của nó đáng ra phải được hiểu trong sự thông dự 
          này.
          
          "Esse" 
          
          được nêu lên như là nền tảng cho bất cứ một "ens" nào, nhưng 
          nền tảng đó lại che dấu, vì nó không thể do một thời gian, 
          một cách thái nào thiết định cả. Hệ luận là sự thông dự trong "ens" 
          phải là một thảm kịch trường kỳ, có tính cách bấp bênh, luôn bị đe dọa 
          để rơi vào tình trạng tha hóa, tức là biến thể. Tha hóa không phải là 
          biến thành một vật khác, đây chỉ là một lối nhân tăng do hậu quả phát 
          xuất từ tha hóa căn nguyên. Tha hóa căn nguyên do việc tự-ổn-cố dựa 
          nơi chính mình, một lối "chấp ngã" để đánh mất mối tương giao căng 
          thẳng với "Esse không thể định vị được". Các thi hào Sophocle 
          (trong Oedipe làm vua), Eschyle (Prométhée bị trói), 
          cũng như Lão Tử, Trang Tử, đặc biệt sách Sáng Thế, đã dùng lối 
          nói thi ca, biểu tượng để diễn tả kiếp người khốn khổ đó. Nỗi khắc 
          khoải của kiếp người (Cor inquietum) được Augustinô cảm nhận, 
          trong khuôn khổ của mạc khải Kitô giáo, gắn chặt với "cơn khát" 
          của Con Người Giêsu Kitô 
          (x.
          Gioan 
          19, 28), 
          Đấng mang lấy thân phận của toàn thể tạo vật.
          
          Nỗi khắc khoải đó là sức sống mới, khai mở chân trời của mối 
          tương giao "người với người", vượt qua thế giới sự vật của Adam cũ đã 
          lấy sự hiểu biết của mình thay cho nguồn sống căn cơ.
          
          Chính vì tư tưởng còn có nghĩa là tái sinh, là sức đứng dậy làm 
          người đúng theo thân phận trung thực của mình, nên Augustinô thường 
          dùng lối nói song nghĩa:
          
          
          ". . . sự sống dưới hình thức của sự chết hoặc sự chết dưới hình thức 
          của sự sống"    
          [Conf. 
          1-6(7)] 
           
          
          
          Hoặc có lúc ngài vận dụng hình ảnh "bên trong" và "bên ngoài":
          
          
          Chính vì, tự bên trong con mà con đã đói khát vì thiếu của ăn nội tâm, 
          tức là thiếu chính Ngài, lạy Thiên Chúa                        (Conf. 
          II-1)
          
          Hình ảnh ngược lại là bên ngoài, bên dưới, tức là lối sống cũ, sống mà 
          thật sự là chết:
          
          
          Nỗi vui say mà thế giới khốn khổ đã quên Ngài, Đấng tạo dựng ra nó, và 
          thay vì yêu mến Ngài thì quay về tạo vật: đó là hậu quả của men rượu 
          vô hình nơi ý chí xấu xa và hướng hạ" 
                (Conf. 
          II-6)
          
          Với lối nhìn về hữu thể con người qua nỗi khắc khoải (hay mối tương 
          giao căng thẳng giữa người và Thiên Chúa), cảm thức của Augustinô làm 
          ta liên tưởng đến chữ "Khổ" trong tư tưởng Phật giáo.
          
          Hẳn nhiên, không thể đơn sơ đối chiếu một cảm thức về nội dung của đức 
          tin Kitô giáo mạc khải minh nhiên (positum) cho Augustinô để 
          gọi tên Thiên Chúa là Cha, là Chúa, với trực giác hồn nhiên (mà thần 
          học Kitô giáo gọi là mạc khải tự nhiên) trong ánh sáng của tư tưởng 
          Phật giáo. Nhưng sự kiện đó, một khi đã cân nhắc, sẽ không phải là một 
          trở ngại không thể vượt qua được để đào sâu những kinh nghiệm hầu như 
          tương tự về kiếp con người trong các nhà đại tư tưởng của nhân loại.
          
