Thư Đức Giáo Hoàng Phanxicô gởi dân Chúa

   Thư của giáo tông Phan-sinh gởi dân Chúa*

P. Hồng-Lam dịch
 
Khi một chi thể đau, mọi chi thể cùng đau“ (1 Cr 12,26). Lời của thánh Phao-lô vang dội mạnh trong tim tôi, mỗi lần tôi nghĩ tới cảnh nhiều trẻ em đã bị một số không ít linh mục và tu sĩ lạm dụng (về) tình dục, quyền lực và lương tâm. Đây là một tội ác, nó tạo nên những vết thương đau đớn và dẫn tới cảm giác bất lực, đặc biệt nơi các nạn nhân cũng như nơi các thân nhân gia đình họ và nơi toàn thể cộng đoàn cả của những kẻ tin và những kẻ không tin vào Chúa.
Ngoảnh về quá khứ, chúng ta nhận ra, tất cả những gì mình làm để xin lỗi và để cố gắng đền bù những thiệt hại đã gây ra, đã chẳng bao giờ đủ. Ngước về tương lai, ta thấy vẫn còn vô số những gì có thể làm, để hình thành nên một văn hóa có khả năng không những ngăn cản những tội ác như thế, mà còn không để chỗ cho chúng dai dẳng ẩn nấp. Đau khổ của các nạn nhân và của gia đình họ cũng là đau khổ của chúng ta. Vì thế một lần nữa chúng ta phải khẩn cấp tăng cường nỗ lực bảo vệ các em vị thành niên và thành niên, giúp họ tránh rơi vào những hoàn cảnh lệ thuộc.
1. Khi một chi thể đau…
Cách đây mấy hôm có một bản tường trình được phổ biến, trong đó để cập tới ít nhất một ngàn nạn nhân đã bị lạm dụng tình dục, quyền lực và lương tâm do các linh mục gây ra trong suốt bảy mươi năm qua. Mặc dù có thể nói rằng, đa phần các trường hợp đó đã thuộc về quá khứ, nhưng với thời gian chúng ta đã ý thức được nỗi đau của nhiều nạn nhân, và ta phải nhận chân rằng, những vềt thuơng của họ vẫn còn đó; chúng đòi hỏi chúng ta phải có bổn phận lên án những hành vi kinh tởm kia cũng như phải nỗ lực nhiều hơn nữa, để loại trừ cái văn hóa sự chết đó. Các vết thương „chẳng bao giờ mất hiệu lực vì hết thời hiệu“ cả. Đau khổ của những nạn nhân này là tiếng than thấu trời và đánh động lòng người, nhưng nó đã bị bịt miệng, dấu diếm và không được quan tâm trong một thời gian dài. Nhưng tiếng la của họ còn mạnh hơn tất cả các biện pháp nhằm bịt miệng hoặc các quyết định nhắm trấn an họ; tuy nhiên những biện pháp và quyết định này lại khiến cho nỗi đau của họ gia tăng, vì chúng bao hàm một sự đồng lõa. Thiên Chúa đã nghe được tiếng la của họ. Một lần nữa Người lại cho thấy, là Người đứng về phía nào. Bài ngợi ca của đức Maria vẫn đúng, và nó hiện diện xuyên suốt lịch sử như một cung nhạc nền; bởi vì Thiên Chúa nghĩ tới lời hứa mà Người đã trao cho cha ông chúng ta: „Người giải tán phường kiêu căng, đánh đổ những kẻ quyền thế khỏi ngai và đưa lên cao những ai thấp cổ bé miệng. Người ban của ăn của Người cho những ai đói khát và để những kẻ giàu sang trở về tay không“ (Lc 1,51-53). Và chúng ta xấu hổ, khi biết được rằng, lối sống của chúng ta đã phủ nhận điều đó và phủ nhận điều mà chúng ta vẫn môi miệng nói ra.
Cả tập thể Giáo Hội chúng ta phải xấu hổ và thống hối thừa nhận rằng, chúng ta đã không đứng về phía mà lẽ ra chúng ta phải đứng, và đã không hành động kịp thời, khi nhận ra tầm vóc và mức độ của sự thiệt hại đã tác động lên cuộc sống của không biết bao nhiêu người. Chúng ta đã bỏ mặc những người thấp cổ bé miệng. Tôi muốn nhấn mạnh nhắc lại lời suy gẫm đàng Thánh Giá ngày thứ sáu tuần thánh năm 2005 của giáo trụ (hồng y) Ratzinger trước đây, một lời đã gói trọn trong đó tiếng kêu đau đớn của bao nhiêu nạn nhân:  Có biết bao là dơ bẩn trong Giáo Hội và ngay cả nơi những kẻ trong hàng linh mục, những người mà lẽ ra họ phải hoàn toàn thuộc về Chúa! Có bao nhiêu là kiêu căng và tự mãn! Chúng con đã quá ít coi trọng bí tích hòa giải, qua đó Chúa chờ đợi nơi mỗi chúng con sự cải tà quy chánh! Tất cả những điều đó chúng con đều nhận ra trong cuộc khổ nạn của Chúa. Sự phản bội của các môn đồ, việc nhận lãnh Mình và Máu Chúa cách bất xứng, tất cả hẳn là nỗi đau thẳm sâu nhất của Đấng Cứu Độ, nỗi đau xuyên thấu trái tim Chúa. Chúng con chỉ biết van xin từ đáy lòng mình: Kyrie, eleison – Xin Chúa hãy cứu con (xem Mt 8,25)“ (Suy gẫm chặng thứ chín)
2. … mọi chi thể đều cùng đau
Tầm vóc và mức độ của những gì xẩy ra đòi buộc chúng ta phải chung sức nhìn nhận sự kiện cách toàn diện. Trong mọi tiến trình thống hối việc ý thức những gì xẩy ra là điều quan trọng và cần thiết, nhưng chỉ có thế thôi thì không đủ. Ngày nay, với tư cách là dân Chúa, chúng ta cần phải đón nhận nỗi đau khổ đã làm thương tổn tinh thần và thể xác của những anh chị em mình. Nếu như trong quá khứ việc nhắm mắt làm ngơ đã có thể là một phương cách giải quyết, thì ngày nay sự đoàn kết, với ý nghĩa cầu toàn và sâu xa nhất của nó, sẽ là cách thức để chúng ta mô tả những hoàn cảnh lịch sử hôm nay và tương lai, trong đó các xung đột, các căng thẳng và nhất là các nạn nhân bị lạm dụng dưới mọi hình thức có thể gặp được một bàn tay sẵn sàng đưa ra để bảo vệ và giải thoát họ ra khỏi đau khổ (xem Tông Thư Evangelii gaudium, 228). Chính sự đoàn kết này đòi buộc chúng ta phải đả phá tất cả những gì có thể gây nguy hại tới sự lành lặn thân xác và tinh thần của bất cứ một con người nào. Đó là một sự đoàn kết kêu gọi chúng ta chống lại bất cứ mọi hình thức tha hóa, nhất là tha hóa tinh thần, „vì đây là một sự đui mù dễ chịu và tự mãn, nó rốt cuộc xem ra cho phép làm mọi thứ: Dối trá, nói xấu, ích kỉ và nhiều hình thức quy ngã khéo léo – là vì „Satan đội lốt thiên thần của sự sáng“ (2 Cr 11,14)“ (Tông Thư Gaudete et exsultate, 165). Lời mời gọi của thánh Phao-lô, hãy đau với người đau khổ, là phương tiện chữa lành tốt nhất cho mọi áp lực trong chúng ta muốn tiếp tục lặp lại ngôn từ của Ca-in: „Phải chăng tôi là người canh giữ em tôi?“ (St. 4,9).
Tôi biết đây đó trên thế giới đang có nhiều nỗ lực và hành động, nhằm bảo đảm và thực hiện những công tác môi giới cần thiết giúp bảo vệ và giữ an ninh tinh thần - thể xác cho những thành phần vị thành niên và người lớn đang trong tình trạng dễ bị nguy hiểm. Trong số những việc làm đó có việc quảng bá „thái độ tuyệt đối bất khoa dung“ và việc yêu cầu phải ra những hình phạt đối với tất cả những ai sai phạm hoặc bao che cho tội ác đó. Chúng ta đã trễ nãi trong việc áp dụng những biện pháp và hình phạt này, nhưng tôi tin rằng, chúng sẽ góp phần bảo đảm cho một văn hóa phòng ngừa tốt đẹp hơn cho hiện tại và tương lai.
