SINH
HOẠT VĂN HỌC
NGHỆ
THUẬT
*****
Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris (CLBVHVNP)
Chủ
nhật ngày 18-09-2016, Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris
(CLBVHVN) đã tổ chức một buổi Sinh
Hoạt Văn Học Nghệ Thuật
với mục đích ra mắt Tuyển tập 1 “Những Khuôn Mặt
Văn Hóa Việt Nam Paris”và chương trình Nhạc Thính Phòng
mang chủ đề “Quê Hương” nhằm tưởng niệm những
nhạc sĩ có những nhạc phẩm vang bóng một thời, những
nhạc sĩ này đã từng sinh hoạt trong CLBVHVN Paris...
Chương
trình bắt đầu vào lúc 14 giờ với lễ chào quốc kỳ
và một phút mặc niệm do KS Lê Minh Triết điều hành.
Trưởng và phó ban tổ chức là nhà thơ Đỗ Bình và nhà
văn hóa, dịch giả Phượng Anh Nguyễn Quý Toàn nói vài
lời cảm tạ quan khách và các hội đoàn bằng hữu. Mở
đầu phần văn học là tác giả và tác phẩm.
Đây là những phát biểu của một số tác giả về thông
điệp suy tư về văn hóa Việt Nam hải ngoại: KS Kim Thu
trình bày vài nét về BS Nguyễn Bá Hậu, nhà thơ Phương
Du. Ông sinh năm 1923 tại làng Phương Canh, tỉnh Hà Đông,
tốt nghiệp y khoa bác sĩ năm 1951, là một trong những hội
viên của Ba Lê Thi Xã, ông đã cho xuất bản nhiều thi
tập, CD thi nhạc và nhạc Thánh Ca. Hôm nay ông có đôi
lời nhắn gửi cùng các bạn trẻ: “Chúng
ta những người Việt ở hải ngoại, dù mang thân phận
tha hương nhưng vẫn thiết tha đến nền văn hóa dân tộc.
Với dòng thời gian nhiều người nay đã ra đi, ít người
còn sống thì trở nên già yếu. Trong khi đó, ở quê nhà,
chính quyền Cộng sản vẫn còn cấm đoán, chưa thực
lòng tìm hiểu, phục hồi những tinh hoa của nền văn hóa
xưa do ông cha để lại. Do đó những bạn trẻ ở hải
ngoại nên cố gắng thi hành những điều sau đây: 1 / Bảo
tồn và vun bồi nền văn hóa nước nhà. 2 / Mở mang dân
trí, nâng cao óc suy luận của đồng bào bằng đủ mọi
cách như phê bình, chỉ trích, tố cáo những hành vi thất
đức để tránh bị lường gạt bởi sự tuyên truyền
xảo trá của Việt Cộng. Nếu ta không lên tiếng, mọi
người tưởng rằng ta đồng ý, phương ngôn Tây Phương
đã nói: “Im lặng là đồng ý”. 3 / Đặc biệt những
thanh niên sinh trưởng ở hải ngoại nên gắng trau dồi
tiếng Việt để khi nào Việt Nam thật sự có tự do dân
chủ sẽ về nước tham gia vào công việc kiến thiết xứ
sở”.
Tiếp
theo, KS Lê Minh Triết giới thiệu LS Trần Thanh Hiệp. LS
Trần Thanh Hiệp sinh năm 1927 tại Hà Tĩnh, Trung phần. Cựu
luật sư Tòa Thượng Thẩm Sài-Gòn và Tòa Thượng Thẩm
Paris. Ông nguyên là Tổng thư ký Việt Nam Văn Bút (thời
VNCH), Cựu chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và là
sáng lập viên của Nhóm Sáng Tạo gồm có Mai Thảo, Thanh
Tâm Tuyền. LS Trần Thanh Hiệp giải thích thêm về bài
viết của mình đăng trong tuyển tập Những
Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris:
“Mẫu
người luật sư lý tưởng dựa trên truyền thống của
những luật sư người Việt đã hành nghề trên đất
Việt từ thời Pháp thuộc cho đến hai nền Cộng Hòa của
miền Nam Việt Nam. Truyền thống mà tôi đã đút kết nhờ
vào di sản tinh thần nghiệp vụ và kinh nghiệm hành nghề
của chính mình. Tại sao tôi viết? Tôi viết là để tóm
lược lại những câu chuyện tôi đã trình bày với thành
tâm là muốn nước nhà khi họ muốn đi vào con đường
dân chủ văn hóa văn minh, phải có một luật sư đoàn
tượng trưng cho Quyền
Bào Chữa.