          Cảm nghiệm nguyên sơ của Đức Thích Ca được mô tả là một sự gặp gỡ (ngộ). 
          Gặp cái gì, gặp "ai" không bao giờ được ngài nói đến. Và sự làm thinh 
          đó tự nó đã nói rất nhiều.
          
          Câu chuyện về đời 
          Ngài 
          được ghi lại như một tiến trình đi tìm chân lý, vượt qua những giai 
          đoạn hiện sinh của mỗi cuộc đời con người. Từ cuộc sống bình thường 
          như mọi người, đến những lần gặp gỡ gây thắc mắc về cuộc đời và sau đó 
          là đi tìm một lối giải thích. Khi lên đường tìm Đạo cùng với 
          các vị tu sĩ Balamôn, ngài đã thu thập các kiến thức triết lý, ứng 
          dụng các kỹ thuật tu đức khắc khổ.
          
          Hai yếu tố nỗi bật trong con đường tìm Đạo đó:
          
          - Tìm kiếm bằng đủ phương cách, theo khả năng con người.
          
          - Tiết giảm dần hồi cái gốc đưa đến ảo ảnh, tiền kiến rằng sau 
          đó thể hiện được sự đồng nhất với Đại Đạo (identification 
          ontologique).
          
          Kết quả của con đường tìm kiếm khổ cực 
          nầy, 
          là bế tắc .
          
          Nhưng sau đó, câu chuyện kể lại ngài đã bỗng nhiên "ngộ", nghĩa 
          là ngài đã trực giác một chân lý trong một buổi suy tư bình thường. 
          Chân lý đó được ngài gọi một tên thôi: "Khổ".
          
          Với tiền kiến của một lối suy tư dựa vào hữu thể học "bản chất", hẳn 
          câu hỏi đầu tiên được đặt ra là: cái gì, hoặc ai phải 
          khổ?. Thật ra, khi trực giác về "khổ", Đức Phật đã vượt lên 
          trên câu hỏi này rồi, vì hỏi như thế chỉ nằm trong khuôn khổ mà 
          Ngài 
          đã đi qua và chứng nghiệm sự bế tắc. Tự đi tìm, tiền kiến có đủ 
          khả năng thiết định hay tưởng tượng ra trước một cái gì đó, một ai đó 
          để dựa vào làm nền tảng từ đó xác định rõ ràng cái này là cái này, tôi 
          là ai.... 
          Nhưng, 
          
          như thế thì "khổ" không có nghĩa là gì cả. 
          
          Chữ "khổ" làm nền tảng cho tư tưởng của Phật giáo cũng không 
          dừng lại ở một cấp độ nào bất kỳ của cảm năng nơi chủ thể. "Khổ" 
          bao trùm, vượt lên chủ thể và những cảm thức nhất thời. Tạm dùng ngôn 
          ngữ của Karl Jaspers để gọi tên cái "khổ" trong Phật giáo là 
          "Bao dung thể" (Englobant), một ánh sáng soi dọi, gìn giữ lấy 
          toàn bộ hiện sinh trong chân lý đó. 
          
          Cập nhật với tư tưởng và lối diễn đạt của các triết gia hiện sinh, có 
          thể gượng nói "khổ" là hiện sinh khắc khoải, bất an, là cảm 
          thức thiếu vắng tuyệt đối một điểm để tựa... Ngộ được "khổ" là 
          bước vào chân trời khai mở chân lý 
          của sinh 
          lực nhân tính 
          
          (cor inquietum) 
          và cũng thấy được hành tạo nghiệp (karma)
          
          
          đang tung hoành với muôn ngàn thế giới ảo vọng nhân tăng. Như Đức 
          Buddhaghosa diễn tả :
          
          
          Chỉ có khổ hiện hữu, không thấy có người đang khổ; 
          chỉ 
          có hành động xảy ra, nhưng không tìm thấy kẻ hành động 
          
          
          
          
          [5].
          