Cùng với những nỗ lực đó, điều quan trọng là tất cả mọi người đã nhận phép rửa cần phải ý thức để cùng tham gia vào cuộc tái tạo xã hội và Giáo Hội rất cần thiết này. Một cuộc tái tạo như thế đòi hỏi sự hoán cải của cá nhân và cộng đoàn. Nó hướng chúng ta cùng nhìn về một hướng với Thầy chúng ta. Như thánh Gio-an Phao-lô II. đã nói: „Nếu chúng ta thật sự cùng nhìn theo cái nhìn của Chúa, chúng ta sẽ có khả năng nhận ra Người đặc biệt qua hình ảnh của những kẻ mà Chúa muốn tự đồng hóa chính Người với họ“ (Tông Thư Novo millennio ineunte, 49). Hãy học cách nhìn như Chúa nhìn. Hãy học tìm chỗ đứng mà Chúa muốn cho mình đứng, để hoán cải con tim mình trước sự hiện diện của Chúa. Cầu nguyện và thống hối sẽ giúp chúng ta đạt được mục đích này. Tôi mời gọi toàn thể dân thánh của Chúa hãy ăn năn sám hối bằng cầu nguyện và ăn chay hãm mình theo như đòi hỏi của Chúa [1]. Người đánh thức lương tâm, sự đoàn kết và việc dấn thân của chúng ta trong công cuộc hình thành nên nếp văn hóa sẵn sàng chở che và dứt khoát nói không với mọi hình thái lạm dụng.
Nếu không có sự tham dự tích cực của mọi thành phần dân Chúa, thì không thể nào có được sự hối cải hành động của Giáo Hội. Hơn nữa: Hễ mỗi lần chúng ta tìm cách tránh né, im tiếng, nhắm mắt bỏ qua hoặc giản lược dân Chúa vào trong một nhóm nhỏ ưu tuyển, là mỗi lần chúng ta tạo ra những cộng đoàn, những chương trình, những quyết định thần học, những linh đạo và những cấu trúc không gốc rễ, thiếu kí ức, vô diện mạo, vô hình tượng và rốt cuộc là thiếu sự sống [2]. Điều này phản ánh rõ qua lối hiểu dị thường về uy quyền trong Giáo Hội – vốn rất phổ biến nơi nhiều cộng đoàn, trong đó đã xẩy ra những lạm dụng về tình dục, quyền lực và lương tâm -, cụ thể qua chủ trương giáo sĩ trị, một thái độ „không những [làm] hư hỏng nhân cách của Ki-tô hữu, mà còn [có chiều hướng] giảm nhẹ và đánh giá thấp ân sủng phép rửa, vốn được Chúa Thánh Thần tuôn đổ trong tâm của dân Chúa“ [3]. Chủ trương giáo sĩ trị, cho dù được khuyến khích do chính các linh mục hay do giáo dân, tạo nên sự chia rẽ trong lòng Giáo Hội; chia rẽ này lại thúc đẩy và góp phần giúp cho nhiều chuyện xấu xa tiếp tục hoành hành, những xấu xa mà chúng ta nay đang phải than trách. Nói Không với lạm dụng có nghĩa là mạnh mẽ nói không với bất cứ mọi hình thức giáo sĩ trị.
Điều cần nhớ luôn luôn, là Thiên Chúa „trong lịch sử cứu rỗi đã cứu [cả] một dân tộc. Sẽ không có một căn cước toàn vẹn, nếu không thuộc vào một dân tộc. Do đó không một ai sẽ được cứu với tính cách cá nhân riêng lẻ, nhưng khi Thiên Chúa kéo chúng ta tới với Người, Người quan tâm tới những liên hệ phức tạp giữa người với người vốn hiện hữu trong một cộng đoàn: Thiên Chúa đã muốn đi vào trong một động năng xã hội, đi vào động năng của một dân tộc“ (Tông Thư Gaudete et exultate, 6). Vì thế chúng ta chỉ có mỗi một cách chống trả lại cái xấu đó, một cái xấu đã cướp mất cuộc sống của biết bao con người, là ý thức cùng nhau chung sống trong một cộng đoàn dân Chúa. Với ý thức mình là thành phần của một dân và có cùng chung một lịch sử chúng ta mới có thể ăn năn thú nhận công khai những tội lỗi và thiếu sót của mình trong quá khứ, để từ đó mới sẵn sàng đổi mới từ nội tâm. Tất cả những gì ta làm, để tống khứ cái văn hoá lạm dụng ra khỏi cộng đoàn chúng ta, sẽ không có được những sức bật cần thiết cho một cuộc chuyển hoá lành mạnh và hữu hiệu, nếu không có sự tham dự tích cực của tất cả mọi thành phần của Giáo Hội. Chiều kích thống hối của cầu nguyện và ăn chay hãm mình sẽ giúp dân Chúa chúng ta thành tâm bước ra trước Thiên Chúa và trước những anh chị em bị tổn thương của chúng ta - như những kẻ tội lỗi van xin sự tha thứ, van xin ân sủng của sự xấu hổ và của lòng ước muốn trở về đường ngay, và như thế là chúng ta đang thực hiện những hành động tạo ra động năng đưa tới hòa hợp với Phúc Âm. Là vì „Mỗi khi chúng ta nỗ lực trở về nguồn và đi tìm lại sự tươi mát ban đầu của Phúc Âm, lúc đó chúng ta sẽ nhận ra nhiều con đường mới, nhiều phương cách sáng tạo, nhiều lối diễn tả khác, nhiều dấu hiệu và ngôn từ có sức biểu cảm và giàu ý nghĩa cho thế giới ngày nay“ (Tông Thư Evangelii gaudium, 11).
Tất nhiên, với tư cách Giáo Hội, chúng ta phải nhìn nhận những hành động tội ác gây ra bởi các tu sĩ và linh mục cũng như bởi những kẻ đã được trao phó trọng trách trông coi và bảo vệ những thành phần dễ bị tổn thương nhất, và chúng ta phải đau buồn xấu hổ kết án những hành động đó. Chúng ta cầu xin sự tha thứ cho những lầm lỗi của chính mình và của người khác. Ý thức tội lỗi giúp chúng ta nhìn nhận những lỗi lầm, những hành vi phạm pháp và những vết thương do mình gây ra trong quá khứ; nó giúp ta mở lòng ra và từ nay mạnh dạn dấn thân cho con đường đổi mới cuộc sống.
Đồng thời sự hối cải và cầu nguyện giúp đôi mắt và con tim chúng ta trở nên nhạy bén trước nỗi đau của tha nhân và giúp ta vượt thắng đam mê của cải và quyền lực vốn thường là căn nguyên của những hành vi xấu xa đó. Ước gì ăn chay hãm mình và cầu nguyện mở tai chúng ta ra trước nỗi đau âm thầm của các trẻ nhỏ, của các trẻ vị thành niên và những người tàn tật. Ăn chay hãm mình khiến chúng ta đói khát công lí và thúc đẩy chúng ta vừa bước đi trên con đường sự thật vừa hỗ trợ mọi phương tiện pháp lí cần thiết. Ăn chay hãm mình giúp ta cởi bỏ con người mình, để chúng ta cùng với tất cả những người thiện chí và toàn thể xã hội dấn thân cho tình yêu và sự thật, để chống trả lại mọi thứ lạm dụng tình dục, quyền lực và lương tâm.
Bằng cách đó chúng ta có thể tạo trong sáng cho sứ mạng được trao phó, đó là trở thành „dấu chỉ và công cụ cho sự kết hợp sâu xa với Thiên Chúa cũng như với toàn thể nhân loại“ (Công Đồng Vaticano II., Hiến Chế Tín Lí Lumen gentium, 1).
Thánh Phao-lô nói: „Khi một chi thể đau, mọi chi thể khác cùng đau.“ Bằng thái độ cầu nguyện và ăn chay hãm mình, chúng ta có thể tạo được sự hài hoà cá nhân và cộng đoàn trước yêu sách phải làm sao cho ân sủng của lòng thương xót, của công lí, của sự phòng ngừa và của sự đền bù lớn lên giữa chúng ta. Mẹ Maria đã có thể đứng dưới chân thập giá của con mình. Mẹ đã không làm gì khác ngoài việc đứng thẳng và trực tiếp ngay bên. Với thái độ đó Mẹ cho ta thấy cách thức sống của Mẹ. Khi gặp thất vọng trước những vết thương của Giáo Hội, Mẹ Maria là điểm tốt cho chúng ta chạy đến, „cùng Mẹ bám sâu hơn vào lời cầu nguyện“ (I-nhã ở Loyola, Những Bài Linh Thao, 319), bằng cách cố gắng lớn lên trong tình yêu và lòng trung thành đối với Giáo Hội. Là người môn đệ đầu tiên, Mẹ dạy cho tất cả môn đệ chúng ta cách cư xử không cần phải tránh né và ngã lòng trước nỗi đau của những kẻ vô tội. Nhìn về Mẹ có nghĩa là học khám phá ra cách thức hành động và chỗ đứng của những môn đệ Chúa Ki-tô.
Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ơn hối cải và tăng cường sức mạnh nội tâm, để chúng ta có thể nói lên được sự thống hối của mình trước tội ác lạm dụng này và giúp chúng ta can đảm quyết tâm chống trả lại nó.
Từ Vatikan, ngày 20 tháng Tám 2018
Phan-sinh
 [1] »Loại này chỉ có cách cầu nguyện và ăn chay mới có thể tống nó ra được« (Mt 17,21).
[2] Xem Thư gởi Dân Chúa lữ hành ở Chí-lợi, 31. tháng Năm 2018.
© Libreria Editrice Vaticana