Quyền Bào Chữa là quyền bênh vực bảo vệ những người
bị áp bức, là bảo vệ bất công, nghĩa là xây dựng
công lý trong xã hội vì rằng một xã hội gọi là văn
minh thì không thể nào không có công lý mà luật sư từ
trên cương vị cá nhân cũng như trên cương vị tập thể
là những người góp sức vào việc tạo dựng công lý
cho xã hội…”.
GSTS
Phan Thị Hải trình bày vài nét về GSTS Lê Mộng Nguyên:
GSTS Lê Mộng Nguyên sinh năm 1930 tại Phú Xuân (Huế),
GS-Tiến Sĩ Quốc Gia, Lauréat de l'Université Paris 1 Panthéon
Sorbonne (1er prix de Thèse d’État) với ba bằng Cao học
Droit public, Science politique & Droit privé (avocat à la Cour
de Paris). GSTS Lê Mộng Nguyên được bầu làm Viện Sĩ
(membre titulaire) Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại của
Pháp năm 1997, và là tác giả của ca khúc vang bóng một
thời Trăng
Mờ Bên Suối. GSTS
Lê Mộng Nguyên phát biểu: “VĂN
HÓA LÀ GÌ? Văn
hóa của một nước có thể định nghĩa là tất cả
những hình thức đuợc hấp thụ về cư xử của những
người dân trong xã hội mà họ sinh trưởng; văn hóa biểu
lộ (bề ngoài) bằng cách thức sống, thói thường và
nghi thức, liên quan nghệ thuật và tư tưởng, và trau
giồi (bề trong) bởi giáo dục và kinh nghiệm xử thế
làm cho họ có một sức tri giác triết lý và tôn giáo
của thế gian… Văn hóa là những cái gì còn lại lúc ta
đã quên hết tất cả, như Edouard Herriot đã nói (la
culture c’est ce qui reste quand on a tout oublié).Văn
hóa là mọi mặt trí thức của một quốc gia văn minh…
Nước
Việt Nam giữa hai thế chiến (về phương diện này) không
được Âu Tây hóa một cách vô hại, nhưng với nhiều
hạnh phúc : hạng thượng lưu trí thức (élite
intellectuelle) đã lợi dụng cơ hội này để giải thoát
dân ta ra khỏi vòng Pháp thuộc. Nho
giáo, và
Đạo giáo
(taoisme) cũng như Phật
giáo là
nguồn gốc của những học thuyết ngoại đạo (doctrines
areligieuses). Chữ quân tử (hiền minh) thật đúng là định
nghĩa của ba học thuyết này. Học thuyết của Lão tử
làm nổi bật những quan niệm Trống
Không, như
tác giả Kaltenmark
(Ed. du
Seuil, 1965) đã viết: «… rất hiệu quả bởi vì nó có
thể - tương tự cái bễ (thổi lò) - sản xuất hơi bao
giờ và mấy cũng được»… Ở nước ta, triết lý này
được xem như một tôn giáo, nhưng vì trong thực hành, «
đạo » này đã mau biến thành phép phù thủy, lên đồng.
Phật giáo ảnh hưởng
sâu xa văn hóa nước Việt Nam từ ngàn xưa, chia ra ba
nhánh ngay lúc Phật (đồng thời với Khổng và Lão tử,
sinh vào khoảng 560 trước Thiên Chúa) vừa mất lúc 80
tuổi: Tiểu thừa Hinayana), Đại thừa (Mahayana) và Phật
giáo áp dụng ở Tây Tạng và Mông Cổ (Véhicule tantrique
– Vajrayana). Đại thừa được tu hành ở Trung quốc,
Triều tiên, Nhật bản và Việt Nam. Tuy nhiên, Tiểu thừa
vẫn còn ứng dụng ở những vùng biên giới Việt Miên.
Một điểm chung giữa Tiểu và Đại thừa: Phật giáo là
một vô thần đạo và bất khả tri luận (agnostique: chủ
trương rằng trí người không thể biết được tuyệt
pháp, huyền học – métaphysique – không thể làm thí
nghiệm). Hạnh phúc vĩnh cửu chỉ do chính cá nhân thực
hiện một mình (không có sự can thiệp của thần linh)
nhờ trầm tư mặc tưởng mà người ta gọi là thiền
(méditation) đã đạt được cái trạng thái không dục
vọng và không hiềm kỵ (oán hận), có nghĩa là thanh
lãng, yên tịnh, êm đềm.