          
          Từ ánh sáng của "Khổ" nguyên sơ, nay kẻ đã "ngộ" 
          sẽ  thấy 
          được nỗi khốn khổ vô bờ của chúng sinh. "Khổ" 
          lại
          
          tha hóa 
          thành tai họa 
          
          cùng cực khi tâm thức của con người không còn nhạy bén về "khổ" 
          căn nguyên và tình cảnh khốn nạn của mình. 
          
          Ở 
          đây có thể lấy lại lời của Augustinô:
          
          
          Còn gì khốn cùng 
          
          hơn một kẻ khốn khổ đang dửng dưng trước tai biến của mình 
          
                      
          [Conf. I, 13(21)]
          
          Và để gợi ý suy tư về ý nghĩa cao siêu của chữ "khổ" trong Phật 
          giáo, cần ghi nhận thêm lời nói của Đức Thích Ca:
          
          Ngộ được khổ cũng là ngộ được niết bàn vậy.
          
          Đức Thích Ca cũng như Augustinô đã không bắt đầu và cũng không dừng 
          lại trong khuôn khổ của truyền thống hữu thể học bản thể, nghĩa là 
          không cố tìm một ý niệm nào đó làm mốc để suy diễn theo luận chứng 
          nhân-quả.
          
          Nỗi khắc khoải của kiếp người, "khổ" bao trùm, thấm nhập chúng sinh, 
          là sự cảm nhận trực tiếp, nguyên sơ; cũng như thực tế của hành tạo 
          nghiệp (karma) hay ý muốn tự tha hóa, lầm lạc (volonté 
          pervertie trong Augustinô) đều là kinh nghiệm sống động.
          
          Karma 
          không do khổ mà ra, nhưng ngộ được khổ thì thấy mê lộ của Karma. 
          Nói khác, Tứ Diệu Đế không phải là một học thuyết suy diễn từ sự kiện 
          này phát sinh hậu quả khác theo lối luận lý nhân quả, vốn nằm trong 
          khuôn khổ của mê lộ Karma. Mỗi một "Đế" là một trực giác 
          chân lý mà sự
          
          
          nhất quán toàn bộ vượt lên trên sự hữu lý của luận chứng về sự vật.
          
          "Khổ" không phải là kết quả của một tình trạng nhất thời có tính cách 
          tiêu cực nơi cuộc sống để từ đó tổng quát hóa ra làm thành một hệ 
          thống triết học bi quan. Khổ là "bao dung thể" đem lại ánh sáng 
          để thấy hiện sinh toàn bộ, trong đó có cả nhận thức, vốn cũng là khổ: 
          Sinh, lão, bệnh, tử, hy vọng, ý thức, ước muốn ... tất cả đều toàn là 
          khổ. Đây không phải là "khổ" như một phẩm chất tiêu cực, ngược lại với 
          một thứ hoan lạc đã được cảm nhận trước. Thật ra mọi hoan lạc mà con 
          người có thể cảm nhận, ước mong ... cũng là "khổ". Một trực giác về 
          khổ 
          căn 
          nguyên phải 
          
          vượt lên trên sự phê phán quá nông cạn thường gán cho quan điểm của 
          Phật giáo về kiếp người là bi quan, hay tiêu cực. (Cũng như, khi tiếp 
          nhận chân lý từ mạc khải về sự chết hay sự sống lại của Đức Giêsu 
          Kitô, ta không thể định giá những chân lý đó là bi quan hay lạc quan, 
          nhưng là những biến cố thực tế đưa đến cứu độ).
          
          Nếu có những âm hưởng đồng điệu trong cái "khổ" của Đức Phật và 
          "nỗi khắc khoải" của Augustinô, thì cũng có những điểm tương hợp 
          trong cảm thức của hai vị về sinh hoạt về nhân sinh: Karma và 
          cuộc phiêu lưu dông dài của cuộc sống con người trong Augustinô:
          
          
          Đúng là tình trạng nô thuộc khốn khổ đang cột buộc con như trói con 
          vào trong muôn vàn gút mắc của mạng lưới rối bờ (của nhân sinh); một 
          sợi giây oan nghiệt, đó đúng là chữ phải dùng" 
              [Conf. 
          VIII-5(10)]
          
          Đây là nhận định của Augustinô về tất cả những biến cố dồn dập của 
          cuộc đời ngài, tuỗi thơ, thanh niên, khi trưởng thành, giáo dục hấp 
          thụ được, nghề nghiệp...những ước vọng mà thường thường người ta cho 
          là chính đáng, cao đẹp cũng như những cuộc phiêu lưu tình cảm...
          