* Nhân biến cố lạm dụng tình dục ở Pensylvania, Hoa-kì.
Bản dịch của Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại.
Dịch theo bản tiếng Đức và tiếng Pháp.







 ***
Toàn văn thư của Đức Thánh Cha Phanxicô 

gởi toàn thể dân Chúa

J.B. Đặng Minh An dịch

Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa lên tiếng trước các báo cáo mới về lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ và việc che giấu những lạm dụng này của các vị có trách nhiệm trong Giáo Hội. Trong một lá thư đầy xúc động gửi đến toàn thể dân Chúa, ngài kêu gọi Giáo Hội gần gũi các nạn nhân trong tình liên đới, và hiệp nhất trong lời cầu nguyện và chay tịnh.

Dưới đây là toàn văn thư của Đức Thánh Cha Phanxicô.


“Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau” (1 Cor 12:26). Những lời này của Thánh Phaolô vang dội mạnh mẽ trong lòng tôi khi tôi thừa nhận một lần nữa sự đau khổ nhiều trẻ vị thành niên phải chịu đựng vì nạn lạm dụng tình dục, lạm dụng quyền lực và lạm dụng lương tâm gây ra bởi một số lượng đáng kể các giáo sĩ và những người thánh hiến. Những tội ác này gây ra những vết thương sâu sắc đau đớn và bất lực, chủ yếu nơi các nạn nhân, và cả nơi các thành viên trong gia đình của họ và trong cộng đồng lớn hơn những tín hữu và cả nơi những người không có niềm tin. Nhìn về quá khứ, không có nỗ lực nào cầu xin sự tha thứ và tìm cách sửa chữa những tổn hại có thể coi là đủ. Nhìn về tương lai, không một nỗ lực nào có thể bị lơ là hầu tạo ra một nền văn hóa có khả năng không chỉ chặn đứng những tình huống như vậy xảy ra mà thôi, nhưng còn phải ngăn chặn được khả năng bao che và để cho các tình huống như thế tiếp diễn. Nỗi đau của các nạn nhân và gia đình của họ cũng là nỗi đau của chúng ta, và do đó, điều khẩn cấp là chúng ta một lần nữa phải tái khẳng định cam kết bảo vệ các trẻ vị thành niên và những người lớn dễ bị tổn thương.