« Là một dân tộc
thấm nhuần văn hóa và văn minh Tàu tự ngàn xưa, người
An Nam đã sống gần 20 thế kỷ trong vùng ảnh hưởng của
Trung Hoa, lúc thì dưới sự lệ thuộc chính trị, lúc thì
độc lập, nhưng bao giờ cũng bị ảnh hưởng tri thức
và luân lý của Tàu » (trích Phạm Quỳnh trong Nouveaux
essais franco- annamites, Huế 1938, tr. 2). Việt Nam đã hưởng
thụ của Tàu một di sản đặc tính, sâu mạnh. Nho giáo
(« chữ nho » - chữ của người Tàu – là chữ ta, tiếng
Việt lại gọi là « tiếng nôm »), nhất là về mặt
tinh thần, đạo đức. Văn chương Việt Nam « đã chịu
đựng hơn nghìn năm sự ép uổng của hình thức và nghi
thức trong giáo huấn cổ truyền, và bị hạn chế và
kiểm soát bằng những cuộc thi cạnh tranh dùng toàn chữ
Hán » (Nguyễn Văn Huyên, La civilisation annamite, Hanoi, 1944,
tr. 273).
Trung trực với vua,
hiếu thảo với cha mẹ, vợ trung thành với chồng, tận
tình giữa bạn hữu…, đó là giảng dạy của Khổng tử,
làm nền tảng cho giáo dục Việt Nam phong kiến, mà Phạm
Quỳnh đã chỉ trích: « Không một cửa mở nào vào đời
sống và thực tế, toàn là hình thức, tự hình giáo dục
(verbalisme), hùng biện, văn chương » (Op. cit. ở trên). Cá
nhân xem như không có, dường chỗ cho gia đình, thôn xóm
mà họ nằm trong khuôn khổ.. Cựu quốc An Nam là một «
thế giớỉ » hư ảo, chống khoa học. Nho giáo về mặt
này có lẽ đã làm hại tương lai của một dân tộc bằng
cách ngăn cản một cá nhân được ý thức về những
quyền lợi căn bản quan trọng nhất của chính mình. Một
nhà thuyết trình năm 1949 tại Sài Gòn, ông Đoàn Quan Tấn
đã nói lớn: Trước đô hộ Pháp, văn minh Việt Nam là
một văn minh của bổn phận » (L’évolution de la
civilisation vietnamienne et le probblème franco - vietnamien,
Saigon 1949).
Nước Việt Nam –
nhìn dưới khía cạnh này – và trước khi bị Pháp chìếm
đóng, là một « xã hội kín » (Société close) theo dụng
ngữ của Bergson trong « Hai nguồn gốc của luân lý và
tôn giáo » (Les deux sources de la morale et de la religion). Một
xã hội riêng biệt, theo André Hauriou (Démocratie et forces
religieuses, Paris 1958, tr. 147)… mà trong đó các thành viên
tương thân tương trợ lẫn nhau, dửng dưng đối với kẻ
ở ngoài, song lúc nào cũng sẵn sàng tự bảo vệ trước
và chống tham vọng của nhóm khác, nhiều lúc không ngần
ngại khởi sự khởi công. Cái xã hội kín này có một
luân lý và một tôn giáo, mà chức vụ cốt yếu là gìn
giữ liên hợp giữa các đoàn viên ».
Sự đụng chạm giữa
hai nền văn hóa , giữa hai nền văn minh mà tất cả đều
chia rẽ… làm rung chuyển những nền tảng của đế quốc
An Nam. Bởi xâm lược Pháp không chỉ có mục đích truất
phế các hoàng đế phản nghịch để thay thế bằng những
kẻ tận tâm phục vụ thực dân, mà còn muốn và nhất
là « thay thế văn hóa cổ truyền giữ kỹ từ xưa đến
nay bằng một thứ bậc xã hội mới và một văn minh
khác biệt, với nguồn gốc lấy tự khoa học Pháp để
thay thế văn chương Tàu .» (Paul Mus, Problème de l’Indochine
contemporaine, tr. 4).
Nước Việt Nam giữa
hai thế chiến 1919-1939 sẽ sống trong một bầu không khí
cách mạng chống thực dân, với ngọn đuốc sáng soi của
những người đã hấp thụ những bài học của Pháp - tổ
quốc nhân quyền và dân quyền, về ước vọng chính đáng
của một dân tộc muốn hồi phục độc lập – và Tự
do !
Ta có thể kết luận –
như Philippe
Devillers tác giả Sách Histoire
du Viet-Nam de 1940 à 1952,
Paris 1952) rằng
chủ
nghĩa quốc gia
thật đúng
« … là kết quả tốt đẹp nhất mà nước Pháp đã để
lại cho Việt Nam, một kết quả mà nước Pháp có nhiều
lý lẽ nhất để làm hãnh diện ». On
peut considérer le nationalisme vietnamien « comme
le plus beau fruit de la France au Vietnam, celui dont elle a le plus
de raisons d’être fière ».