          Điều mà Kant gọi là "cảm tính tiên nghiệm" khai mở trực giác về 
          vũ trụ nhân sinh (tức là thời gian, không gian) để kết dệt nên thế 
          giới và muôn ngàn loại thế giới hướng đến tiến bộ, thì Phật Thích Ca 
          xem đó là con đường tạo nghiệp của Karma vô cảm tính, một sự 
          lãng quên về chân lý của "khổ căn nguyên" soi sáng con người nhận 
          chân về thân phận thực sự của mình. Augustinô xem đó là "sự say mê 
          thế giới" (ivresse du monde), dục vọng của con mắt 
          (concupiscence des yeux) được trí tưởng tượng tài bồi làm cho nỗi 
          thao thức về mối tương giao căng thẳng của người và Thượng Đế cạn 
          mạch.
          
          Một khoảng trống mà trí năng con người không giải thích được là tương 
          quan thế nào giữa "khổ" và "Karma", giữa "nỗi khắc 
          khoải nguyên sơ" và ý chí lầm lạc. Khoảng trống kỳ bí, tạo 
          phẩn nộ cho những nhà tư tưởng ngông cuồng, phản kháng, nhưng cũng là 
          khoảng trống gây hứng cho nhiều sáng tác văn học qua bao thế hệ. 
          Khoảng trống khai lộ sự hiện hữu tự do con người.
          
          Trong mạc khải Kitô giáo, con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mầu 
          nhiệm của sự sáng tạo được cảm nhận và phải được hoàn thành khi đưa 
          ánh dọi đó về chính gốc. Thể hiện sự quay về đó chính là cảm nhận nỗi 
          khắc khoải tâm hồn con người. Nhưng có thể "trở về" đồng thời cũng có 
          thể "phiêu lưu dông dài", những "có thể" đó là 
          những
          
          
          mầu nhiệm lạ lùng không kém mầu nhiệm tạo 
          dựng.
          "Có 
          thể" 
          
          đó, 
          tự 
          do đó,
          
          
          Dostoievsky cho là quá cao sang nên cũng là gánh nặng đè lên kiếp 
          người. Tự do từ đó "hình ảnh" (image) lại muốn và có thể 
          biến thành "khả năng tạo những hình ảnh khác" (imagination 
          productrice), hàm ngụ ý định tự tạo nên mình, tự ỗn cố 
          trong những cấu trúc tư tưởng giả tạo.
          
          Mặc khải về một Adam sống bằng hơi thở ban ra từ Lời Thiên Chúa, và 
          một Adam tự làm nên mình (Karma) khi đưa bàn tay (homo 
          faber) hái trái cây hiểu biết (homo sapiens) chiều theo ý 
          muốn của người nữ và một con vật bò sát (homo ludens), lảng 
          quên Lời Thiên Chúa chỉ vì tưởng rằng Ngài không có mặt 
          tại chỗ
          
          
          (Deus absconditus), 
          mặc khải về hai Adam đó bàng bạc trong nhiều lời nói khác nhau của các 
          đại văn phẩm của nhân loại (chẳng hạn Đạo Đức Kinh) làm nỗi bật bản 
          chất dòn mỏng tự căn cơ của tự do và hữu thể con người:
          
          
          Thật thế, đối diện với Ngài, không ai trong sáng vô tội, ngay cả đứa 
          bé chỉ sống một ngày trong cõi đời"
          
                                                  [Conf. 
          I-7(11)]
          
          Một ngày mang kiếp người, một lối nói để chỉ thân phận con người tại 
          thế, đã hàm ngụ nguy cơ lảng quên và lầm lạc. Thân phận làm người cũng 
          là thân phận của một Oedipe không biết Laios cha mình 
          tưởng là kẻ thù (xem Sophocle), của một Thúy Kiều bị đặt vào sự 
          xung khắc giữa "tài" và "mệnh" (Nguyễn Du).
          