1. Nếu một bộ phận nào đau …

Trong những ngày gần đây, một báo cáo đã được công bố trình bày chi tiết những kinh nghiệm của ít nhất là một ngàn nạn nhân của lạm dụng tình dục, lạm dụng quyền lực và lương tâm dưới tay của các linh mục trong khoảng thời gian khoảng bảy mươi năm. Mặc dù có thể nói rằng hầu hết các trường hợp này xảy ra trong quá khứ, tuy nhiên theo dòng thời gian, chúng ta nhận ra nỗi đau của nhiều nạn nhân. Chúng ta nhận ra rằng những vết thương này không bao giờ biến mất và đòi hỏi chúng ta phải mạnh mẽ lên án những tội ác này và hiệp lực trong việc nhổ tận gốc cái nền văn hóa sự chết tạo ra những vết thương không bao giờ biến mất này. Nỗi đau đớn quặn lòng của những nạn nhân, những nỗi đau thấu đến trời cao, từ lâu đã bị phớt lờ, chìm trong im lặng hoặc bị buộc phải câm nín. Nhưng tiếng kêu kịch liệt của chúng mạnh mẽ hơn tất cả các biện pháp nhằm làm câm nín, hoặc thậm chí tìm cách giải quyết chúng bằng các quyết định khiến tình hình trở nên trầm trọng hơn và phức tạp hơn. Chúa nghe tiếng kêu đó và một lần nữa cho chúng ta thấy Ngài đứng về phía nào. Bài ca [“Ngợi Khen” (Magnificat)] của Đức Maria không bị sai lạc và tiếp tục lặng lẽ vang vọng trong suốt lịch sử. Chúa luôn nhớ lại lời hứa mà Ngài đã làm cho tổ phụ chúng ta: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” (Lc 1: 51-53). Chúng ta cảm thấy xấu hổ khi chúng ta nhận ra rằng phong cách sống của chúng ta đã phủ nhận, và tiếp tục phủ nhận, những lời chúng ta đọc thuộc lòng.

Với sự xấu hổ và ăn năn, chúng ta thừa nhận trong tư cách một cộng đồng giáo hội rằng chúng ta đã không đứng nơi chúng ta lẽ ra nên đứng, rằng chúng ta đã không hành động kịp thời, đã không nhận ra tầm quan trọng và trọng lực của những thiệt hại gây ra cho rất nhiều cuộc sống. Chúng ta không tỏ ra quan tâm đến những người nhỏ bé; chúng ta đã bỏ rơi họ. Tôi xin lấy lại lời của Đức Hồng Y Ratzinger vào lúc đó, trong Đàng Thánh Giá Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh 2005, khi ngài chỉ ra với tiếng kêu đau đớn của nhiều nạn nhân và thốt lên rằng: “Bao nhiêu những dơ bẩn trong Giáo Hội và ngay cả nơi những người trong thiên chức linh mục, lẽ ra phải hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô! Bao nhiêu sự kiêu căng, bao nhiêu điều tự phụ! Bao nhiêu những phản bội lại Chúa Kitô bởi chính những môn đệ Người, bao nhiêu người đón nhận Mình Máu Thánh Chúa bất xứng, chắc chắn là sự đau khổ cực độ nhất mà Đấng Cứu Chuộc phải chịu; nó đâm thấu trái tim Người. Chúng ta chỉ có thể kêu cầu đến người từ đáy lòng của chúng ta: Kyrie eleison- Lạy Chúa xin thương xót chúng con (x Mt 8: 25)” (Chặng thứ Chín)

2.… mọi bộ phận cùng đau

Mức độ và trọng lực của tất cả những gì đã xảy ra đòi buộc chúng ta phải chung vai nắm bắt thực tế này một cách toàn diện. Trong mọi hành trình hoán cải, điều quan trọng và cần thiết là phải dám thừa nhận sự thật về những gì đã xảy ra, nhưng bản thân điều này thôi thì chưa đủ. Hôm nay, chúng ta, trong tư cách là Dân Thiên Chúa, bị thách thức phải trực diện với nỗi đau của các anh chị em chúng ta bị thương tổn trong thân xác và tinh thần. Nếu, trong quá khứ, phản ứng của chúng ta là lờ đi, thì hôm nay chúng ta muốn liên đới với họ, theo nghĩa sâu sắc nhất và thách đố nhất, và điều đó phải trở thành cách thế chúng ta hình thành nên lịch sử hiện tại và tương lai; cũng như hình thành nên một môi trường mà giữa các xung đột, và căng thẳng, trên tất cả mọi thứ, các nạn nhân của mọi loại lạm dụng đều có thể gặp được một bàn tay dang rộng để bảo vệ và cứu vớt họ ra khỏi nỗi đau của mình (xem Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 228). Tình liên đới như thế đòi hỏi chúng ta đến lượt mình phải lên án bất cứ điều gì gây nguy hiểm cho sự toàn vẹn của bất kỳ người nào. Đó là một tình liên đới đòi buộc chúng ta phải chống lại tất cả các hình thức băng hoại, đặc biệt là băng hoại về tinh thần. Thứ đến là “một dạng mù lòa ung dung và tự mãn khiến người ta có thể chấp nhận được mọi thứ: dối trá, vu khống, tự ái và các hình thức tinh tế khác của việc coi mình là trung tâm, vì ‘ngay cả Satan cũng có thể đội lốt thiên thần sáng láng’ (2 Cor 11:14) “(Gaudete et Exsultate – Tông Huấn Mừng Rỡ Hân Hoan, 165). Sự khích lệ chịu đựng đau khổ của Thánh Phaolô dành cho những người khổ đau là thuốc giải độc tốt nhất chống lại mọi nỗ lực của chúng ta lặp lại những lời của Cain: “Con là người giữ em con hay sao?” (Sáng Thế Ký 4: 9).

Tôi biết có những nỗ lực và công việc đang được thực hiện ở nhiều nơi trên thế giới để tìm ra những phương tiện cần thiết hầu bảo đảm sự an toàn và bảo vệ sự toàn vẹn của trẻ em và những người lớn dễ bị tổn thương, cũng như việc thực thi chính sách không khoan dung và những cách thế khiến cho tất cả những ai gây ra hoặc che đậy những tội ác này phải chịu trách nhiệm. Chúng ta đã trì hoãn việc áp dụng những hành động và những biện pháp trừng phạt rất cần thiết này, nhưng tôi vẫn tin rằng chúng sẽ giúp bảo đảm một nền văn hóa chăm sóc lớn hơn trong hiện tại và tương lai.