TS
Võ Hùng Anh trình bày vài nét về GS Nguyễn Thùy: Sinh năm
1936 tại Huế. Nguyên là Hiệu Trưởng Tư Thục Chi Lăng ở
Ngã Sáu Sài-Gòn, làm công chức (khế ước) tại Bộ
Thông Tin VNCH. Nhớ Một Người Đi, Khung Trời Hướng Vọng
là một trong số trên 20 tác phẩm đã xuất bản. GS
Nguyễn Thùy phát biểu: “Năm
1965, giữa lúc khói lửa mịt mù trên khắp đất nước,
tập Dialogue của Giáo Hội Phật giáo VN Thống nhất ra
đời gồm nhiều người viết. Nhà thơ Bùi Giáng trong bài
‘Lettre à René Char’ (thi sĩ Pháp) có đoạn xin dịch
sang Việt ngữ như sau : ‘Với chúng tôi, Hy Lạp cổ,
Trung Hoa xưa,…có nghĩa nước VN miên viễn, nơi thiết
yếu cho Đạo thể mở phơi, thị hiện qua giấc ngủ mộng
mị, khinh thanh của địa cầu’. Tôi không được đọc
bài trả lời của René Char, nhưng sau nầy, Bùi Giáng luôn
nhắc đến câu ‘Đồng hồ VN đang điểm giờ lên đỉnh
Calvaire’ (l’horloge du VN sonne le Calvaire). Có thể nhà thơ
Pháp vừa muốn báo cho nhà thơ VN biết rằng ‘VN còn
phải trải chịu bao đoạn trường ghê khiếp để phải
‘chết’ như Chúa Jésus đã bị đóng đinh trên đồi
Golgotha’, hay như cô Kiều đã phải trầm mình nơi sông
Tiền Đường, đồng thời vừa an ủi và đem lại niềm
tin tưởng cho nhà thơ VN là ‘VN sẽ hồi sinh’ như Chúa
Jésus đã sống lại để được sống đời đời nơi
nước Đức Chúa Trời và cô Kiều chúng ta được cứu
để từ nay mọi đoạn trường chấm dứt và vui sống
cảnh ‘duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào’.
Đấy
là hình ảnh đất nước và dân tộc VN chúng ta. Trải
suốt hơn 70 năm cầm quyền, Cộng sản VN đã biến đất
nước ta thành bãi rác thối tha và dân tộc, nhân dân ta
phải từng ngày, từng ngày gánh chịu thảm họa chập
chùng. Bao nhiêu bẩn dơ, xấu xa, tanh thối, bao nhiêu thói
hư, tật xấu, bất hảo, bất lương, tàn ác, phi nhân ghê
tởm từ bao đời văn minh nhân loại hầu như được bàn
tay Cộng sản tập trung, trút đổ vào đây để giết
chết dân tộc nầy. Dân tộc VN đang chết và còn phải
chết do bao nhiêu điêu linh, thống khổ đưa Nó vào cái
chết lăng trì để dần dà đi vào hủy diệt. Do vị trí
chiến lược của Nó, bao thế lực cường toan đã đến
với Nó, cướp đoạt Nó hay lôi kéo Nó theo chúng. Các
thế lực nầy gặp nhau, đối mặt, chạm trán, tranh chấp,
đối kháng, tìm mọi cách sát hại nhau để gìành lấy
cái vị trí chiến lược nầy, gây cho Dân tộc Việt dập
dồn đổ nát đang chờ ngày bị đồng hóa, bị làm nô
dịch cho tà quyền phương Bắc, bị mất tên tuổi trên
bản đồ thế giới. Nhưng chính các thế lực cường
toan cũng tan nát, rã rời, phá sản chính tại nơi đây.