          Nhưng dấu vết của sự hiện diện thần thánh còn ghi trong kiếp con 
          người, bất chấp những niềm vui giả ảo của những thế giới do bàn tay nó 
          tạo ra làm che khuất. Dấu vết đó là cảm thức về sự trần truồng, nhạt 
          nhẽo của thế giới giả tạo, là nỗi khổ nhân sinh đầy nước mắt và máu, 
          là sự khắc khoải và phẫn nộ trước tình trạng bất tương dung giữa ước 
          mơ làm chủ thế gian và cái chết của chính mình.
          
          
          Chúng con có trốn tránh, lảng quên cũng vô ích, thân phận của chúng 
          con không vì thế mà phải tan biến đi, vì nó nằm trong sự đời đời của 
          Ngài".
          
          
           [Conf. 
          IV, 16(31)] 
          
          Dấu tích thần thánh của kiếp người là nỗi khổ căn nguyên, là khát khao 
          tuyệt đối, là nỗi thao thức cấu tạo nên thế gian chân thực nuôi dưỡng 
          hữu thể con người tại thế.
          
          Một cách vô thức, nhưng đó cũng là một điểm kỳ diệu của nét trường tồn 
          của kiếp người, qua bao thế hệ thăng trầm người ta vẫn mặc nhiên nhìn 
          nhận những tác phẩm đủ sức cập nhật những thao thức căn đế này mới là 
          tinh hoa của sinh hoạt con người, tức là sinh hoạt văn hóa.
          Mặc khải tôn giáo 
          và lời con người
          
          
          Những gì Thánh Kinh của 
          Ta 
          (Thiên Chúa) nói, hỡi kẻ khốn khổ, đó chính là 
          Ta 
          nói. Thánh Kinh nói những điều đó, trong khuôn khổ của thời gian, 
          nhưng thời gian lại không chi phối Lời 
          Ta, 
          Lời luôn kết hợp với 
          Ta 
          trong sự thông dự bình đẳng về cõi đời đời. Vì thế điều gì các con 
          thấy, nhờ 
          Thánh
          
          
          Thần 
          Ta,
          Ta 
          cũng thấy như thế; cũng như điều gì các con nói nhờ 
          Thánh 
          Thần 
          Ta,
          Ta 
          cũng nói như thế; nhưng có sự khác biệt này là các con thấy điều đó 
          trong khuôn khổ thời gian, còn 
          Ta 
          khi 
          Ta 
          thấy, 
          Ta 
          không bị chi phối bởi thời gian; và điều gì các con nói, thì các con ở 
          trong khuôn khổ thời gian, còn 
          Ta, 
          khi 
          Ta 
          nói, 
          Ta 
          không bị thời gian chi phối"
          
                  [Conf. 
          XIII-30(45)]                
          
          
          Qua câu trích dẫn ngắn đó, Augustinô nhắc nhở nhiều đến sự liên hệ 
          giữa thời gian và lời con người. Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói với 
          con người trong khuôn khổ thời gian. 
          Trong 
          ánh sáng của Lời đó, ngôn ngữ thần học là lời con người nói về Thiên 
          Chúa, và về mình với sự chi phối tự căn của thời gian gắn bó với kiếp 
          làm người của mình. Chữ thần học rất dễ bị hiểu lầm, vì trong truyền 
          thống của chữ "học" được hiểu là một lý thuyết có tính cách thuần suy 
          tư, thần học được hiểu là một học thuyết, một loại "ý thức hệ" nào đó. 
          Trong mặc khải Kitô giáo, Lời là chính Đức Kitô nhập thể, bằng xương 
          bằng thịt. 
          Trong
          
          Thánh Thần Thiên Chúa, Lời đó là (Đấng) 
          
          người nối kết con người với Thiên Chúa, với đồng loại và toàn vũ trụ. 
          Như thế lời thần học trước hết là sống kết hợp với Lời Thiên Chúa, tức 
          là sống trong Đức Kitô nhờ 
          Thánh
          Thần Ngài. Lời thần học được phát sinh và triển nở 
          trong Đức Kitô, Đấng đã sinh ra, lớn lên và hoàn thành tính nhân loại. 
          Như Đức Kitô đã sinh ra và lớn lên trong khuôn khổ thời gian, lời thần 
          học lại càng bị thời gian chi phối để hoàn thành chính ý nghĩa thời 
          gian.
          