Cùng với những nỗ lực này, mỗi người đã được rửa tội nên cảm thấy phải dự phần vào những thay đổi trong Giáo Hội và xã hội mà chúng ta rất cần đến. Sự thay đổi này đòi hỏi một sự hoán cải cá nhân và cộng đồng khiến chúng ta có thể nhìn sự việc như Chúa nhìn. Như thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường nói: “Nếu chúng ta thực sự bắt đầu lại từ việc chiêm ngắm Chúa Kitô, chúng ta phải học cách nhìn thấy Ngài cách riêng nơi khuôn mặt của những người mà Ngài muốn đồng hóa với họ” (Tông thư Novo Millennio Ineunte – Khởi đầu ngàn năm mới, 49). Để nhìn sự việc như Chúa nhìn, để đứng nơi Chúa muốn chúng ta đứng, để trải nghiệm sự hoán cải con tim trong sự hiện diện của Ngài chúng ta cần cầu nguyện và sám hối. Tôi mời gọi toàn thể Dân Thánh Chúa thi hành việc cầu nguyện và chay tịnh sám hối, theo mệnh lệnh của Chúa. [1] Điều này có thể đánh thức lương tâm của chúng ta và khơi dậy tình liên đới và sự dấn thân cho một nền văn hóa chăm sóc nói “không bao giờ nữa” đối với mọi hình thức lạm dụng.

Không thể nghĩ đến việc hoán cải các hoạt động của chúng ta nếu Giáo hội không bao gồm sự tham gia tích cực của tất cả các thành viên trong cộng đoàn dân Chúa. Thật vậy, bất cứ khi nào chúng ta cố gắng thay thế, hoặc làm im tiếng, hoặc xem nhẹ, hoặc giản lược dân Thiên Chúa vào những nhóm nhỏ những người ưu tú, chúng ta chung cuộc sẽ tạo ra những cộng đồng, những dự án, những phương pháp thần học, những linh đạo và cấu trúc không có gốc rễ, không có trí nhớ, không có khuôn mặt và cuối cùng, không có cuộc sống. [2] Điều này được nhìn thấy rõ ràng cách riêng nơi sự hiểu biết về quyền bính của Giáo hội, là một điểm chung trong nhiều cộng đồng nơi lạm dụng tình dục và lạm dụng quyền lực và lương tâm đã xảy ra. Đó là trường hợp của chủ nghĩa giáo sĩ, một cách tiếp cận “không chỉ vô hiệu hóa tính cách các Kitô hữu, mà còn có xu hướng giảm bớt và đánh giá thấp hồng ân phép rửa tội mà Thánh Linh đã đặt trong lòng dân chúng ta”. [3] Chủ nghĩa giáo sĩ, cho dù được nuôi dưỡng bởi chính các linh mục hoặc bởi những người giáo dân, đều dẫn đến một sự cắt bỏ trong cơ thể giáo hội. Nó hỗ trợ và giúp duy trì nhiều tệ nạn mà chúng ta đang lên án ngày nay. Nói “không” với lạm dụng là một lời nhấn mạnh tiếng “không” với tất cả các hình thức của chủ nghĩa giáo sĩ.

Luôn luôn hữu ích khi nhớ rằng “trong lịch sử cứu độ, Chúa đã cứu độ cả một dân tộc. Chúng ta không bao giờ hoàn toàn là chính mình trừ khi chúng ta thuộc về một dân tộc. Đó là lý do tại sao không ai được cứu một mình, như một cá nhân cô lập. Trái lại, Thiên Chúa lôi kéo chúng ta đến với Ngài, trong khi tính đến cả cơ cấu phức tạp các mối liên hệ giữa các cá nhân trong cộng đồng nhân loại. Thiên Chúa muốn bước vào đời sống và lịch sử của một dân tộc.” (Gaudete et Exsultate – Tông Huấn Mừng Rỡ Hân Hoan, 6). Do đó, cách duy nhất mà chúng ta đối phó với cái ác đã làm tối tăm nhiều kiếp sống là cảm thấy điều này như một nhiệm vụ liên quan đến tất cả chúng ta như là Dân Thiên Chúa. Ý thức mình là một phần của một dân tộc và một lịch sử chung sẽ cho phép chúng ta thừa nhận những tội lỗi và sai lầm trong quá khứ của chúng ta với một sự cởi mở thống hối có thể cho phép chúng ta được đổi mới từ bên trong. Nếu không có sự tham gia tích cực của tất cả các tín hữu trong Giáo Hội, mọi thứ được thực hiện để nhổ bỏ văn hóa lạm dụng trong cộng đồng của chúng ta sẽ không thành công trong việc tạo ra các động lực cần thiết cho sự thay đổi tốt đẹp và thực tiễn. Chiều kích thống hối của chay tịnh và cầu nguyện sẽ giúp chúng ta trong tư cách dân Chúa đến trước mặt Ngài và trước mặt những anh chị em bị thương tổn của chúng ta như những tội nhân cầu xin sự tha thứ và ân sủng biết xấu hổ và hoán cải. Bằng cách này, chúng ta sẽ đưa ra những hành động có thể tạo ra các nguồn lực hài hòa với Tin Mừng. Vì “mỗi khi chúng ta cố gắng trở về nguồn và khôi phục lại sự tươi mới của Tin Mừng, những đại lộ mới sẽ xuất hiện, những con đường sáng tạo mới sẽ mở ra, với những hình thức biểu hiện khác nhau, những dấu chỉ và từ ngữ phong phú mang theo ý nghĩa mới cho thế giới hôm nay.” (Evangelii Gaudium – Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 11).

Điều quan trọng là chúng ta, trong tư cách là một Giáo hội, có khả năng thừa nhận và lên án, với nỗi buồn và sự xấu hổ, những tội ác gây ra bởi những người thánh hiến, các giáo sĩ, và tất cả những người được giao nhiệm vụ chăm nom cho những người dễ bị tổn thương nhất. Chúng ta hãy cầu xin sự tha thứ vì những tội lỗi của chính chúng ta và những tội lỗi của người khác. Ý thức về tội lỗi giúp chúng ta thừa nhận lỗi lầm, tội ác và những vết thương gây ra trong quá khứ và cho phép chúng ta, trong hiện tại, cởi mở hơn và dấn thân hơn dọc theo một hành trình hoán cải mới.

Cũng thế, sám hối và cầu nguyện sẽ giúp chúng ta mở mắt và trái tim chúng ta ra trước những đau khổ của người khác và vượt qua được lòng khao khát quyền lực và tài sản thường là gốc rễ của những tệ nạn đó. Xin cho chay tịnh và cầu nguyện mở tai chúng ta ra trước những đau đớn không nói thành lời của những trẻ em, người trẻ và những người tàn tật. Chay tịnh có thể giúp chúng ta đói khát công lý và thúc đẩy chúng ta tiến bước trong sự thật, trong khi hỗ trợ tất cả các biện pháp tư pháp có thể là cần thiết. Chay tịnh khiến chúng ta tỉnh táo và dẫn dắt chúng ta đến với những dấn thân trong sự thật và bác ái với tất cả những người nam nữ thiện chí, và với xã hội nói chung, để chống lại mọi hình thức lạm dụng quyền lực, lạm dụng tình dục và lạm dụng lương tâm.