Chủ nghĩa và chế độ Cộng sản sẽ tiêu vong ; chủ
nghĩa và chế độ Tư bản sẽ phải xoay chiều thế nào
đó từ ‘Tư bản đế quốc’ capitalisme impéraliste) sang
‘Tư bản hào hiệp’ (capitalisme généreux). Từ đó, cả
thế giới, cả VN sống lại’, đổi mới cuộc sống
mình. Không do phép lạ nào đâu, cũng không phải do người
VN thông minh, hay giỏi gì mà do dòng lịch sử thương đau
đã đến giờ chấm dứt và do Sử mệnh của Nó và của
Nhân loại bắt Nó phải tuẩn nạn cho dòng đi lịch sử
của nhân sinh, nói theo lời Phật ‘Đau khổ là giải
thoát’. Rõ hơn, lời Chúa Jésus :‘ Đến ngày phán
xét, nữ hoàng Nam phương sẽ đứng dậy với dòng dõi
nầy mà lên án nó vì người đã từ nơi đầu cùng trái
đất đến nghe lời khôn ngoan của Salomon,, mà đây nầy
có người tôn trọng hơn Salomon’ (Ma :12-42). Lời
nói chứa nhiều ẩn dụ : ‘Nữ hoàng Nam Phương’
không là ‘người đẹp làm vua’ mà là ‘người đẹp
nhan sắc tàn phai’ vì bao dập dồn đổ nát phải trải
chịu. Do đó, nàng là kẻ đủ kinh nghiệm và thẩm quyền
để phán xét dòng lịch sử nghiệt ngã đã tàn phá nhan
sắc nàng. ‘Từ đầu cùng trái đất’ : từ mức
cuối của địa cầu. Lịch sử cho thấy Văn minh nhân
loại từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, đến nay
không còn trụ nơi một miền nào cũng không dời đổi
địa bàn nữa mà đã lan rộng khắp toàn cầu để bắt
đầu chuyển điệu thay cung. ‘Dòng dõi đó’ chính là
bao nhiêu thế hệ giả hình luôn ‘vấp phạm vì cớ ta’
luôn gây oan nghiệt cho nhau và cho nàng. ‘Người lớn hơn
Salomon’ là cái trí tuệ của Ngôi Lời, của Đạo Thể,
cái Biết Bát Nhã Ba La mật theo Phật giáo.
Mai
nầy, người đẹp phương Nam sẽ trong ánh sáng của Ngôi
Sao phán xét diễn trình lịch sử thương đau, nói rõ lý
do
‘cuộc đời bể khổ’ (lời
Phật), lý do ‘Thiên
địa bất nhân dĩ vạn vật vi sô cầu’ (lời
Lão Tử), lý do ‘Thiên
hà ngôn tai’ (Khổng
Tử), lý do ‘Vì
sự gây nên phạm tội phải có’
(lời Jésus), lý do ‘Thất
bại chỉ có với tồn sinh’ (Karl
Jaspers), ‘Thế
giới gảy đổ, phi lý, bi đát’
(triết Hiện sinh), lý do ‘Đoạn
trường là sổ thế nào, Bài ra thế ấy vịnh vào thế
kia’ (Nguyễn
Du),
‘Kẻ khác là địa ngục của tôi’
(J.P.Sartre), ‘Lịch
sử là môn học về nỗi bất hạnh của người đời’
(R.Queneau)
để nhìn ra hướng đi trong ngày tới, từ đó ‘Mở
rộng chân trời hào quang tính thể’ (M.Heidegger),
thấy
rõ lẽ ‘Đồng
quy nhi thù đồ’ (Khổng
Tử), để ‘Đoạn
trường sổ rút tên ra’ (Nguyễn
Du), để ‘Đáo
bỉ ngạn’, dắt
dìu nhau về với cái Bản
Lai Diện Mục
của mình trong giờ phút Muôn
vật đổi mới.
Và
Em trẻ lại. Thời gian trôi qua, lịch sử có già nhưng
người trẻ lại. Một chu kỳ biến dịch trôi qua, Em
hân
hoan chào mừng nhan sắc tàn phai giờ đây phục hồi
nguyên thể để lại lên đường trên một hành trình
không còn tê buốt cô đơn vì ‘Em
không còn là Em của riêng Em tình lụy ‘
mà là nhân loại nói chung trên đường đổi mới:
« Dưới
ánh sáng của vì Sao nhảy múa
Em
thẹn thùng như thưở mới lên duyên
Mắt
ướt màu xanh lên óng ả
Mạch
thắm sông dài mở kỷ nguyên ».
Kế
tiếp, chị Phan Thu Thủy, Hội Trưởng Ái Hữu Gia Long đã
giới thiệu GS Phạm Thị Nhung, bà tốt nghiệp Đại Học
Sư Phạm Sài-Gòn, ban Việt-Hán năm 1961, Giáo sư chuyên
khoa các trường Nữ Trung Học Sài-Gòn: Gia Long (1961-75),
Régina-Mundi (1969-75). Sau biến cố 75, cùng gia đình định
cư tại Pháp. Bà đỗ bằng Âm Học và Ngữ Học (Diplôme
de Phonétique et de Linguistique) tại Đại Học Sorbonne Paris
III (1978). GS Phạm Thị Nhung phát biểu: “Người
dân ở hải ngoại phải làm gì để giúp phương tiện
truyền thông? Thời đại này là thời đại truyền thông
tiến bộ một cách vượt bực. Trước hết chúng ta có
thể nhìn thấy, nghe, thấy tất cả những gì đã xảy ra
ở quê nhà đồng thời ngược lại ở nước nhà cũng có
thể tiếp nhận những ý kiến của chúng ta một cách
nhanh chóng. Mặc dầu ai cũng nói văn hóa nước nhà quá
xuống dốc nhưng chúng ta vẫn tin tưởng ở bản chất
con người Việt Nam là con người hướng Thiện... Vậy
thì văn hóa cốt lũy của dân Việt chúng ta là tính
Thiện. Chính nhờ tính Thiện ấy, người ta tin chắc rằng
người dân trong nước Việt Nam sẽ nhìn ra sự thật như
thế nào… Chúng ta phải biết nuôi dưỡng tính Thiện.