          Đức Kitô đã hoàn thành nơi Ngài ý nghĩa tràn đầy của thời gian, nhưng 
          con người là thời gian đang hoàn thành với tất cả những khốn khổ, giới 
          hạn, vì thời gian cũng là màn che Thiên Chúa,
          là "khổ" cùng cực của thân phận làm người mà 
          Đức Kitô đã thể nghiệm :
          
          
          Lạy Chúa, lạy Chúa con, sao Ngài đã bỏ con?
          
            (Mt. 
          27-46)
          
          Trong quan điểm đó, toàn thể cảm nghiệm của nhân loại gắn liền với sự cứu độ của Đức Kitô là nội dung của 
          thần học; 
          thần học 
          không phải 
          là  một 
          sự hiểu biết chỉ dựa vào suy luân của lý trí, nhưng chủ yếu 
          
          là kinh nghiệm của một chiến đấu căng thẳng với chính mình để cảm 
          nghiệm sự hiện diện của Lời Thiên Chúa và ý thức được sự kỳ bí của tự 
          do trong mình.
          
          
          Ôi, đời sống con người trên nhân thế thật sự có phải là một cuộc cám 
          dỗ không ngừng?                          
          [Conf. 
          X-29(39)]
          
          Thần học phải là nhân chứng cho nỗi khắc khoải đó. Nó mang những dấu 
          tích của khổ đau của con người trần thế đồng thời loan báo 
          Tin
          Mừng 
          về Lời đã hoàn tất.
          
          Với quan điển thần học này, cuốn "Confessiones" cho ta một lối 
          hiểu độc đáo về các đề tài căn bản của học thuyết Kitô giáo.
          
          Sự tạo dựng, cứu độ và cứu cánh tối hậu đã được Augustinô trình bày 
          theo cảm thức của kinh nghiệm sống khắc khoải của ngài:
          
          - Ngay từ những trang đầu "Confessiones", sự tạo dựng 
          không được ngài mô tả theo lối luận lý nhân-quả của sự vật, nhưng lồng 
          vào sự tương quan sống động giữa con người và Thiên Chúa.
          
          
          Ngài đã dựng nên chúng con để hướng về Ngài và tâm hồn chúng con không 
          nghỉ ngơi cho đến khi nghỉ yên trong Ngài                        
          
          
           [Confessiones 
          - 1, 1 (1)]
          
          Trong cuốn XIII, đặc biệt ngài giải thích về sự tạo dựng con người; 
          nhưng sự tạo dựng ở đây được tập chú vào sự tái sinh trong cảnh vực 
          sống tương giao với Thiên Chúa.
          
          
          Lời Ngài... là nguồn sống đời đời và không qua đi 
               
            [Conf. 
          XIII-21(31)]
          
          
          Cái chết của tâm hồn ... không phải vì thiếu mọi sinh hoạt, nhưng là 
          rời xa nguồn sống thật. 
          Khi trao mình cho trần thế, tâm hồn cũng sẽ mang lấy hình thái của 
          trần thế đang qua đi.     [Conf. 
          XIII-21(30)]
          
          
          - Sự cứu độ được mặc khải nơi lòng từ nhân của Thiên 
          Chúa trước cảnh khốn cùng, tội lỗi, và xa cách Thiên Chúa.
          
          Ở 
          đây cũng thế, các chân lý về cứu độ chỉ thấm nhập con người trong 
          khuôn khổ của nỗi khắc khoải được dấy lên nhờ 
          ThánhThần.
          