Như thế, chúng ta có thể cho thấy rõ ràng ơn gọi của chúng ta trở nên “một dấu chỉ và một công cụ cho sự hiệp thông với Thiên Chúa và sự hiệp nhất với toàn bộ nhân loại” (Lumen Gentium – Hiến Chế Tín Lý Ánh Sáng Muôn Dân, 1).

“Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau”, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói. Bằng thái độ cầu nguyện và sám hối, chúng ta sẽ trở nên hài hòa trong tư cách cá nhân và cộng đồng với lời khích lệ này, để chúng ta có thể lớn lên trong ân sủng bác ái, trong công lý, trong sự phòng ngừa và sửa chữa. Đức Maria đã chọn đứng dưới chân thập tự giá của con Mẹ. Mẹ đã làm như thế một cách không ngần ngại, đứng vững bên cạnh Chúa Giêsu. Bằng cách đó, Mẹ cho chúng ta thấy cách Mẹ sống cả cuộc đời mình. Khi chúng ta cảm nghiệm sự tàn phá gây ra bởi những vết thương này trong giáo hội, chúng ta sẽ cùng với Đức Maria, “nhiệt thành hơn trong lời cầu nguyện”, tìm cách lớn lên trong tình yêu và lòng trung thành với Giáo Hội (Thánh I Nhã, Linh Thao, 319 ). Mẹ, người thứ nhất trong hàng môn đệ, dạy dỗ tất cả chúng ta như các môn đệ của Chúa cách thức dừng lại trước những đau khổ của người vô tội, không bào chữa hay hèn nhát. Nhìn lên Đức Maria là khám phá gương mẫu của một môn đệ chân thật của Chúa Kitô.

Xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ân sủng hoán cải cần thiết và xức dầu nội tâm chúng ta ngõ hầu đứng trước những tội ác lạm dụng này, chúng ta có thể thể hiện cảm thức hối lỗi của mình và quyết tâm can đảm chống lại chúng.

+ Đức Thánh Cha Phanxicô

Vatican, 20 Tháng 8, 2018

[1] “Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt 17:21).
[2] x. Thư gởi dân Chúa tại Chí Lợi (31 Tháng Năm 2018).
[3] Thư gởi Đức Hồng Y Marc Ouellet, Chủ Tịch Hội Đồng Toà Thánh về Mỹ Châu La Tinh (19 Tháng Ba 2016).


Source: Libreria Editrice Vaticana LETTER OF HIS HOLINESS POPE FRANCIS TO THE PEOPLE OF GOD

***



Bản phúc trình về lạm dụng trẻ vị thành niên ở Hoa-kì

Toàn văn bản phúc trình tiếng Anh dài 884 trang, do một Bồi Thẩm Đoàn gồm 23 người lập. Sau đây là phần trích một số đoạn quan trọng nhất. Bản phúc trình đã được phổ biến rộng rãi. Pensylvania ở khắp mọi nơi.

Trong buổi trình bày bản phúc trình

„Yêu Cầu Quý Vị Hãy Nghe Chúng Tôi Nói!“

Chúng tôi, những thành viên của Bồi Thẩm Đoàn (Grand Jury), yêu cầu quý vị hãy lắng nghe chúng tôi. Chúng tôi biết, một số trong quý vị đã nghe được ít nhiều rồi. Đã có nhiều bản thẩm định về việc lạm dụng tình dục trong Giáo Hội công giáo đối với trẻ vị thành niên. Nhưng chưa bao giờ ở mức độ như thế này. Nhiều người trong chúng tôi đã tin rằng, những chuyện như thế này hẳn đã xẩy ra ở đâu đó rất xa. Nhưng giờ đây chúng tôi biết được sự thật, là chúng đã xẩy ra khắp mọi nơi.
Chúng tôi lãnh nhiệm vụ khảo sát việc lạm dụng trẻ em trong sáu giáo phận thuộc bang Pensylvania, hai giáo phận còn lại khác đã được điều tra xong trước đây rồi. Chúng tôi đã nghe lời khai của hàng tá người chứng về việc lạm dụng tình dục trẻ em do giáo sĩ gây ra. Chúng tôi đã kiểm tra nửa triệu trang tài liệu nội bộ của các giáo phận. Chúng chứa đựng những tố cáo đáng cậy đối với hơn ba trăm linh mục thủ phạm. Qua các tư liệu này chúng tôi đã xác định được hơn một ngàn nạn nhân. Chúng tôi tin rằng, con số thật các trẻ em nạn nhân – hoặc vì sợ không bao giờ dám lên tiếng hoặc vì hồ sơ đã thất lạc – lên đến nhiều ngàn người.
Đa số các nạn nhân là các cháu trai, nhưng cũng có các cháu gái nữa. Một số ở độ tuổi thiếu niên (teenager), nhiều cháu trẻ hơn. Một số bị lợi dụng bằng bia rượu và hình ảnh khiêu dâm. Có những em phải kích dâm cho kẻ làm hại mình. Một số bị cưỡng dâm đường miệng, một số qua đường sinh dục, một số qua hậu môn. Tất cả các tội ác đều được bôi xoá, bị xem thường bởi các lãnh đạo giáo hội trên toàn tiểu bang, những vị này đã đặt việc bảo vệ những thủ phạn lạm dụng và bảo vệ định chế lên hàng ưu tiên.
Hậu quả của của các nỗ lực che đậy là gần như hầu hết các trường hợp mà chúng tôi khám phá đều đã quá thời hạn, để có thể mang ra toà án luận tội. Điều này không có nghĩa là không còn thủ phạm nào nữa. Bồi Thẩm Đoàn này đã đưa đơn khởi tố đối với một linh mục thuộc giáo phận Greesburg và một linh mục thuộc giáo phận Erie, về những hành vi lạm dụng tình dục trẻ em của họ trong vòng mười năm trở lại đây. Chúng tôi biết được là qua thông tin của các giáo phận – một chỉ dấu cho chúng ta hi vọng, là Giáo Hội sẽ có cơ thay đổi.
Dù vậy chúng tôi không hài lòng về mấy vụ khởi tố ít ỏi này. Chúng tôi thất vọng, vì quá nhiều hành vi phạm pháp đã thoát lưới án phạt và không phải bồi thường. Bản tường trình này là vũ khí duy nhất của chúng tôi. Chúng tôi nêu ra danh tính và hành vi - của kẻ lạm dụng lẫn kẻ bao che. Chúng tôi đưa ra ánh sáng những tội ác của họ, bởi vì dó là điều chúng tôi mắc nợ các nạn nhân. Và chúng tôi nêu lên những đề nghị sửa đổi luật, để cho trong tương lai chẳng cần phải viết ra những bản thẩm định như thế này nữa.