Ngoài xã hội phải thực thi đời sống dân chủ tự do
và khai phóng. Có dân chủ tự do con người mới phát huy
được tài năng và có khai phóng thì mới mong vượt lên
để tiến với mọi người...
Tiếp
tục chương trình, nhà thơ Đỗ Bình trình bày vài nét về
nhà văn Hồ Trường An, và nhà văn Phan Thị Trọng Tuyến.
Nhà văn Hồ Trường An sinh năm 1938 tại Vĩnh Long, là tác
giả 76 tác phẩm, cựu sinh viên Dược Khoa sau đó học
thêm ở Minh Đức về điện ảnh, cựu sĩ quan VNCH ngành
Chiến Tranh Chính Trị, ban Báo chí, trước 1975 là ký giả
kịch trường. Ông là em ruột của nhà văn nữ Nguyễn
Thị Thụy Vũ. Nguyễn Thị Thụy Vũ đã được giải Văn
Chương Toàn Quốc năm 1970 với tác phẩm Khung Rêu. Hôm
nay nhà văn Hồ Trường An không phát biểu vì sau cơn bệnh
tai biến ông phát biểu rất khó khăn. Nhà văn Phan Thị
Trọng Tuyến sinh năm 1951 tại Bến Tre, du học năm 1969,
Bác sĩ Nghiên cứu, hiện sống tại Pháp. Cộng tác với
các tạp chí Văn, Văn Học, Hợp Lưu và một số tạp chí
khác. Đã xuất bản: Mùa Hè, Một Nơi Khác (Văn Nghệ
1987), Một Trang Đời (An Tiêm 1991), Mùa Xuân và Những Con
Dã Tràng (An Tiêm 1993). Sách in chung trong tuyển tập Những
Mảng Rời (2012) của Họa sĩ Lê Tài Điễn. Nhà văn Phan
Thị Trọng Tuyến phát biểu:
“
Sống
bên ngoài nước Việt, chi phối giới hạn tâm sức tất
cả chúng ta là cuộc mưu sinh và vị thế công dân nơi
quốc gia mình sống. Tôi không dám nói công dân hạng hai.
Chỉ xin tạm gọi là công dân trên lý thuyết/trên giấy
tờ. Sống đôi khi với ít nhiều thờ ơ hay thụ động
với thời cuộc quốc tế, thậm chí với cả bản xứ.
Sống nơi này là còn nghĩ đến việc trở về thăm gia
đình bạn bè, nghĩ đến việc về quê hương sống nốt
đời còn lại. Cho nên, tại nơi này, người ta tự giới
hạn: không nói chuyện chính trị, ta chỉ thuần tuý nói
về nghệ thuật, văn chương! Còn đồng bào trong nước,
đa số sống vất vả dưới guồng máy cường quyền dùng
bạo lực và tuyên truyền trấn áp mọi mặt. Bị đánh
gãy tay, vỡ đầu vì biểu tình, phản kháng đảng, bị
8, 10 hay 16 năm tù chỉ vì không đồng ý với thứ chủ
nghĩa quốc tế mơ hồ, muốn đề nghị một con đường
cho tương lai đất nước, vài thí dụ nhỏ trong trăm ngàn
chuyện
chỉ
có trên đất nước Việt Nam, dưới chế độ độc
tài.
Những cánh rừng rậm vây khổn cái nhìn chỉ thấy cây.
Trong hoàn cảnh ít nhiều nghiệt ngã ấy, có được bao nhiêu cách để vượt lên, thoát khỏi trùng vây? Tôi không thể lấy con số để suy xét mức độ thành công của hành động phản kháng như nói ở trên. Sáng tác văn thơ, âm nhạc. Biểu tình. Là những đường lối bày tỏ có văn hoá, dùng bất bạo động để đối kháng với bạo lực và vô minh, chưa nói đến những vận động của nhóm nhỏ hay cá nhân đơn lẻ với các tổ chức quốc tế hay nguyên thủy quốc gia khác đã gặt hái được những kết quả thực tiễn
Cái cây thờ ơ, bi quan sẽ không che lấp khu rừng già trẻ mấy ngàn năm thầm lặng lan rễ, vươn cành. Sáng tác những bài hát để xúc động tâm đắc khi nhìn thấy người dân oan trong nước hát giơ những tờ giấy nhỏ bé, đồng ca những lời Việt Dzũng, Trúc Hồ...Tác giả, dân oan không «làm chính trị». Mặc dù từ xa xưa Aristote đã nói con người là un animal politique! và như LS Trần Thanh Hiệp đã nói trong một bài thuyết trình, bất lực bi quan bởi vì rằng con người VN thiếu văn hoá ....chính trị.