          - Còn về cứu cánh tối hậu, Augustinô lại đưa ra hai nội 
          dung ý nghĩa:
          
          a/ - Cứu cánh theo nghĩa là trở lại hữu thể chân thực trong 
          thân phận làm người gắn chặt với thời gian. Nói khác, là người thật sự 
          khi sống nỗi khắc khoải hướng về Thiên Chúa.
          
          b/ - Cứu cánh theo nghĩa thứ hai thuộc lãnh vực của hy vọng, 
          một phần thưởng đã được Lời loan báo qua sự sống lại của Ngài, đó là
          "sự an nghỉ vào thời xa lìa thời gian" 
          
                   [Conf. 
          XIII-37(52)]
          
          Nói một cách tổng quát, thần học của Augustinô là thần học của nhân 
          sinh, đưa con người đối diện với Thượng Đế để khai mở những tương quan 
          "tôi, anh, chúng ta ...". Một trời mới mở ra, khó khăn, đầy khắc 
          khoải, nhưng vì cập nhật chiều kích thần thánh nên cao cả và đầy hy 
          vọng.
          
          
          Trong kiếp làm người hôm nay, năm tháng đời con đúng là những nỗi rên 
          xiết, nhưng, lạy Chúa, Chúa an ủi con, từ thuở đời đời Chúa là Cha con.  
          [Conf.
          XI-29(39)]
          
          Thượng Đế là Cha
          
          con người hay sao?
          Lời 
          nói táo bạo của kẻ đã tin! 
          Người tin Augustinô đã gọi Thựong Đế là Cha trong nỗi khắc khoải của 
          Đấng đã kêu lên trên Thánh Giá khi hoàn tất nhân tính: Lạy Cha, sao 
          Cha bỏ con !
           Con 
          tin và vì thế con nói                
          
           [Conf. 
          I-6(6)] 
          
          Một lời nói, một lời cầu kinh và cũng là một sứ điệp về một hy vọng 
          quá sức mong chờ. Khắc khoải và hy vọng là toàn bộ kiếp làm người.
          
          
          Mất niềm hy vọng, dẫu trung thực đến đâu, con người vẫn đối diện với 
          tình cảnh đôi đường bế tắc: một là chấp nhận số kiếp bạc nhược - bò 
          sát, hay đi đến phản kháng trong tuyệt vọng để tìm một thứ an bình 
          trong lảng quên, một niềm vui giả tạo. 
          Hãy nghe lời trần tình của Nietzsche về bế tắc của con người mất niềm 
          hy vọng:
          
          
          Từ ngày tôi thấm mệt vì mãi tìm 
          
           Tôi 
          đã học cách tìm (đường của tôi)
          
          
           Từ ngày có một ngọn gió thổi ngược thuyền tôi,
          
          Con người có thể vui, như Oedipe vui trong việc làm chúa tể của 
          Thèbes sau khi giết cha và ăn nằm với mẹ; như Kiều, vì hoàn cảnh đọa 
          đày bị buộc phải vui:
          
          
          Vui là vui gượng kẻo mà,
          
          
          Ai tri âm đó, mặn mà với ai!
          
          Thế giới đang cố tìm vui với nhiều hình ảnh, màu sắc, âm thanh máy 
          móc, nhưng thế giới đang thiếu bóng người, thiếu một "ai" để tri âm.
          
          Chỉ nỗi khắc khoải tìm gặp một "Ai" 
          mới đủ khả năng khao khát an bình thật sự.
            
            ____________________________________________________
 
            
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              
              [1]
               Trang 
              Tử, 
              cuốn XXIV
              
            
              
              
              
              
              [2]  
              Séparation 
              ontologique radicale
              
              
              
              [3]
              Ego 
              transcendental
              
              
              
              [4] 
              Jean BRUN, 
              L'Europe 
              philosophique, 
              Ed 
              Clefs de l'histoire, 
              Stock, 
              1988, 
              tr. 91
              
              
              
              [5]
              
              
              Buddhaghosa,
              
              Visuddhimagga, 
              bản văn Pali,
              Text 
              Society de Londres,  
              tr. 513.
              
              
              
              
              [6] 
               F.
              Nietzsche - Le Gai 
              Savoir - Prologue en vers