Trong phần đầu của bản tường trình chúng tôi soi sáng từng giáo phận một qua nhiều nố nghiên cứu trường hợp cụ thể, chúng mô tả việc lạm dụng cũng như cách thức đối phó của các lãnh đạo giáo phận. Dù mỗi giáo phận có những nét riêng, nhưng khuôn thước hành động thì vẫn y như nhau: Người ta chẳng đoái hoài gì tới các cháu, mà chỉ lo tránh „chuyện tai tiếng“. Từ ngữ này không phải của chúng tôi, mà của họ; nó xuất hiện đi xuất hiện lại trong các hồ sơ. Các khiếu nại về lạm dụng đều được dấu cất vào trong các „hồ sơ mật“. Đây cũng là từ ngữ của họ, chứ không phải của chúng tôi; Giáo Luật (Codex Iuris Canonici) buộc các giáo phận phải lập những hồ sơ mật như thế và chỉ giám mục giáo phận mới có quyền mở hồ sơ này.

Trong các hồ sơ người ta đã sử dụng những thủ thuật che đậy, khiến chúng tôi đã phải nhờ tới sự trợ giúp cùa Federal Bureau of Investigation. Do đó cơ quan FBI đã gởi các chuyên viên thuộc Center for the Analysis of Violent Crime của họ tới giúp thẩm tra đa phần tài liệu thu thập. Các chuyên viên điều tra đã nhận ra một loạt những phương thức được lập đi lập lại trong các hồ sơ giáo phận. Chúng trở thành như một luật chung để che đậy sự thật.
Trước hết, hãy dùng uyển ngữ (lối nói trại) trong việc mô tả các vụ xâm phạm tình dục. Chớ bao giờ dùng từ „cưỡng hành, cưỡng dâm“, mà nên dùng „giao tiếp không thích hợp“ hay „vượt qua giới hạn“.
Thứ hai, chớ để cho những người chuyên môn điều tra, mà uỷ cho các thành viên trong hàng giáo sĩ làm; họ sẽ đánh giá mức độ tin cậy của những đồng nghiệp mà họ cùng sống và cùng làm việc.
Thứ ba, để giữ vẻ tính cách độc lập, hãy gởi các linh mục tới các trung tâm chữa trị tâm thần của Giáo Hội để „điều tra“. Hãy để các trung tâm đó xét xem, linh mục này có bị chứng loạn dục trẻ em (pädophil) hay không, tất cả chủ yếu dựa trên „lời tự khai“ của đương sự, chứ không đá động gì tới việc đương sự đã có lạm dụng tình dục hay không.
Thứ tư, khi một linh mục phải thuyên chuyển, đừng giải thích tại sao. Hãy nói cho cộng đoàn hay, là ông „bị đau“ hay „suy sụp thần kình“. Hoặc chẳng nói gì cả.
Thứ năm, nếu một linh mục có cưỡng hành trẻ thật, cứ tiếp tục trả tiền nhà và tiền sinh sống cho đương sự, cho dù dương sự có thể lợi dụng điều đó, để cưỡng dục tiếp.
Thứ sáu, khi một thủ phạm bị bại lộ, đừng cất chức linh mục của đương sự, để cho đương sự khỏi làm hại các trẻ em khác. Thay vào đó hãy thuyên chuyển đương sự tới một nơi chưa ai biết tẩy của ông ấy.
Cuối cùng, đừng thông báo cho cảnh sát. Lạm dụng tình dục trẻ em trước sau vẫn là một tội ác. Nhưng đừng đối xử nó như một tội ác. Hãy coi nó như một vấn đề nhân sự „trong nhà“.

Một vài thí dụ: Trong giáo phận Erie, khi một linh mục thú nhận là đã xâm phạm hơn một chục trẻ em nam, ông được giám mục „cám ơn về tất cả những gì Cha đã làm cho dân Chúa… Chúa sẽ trả công bội hậu cho Cha“. Một linh mục khác thú nhận, đã cưỡng dâm đường miệng và hậu môn đối với ít nhất là 15 trẻ, em nhỏ nhất mới bảy tuổi. Giám mục về sau gọi đương sự là một „con người bộc trực và trong sáng“, ngoài ra còn khen ông đã có „những tiến bộ“ trong việc chế ngự „cơn nghiện“ của mình. Khi linh mục đó rốt cuộc bị treo chén, giám mục nhắc nhở cộng đoàn đừng nói gì tới các lí do gì cả.
Trong giáo phận Greensburg một linh mục làm một thiếu nữ 17 tuổi mang thai; ông này đã giả mạo chữ kí của linh mục chính sở trên tờ hôn thú, để sau đó vài tháng tiến hành li hôn với cô gái. Dù vậy, ông vẫn được tiếp tục công việc coi xứ - giáo phận đã nhờ được một giám mục giáo phận trong bang khác thương tình nhận ông.
Cả giáo phận Scranton cũng coi trọng việc bảo vệ thủ phạm hơn là bảo vệ các em. Một linh mục triều đã bị bắt và bị kết án, sau khi giáo phận đã làm ngơ trước những cáo buộc lạm dụng của đương sự trong nhiều chục năm trời. Khi bản án sắp sửa ra, giám mục giáo phận liền viết thư cho ông chánh án, xin ông này chuyển bị cáo tới một trung tâm chữa trị công giáo. Giám mục nhấn mạnh tới phí tổn của việc giam giữ. Một trường hợp khác, sau khi đã làm cho một thiếu nữ mang thai, vị linh mục liên hệ đã tổ chức việc phá thai cho cô. Giám mục viết thư nói lên sự đồng cảm của mình: „Đây là một giai đoạn khó khăn trong đời Cha, và tôi hiểu nỗi thất vọng của Cha. Tôi cũng chia sẻ nỗi đau của Cha.“Tiếc rằng lá thư đã không được gởi cho cô gái, mà lại gởi cho kẻ làm hại cô.