Như vậy một trong các giải đáp để đi đến vận hội mở ra cho tương lai đồng bào và đất nước chúng ta là hành động với khả năng và lương tâm, đoàn kết, hỗ trợ nhau, cùng nuôi dưỡng vun bồi thêm phần văn hoá chính trị cần phải có… cho phần văn hoá ấy không còn ngầm chảy nữa mà trở thành rừng cây có thật. Hoặc như GS Phạm Thị Nhung vừa nói, bản tính thiện sẽ được đánh thức, dẫn đến tháo gỡ tốt đẹp cho đất nước.”
Những cánh rừng rậm vây khổn cái nhìn chỉ thấy cây.
Trong hoàn cảnh ít nhiều nghiệt ngã ấy, có được bao nhiêu cách để vượt lên, thoát khỏi trùng vây? Tôi không thể lấy con số để suy xét mức độ thành công của hành động phản kháng như nói ở trên. Sáng tác văn thơ, âm nhạc. Biểu tình. Là những đường lối bày tỏ có văn hoá, dùng bất bạo động để đối kháng với bạo lực và vô minh, chưa nói đến những vận động của nhóm nhỏ hay cá nhân đơn lẻ với các tổ chức quốc tế hay nguyên thủy quốc gia khác đã gặt hái được những kết quả thực tiễn
Cái cây thờ ơ, bi quan sẽ không che lấp khu rừng già trẻ mấy ngàn năm thầm lặng lan rễ, vươn cành. Sáng tác những bài hát để xúc động tâm đắc khi nhìn thấy người dân oan trong nước hát giơ những tờ giấy nhỏ bé, đồng ca những lời Việt Dzũng, Trúc Hồ...Tác giả, dân oan không «làm chính trị». Mặc dù từ xa xưa Aristote đã nói con người là un animal politique! và như LS Trần Thanh Hiệp đã nói trong một bài thuyết trình, bất lực bi quan bởi vì rằng con người VN thiếu văn hoá ....chính trị.
Như vậy một trong các giải đáp để đi đến vận hội mở ra cho tương lai đồng bào và đất nước chúng ta là hành động với khả năng và lương tâm, đoàn kết, hỗ trợ nhau, cùng nuôi dưỡng vun bồi thêm phần văn hoá chính trị cần phải có… cho phần văn hoá ấy không còn ngầm chảy nữa mà trở thành rừng cây có thật. Hoặc như GS Phạm Thị Nhung vừa nói, bản tính thiện sẽ được đánh thức, dẫn đến tháo gỡ tốt đẹp cho đất nước.”
Tiếp
theo nhà văn Nguyễn Thùy trình bày vài nét về GSTS Nguyễn
Đăng Trúc. Ông sinh năm 1947 tại làng Hòa Lạc thuộc tỉnh
Quảng Trị. Chủ nhiệm tập san Liên Lạc, Định Hướng
và Định Hướng tùng thư. Đã cho xuất bản một số tác
phẩm. Để gửi gấm về “Sứ
điệp của văn hóa nơi cuộc sống tha hương”,
ông phát biểu:
“Rằng:
hay thì thiệt là hay,
Nghe
ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!
(ĐTTT, 489-490).
Vui
là vui gượng kẻo là,
Ai
tri âm đó mặn mà với ai! (ĐTTT,
1247-1248)
Nỗi
xót xa đó của Kiều trong cuộc sống tha hương, hẳn
nhiều người trong cộng đồng người Việt hải ngoại
chúng ta đã từng cảm nhận. Nhưng, nếu đại thi phẩm
của Nguyễn Du không phải chỉ là câu truyện tình cảm,
mà còn là một sứ điệp văn hóa, thì hoàn cảnh xa quê
của chúng ta hôm nay không chỉ là khổ đau, nhưng còn là
cơ duyên để tiếp cận được một sứ điệp về ý
nghĩa và thân phận con người.
Trong
khổ đau của kẻ xa nhà, chúng ta khiêm tốn nhớ lại
những bậc thánh hiền, những vị đã từng chuyển đạt
những chân lý hướng dẫn nếp sống văn hóa của chúng
ta. Chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nhận ra rằng đời sống
và chân lý mà các vị ấy chuyển đạt luôn gắn liền
với hoàn cảnh lưu đày nơi thân phận làm người.