Chúng tôi biết rằng, đa phần các trường hợp đề cập trong bản phúc trình này đã xẩy ra trước năm 2000. Các tài liệu đã được giữ kín quá lâu. Sở dĩ lúc này chúng mới được khui ra, là nhờ có Bồi Thẩm Đoàn này. Nhưng cái kết quả mang tầm lịch sử này quan trọng cho hiện tại và tương lai. Hàng ngàn nạn nhân trẻ em bị lạm dụng trong Giáo Hội cần phải được nêu lên, để họ có thể tiếp tục sống. Người dân cũng cần phải biết tới, để họ cùng đóng góp vào nỗ lực cải tiến tình trạng luật pháp.
Chúng tôi công nhận, là đã có nhiều đổi thay trong 15 năm qua. Các giáo phận có liên quan trong việc điều tra có thông tin cho chúng tôi biết về những cải tiến về mặt áp dụng luật của họ. Năm giám mục đã viết thư cho chúng tôi trình bày quan diểm của họ. Giám mục giáo phận Erie trực tiếp gặp chúng tôi. Lời phát biểu của ông thẳng thắn và thành thật, nó gây ấn tượng nơi chúng tôi. Xem ra Giáo Hội từ nay sẽ nhanh tay hơn trong việc thực thi biện pháp đối với lạm dụng. Những biện pháp kiểm soát nội bộ đã được thiết lập. Các nạn nhân không còn chỉ là những hình bóng hoàn toàn mơ hồ nữa.
Nhưng chúng tôi biết, nạn lạm dụng trẻ em trong Giáo Hội không biến mất, là vì hai trường hợp mà chúng tôi đem ra tòa trong hai giáo phận khác nhau còn nằm trong thời hạn hiệu lực để khởi tố. Chúng tôi cũng biết, có thể có những nạn nhân khác nữa, nhưng họ chưa dám thông báo cho cảnh sát. Qua tiếp xúc với các nạn nhân, chúng tôi biết được rằng, để có can đảm nói ra, cần phải có thời gian. Chúng tôi hi vọng bản phúc trình của chúng tôi sẽ khiến cho họ mạnh dạn thêm.
Dù đã có những cải tiến định chế, các thành phần lãnh đạo Giáo Hội vẫn tránh né trách nhiệm công của mình. Các linh mục cưỡng dâm thiếu niên nam nữ, nhưng những người có trách nhiệm vẫn chẳng làm gì cả. Họ dấu tiệt mọi chuyện. Các đức ông, các giám mục phụ tá, các giám mục chính tòa, các tổng giám mục, các giáo trụ (hồng y) tất cả đều được bảo vệ. Nhiều người còn được thăng chức. Nếu những điều này chưa thay đổi, thì còn quá sớm, để có thể gấp lại cuốn sách về các lạm dụng tình dục trong Giáo Hội công giáo.

Chúng tôi không biết có nên nói chuyện này không, nhưng chúng tôi vẫn nói: Những điều tra này không phải là sự tấn công vào đức tin công giáo. Nhiều người trong nhóm bồi thẩm chúng tôi là người đang sống đạo công giáo. Nhiều người chúng tôi thẩm vấn, nạn nhân lẫn người chứng, là công giáo. Chúng tôi coi mình không phải là phe đối lập với đức tin, nhưng cảm thấy mình gắn bó với những kẻ tin. Lạm dụng trẻ em không những là bất hợp pháp, mà nó còn đi ngược với tuyên tín của mọi tôn giáo lớn, trong đó có đạo Công Giáo. Tín hữu của mọi tôn giáo và những người không có đức tin đều muốn cho con em mình được sống trong an ninh.
Thành viên của Bồi Thẩm Đoàn là những người dân thường được chọn ra một cách ngẫu nhiên cho công tác điều tra. Chúng tôi nhận được ít lương, nhưng phải làm việc nhiều, và công việc của chúng tôi rất đau lòng. Tuy nhiên, công tác này đáng làm, vì chúng tôi đang thực thi công lí. Chúng tôi đã mất 24 tháng, để mang ra ánh sáng những điều khuất tất – để cuối cùng nhận ra rằng, luật pháp bảo vệ hầu hết các thủ phạm, còn nạn nhân thì chẳng được bảo vệ gì hết. Những luật lệ như thế phải được sửa đổi.
Trước hết; Chúng tôi đòi hỏi các nhà làm luật đừng chần chờ thêm nữa trong việc bảo vệ các thủ phạm lạm dụng qua việc giới hạn mức thời tiêu. Với một luật mới, các nạn nhân ở Pensylvania giờ đây có thể tố cáo người làm hại mình cho tới lúc họ 50 tuổi. Nhưng điều này không đủ. Phải bỏ luôn mọi giới hạn thời tiêu. Chúng tôi đã thẩm vấn các nạn nhân ở lứa tuổi 50, 60, 70, một người trong họ đã 83 tuổi. Chúng tôi muốn cho các nạn nhân trong tương lai hiểu rằng, quyền lực luật pháp đứng sau lưng họ, bao lâu họ còn sống. Chúng tôi muốn các thủ phạm làm hại trẻ em trong tương lai hiểu rằng, bao lâu còn sống, họ vẫn có thể bị tòa án kêu mời.
Thứ hai; Chúng tôi đòi hỏi phải có một khả thể cho phép nạn nhân có thể kiện giáo phận, để yêu cầu bồi thường cho những thiệt hại mà họ phải chịu trong thời niên thiếu. Chúng tôi đã làm quen với những nạn nhân này, cuộc đời họ không còn lành lặn. Nhiều người trong họ đâm ra nghiện ngập, không tìm được người phối ngẫu, chết sớm.
Thứ ba: Chúng tôi muốn có một luật buộc tố cáo khác. Qua hồ sơ các giáo phận, chúng tôi hiểu ra, là các nhân viên trong Giáo Hội luôn nại rằng, họ không bị buộc phải báo cáo các vụ lạm dụng trong cộng đoàn của họ cho cơ quan công quyền. Phải làm cho họ hiểu rằng, họ có nhiệm vụ phải báo cáo, bao lâu vẫn còn nguy cơ một trẻ khác có thể sẽ bị chính thủ phạm này xúc phạm.
Thành thật mà nói: Điều đó đối với chúng tôi vẫn chưa đủ. Chúng tôi không những đòi hỏi hình phạt đối với việc lạm dụng. Chúng tôi còn nhất quyết muốn Giáo Hội công giáo, một trong những cộng đoàn đức tin lớn nhất và là định chế có nhiệm vụ chăm lo hạnh phúc cho hơn một tỉ người trên thế giới, phải tổ chức làm sao, để kẻ chăn chiên không còn tìm cách săn bắt chiên mình nữa.
Nhiều linh mục có nêu tên trong phúc trình này đã mất. Dù vậy, chúng tôi vẫn nêu tên, bởi vì chúng tôi đoán rằng, nhiều nạn nhân của họ hãy còn sống – kể cả những nạn nhân có lẽ tưởng mình là kẻ duy nhất bị hại. Để họ biết rằng, không phải chỉ có mình họ. Không phải là lỗi của họ.

Sau cùng, chúng tôi phải nói thêm điều này. Trong khi chúng tôi hoàn thành bản phúc trình, đã có một nạn nhân, mà chúng tôi đã thẩn vấn, tự tử. Nơi giường bệnh viện, người này van xin chúng tôi một điều, là hãy cố làm cho xong phúc trình, để cho thế giới biết những gì đã thật sự xẩy ra. Chúng tôi tin rằng, chúng tôi nợ người phụ nữ này một điều gì đó. Và nợ cả những người khác, những người đã phải đau đớn giải bày quá khứ nặng nề của họ cho chúng tôi nghe. Chúng tôi hi vọng, bản phúc trình này sẽ trả cho họ điều mà chúng tôi mắc nợ họ.

P. Hồng-Lam dịch theo bản tiếng Đức, do Evelyn Finger chuyển từ Anh ngữ ra Đức ngữ. Die Zeit, số 35, ngày 23.08.2018