Thái
tử Tất Đạt Đa đã từ biệt quê nhà và cung điện. Và
nơi vùng đất xa lạ, sức mạnh Ánh Sáng bên kia bờ đã
thốt nhiên đến với kẻ tha hương, tôn vinh người ấy
thành Phật, dẫn đưa người giác ngộ đến gặp muôn
người.
Lão
Tử cảm hứng được Ánh Sáng kỳ bí vượt lên trên ánh
sáng trí năng hiểu biết của “thiên hạ”, của bất
cứ ai chỉ thấy việc trước mắt. Ngài mặc nhiên giới
thiệu mình là người của vùng đất xa lạ, theo lối nói
thi ca của các bậc thánh hiền còn gọi là “Cõi Bên Kia
Bờ”, là “Tâm duy vi”, hoặc là “Thời Xa Xưa”.
Đạo, hay nói cách khác là Con Đường hoàn thành nhân
tính mà Ngài có phận vụ truyền đạt, không còn là tập
tục nhất thời, lề luật giả tạo do trí óc và ý muốn
chướng khí của con người bày ra, nhưng là Đạo Thường
được soi dọi bởi Ánh Sáng của vùng đất “tha hương,
xa lạ” nầy. Khổng Tử không tự sáng chế, không tôn
vinh nhân nghĩa do con người tùy nghi định đoạt, không
cổ súy “cái tâm duy nguy” mà mỗi người tự tìm kiếm
theo sở thích. Nhưng, Ngài chỉ truyền lại sứ điệp về
ý nghĩa nhân tính của “Đạo Tâm duy vi”, của “Đạo
Thời Thánh Hiền Ngày Xưa”, Thời mà tai con người không
nghe được, mắt con người không thấy được.
Hầu
như đồng thời với các thánh hiền Đông phương nầy,
thi hào Sophocle của Hy Lạp đã nói rõ hơn nữa về thân
phận lưu đày của con người, qua thi phẩm “Œdipe-Vua”.
Œdipe là nguyên tượng con người tự mãn chỉ biết ỷ
lại vào tài trí của mình để tự định nghĩa nhân
tính. Mang ánh sáng trí năng trong tay, người “hiểu biết”
Œdipe là “Vua”, kẻ tự mình làm nên chính mình và làm
chủ quê hương mình. Nhưng Œdipe đó ngu muội không biết
ngay cả lý lịch thật của mình, không biết chính mình
đã giết cha ruột và lấy cả mẹ ruột làm vợ. (Mẹ ở
đây tiêu biểu cho nguồn suối yêu thương sinh thành của
cha, Mẹ sinh thành ấy nay bị biến làm vợ, là hình ảnh
của dục vọng muốn mình là chúa tể cho chính mình). Con
đường tìm lại ý nghĩa nhân tính linh thiêng và chân
thật, con đường giúp Œdipe nhận ra lý lịch của mình
trong mối tương giao phụ-tử với người cha mà mình
không thấy, con đường cứu độ đó chính là con đường
tha hương, lưu đày ra khỏi vùng đất mà kẻ lầm lạc
tưởng là quê thât của mình. Với ánh sáng kỳ diệu của
đôi mắt mù lòa, ánh sáng “huệ nhãn” vượt lên trên
ánh sáng của hiểu biết con người, Œdipe rời xa quê cũ,
khiêm tốn lần mò từng bước trong cuộc sống tha hương,
nhớ nhà, nhớ quê nơi cư ngụ của người cha ẩn mặt,
để hoàn thành trong khổ đau nhân tính kỳ bí và linh
thiêng.
Và
Socrate, người thầy của văn hóa Tây phương, lại là kẻ
lưu đày ngay trên quê hương Athènes. Vì truyền bá sứ
điệp về ý nghĩa nhân tính thần thánh mà ông đã trực
giác được nhờ nguồn Ánh Sáng đến từ Bờ Bên Kia,
Socrate bị xã hội đương thời, nhất là giới tự xưng
là tài trí khôn ngoan, kết tội là kẻ làm hư hỏng con
người, bôi nhọ Thần Thánh mà họ sùng bái. Cuối cùng
vì trung kiên với sứ mệnh truyền đạt chiều kích “linh
ư vạn vật” của nhân tính mà người hiền Socrate bị
tòa án của chính quê hương mình tuyên án phải chết.
Abraham
trong Kinh Thánh, Abraham tổ phụ của những ai tin vào mối
Giao-Ước thần thánh giữa Thiên Chúa siêu việt và con
người, mối tương giao kỳ bí làm nên yếu tính linh
thiêng của nhân tính, Abraham đó là người dứt bỏ quê
nhà cũ để tiếp nhận ân phúc làm kẻ tha hương và lưu
đày, làm kẻ vượt qua cuộc sống tự nhiên để đi vào
mầu nhiệm của con người được nâng lên hàng thần
thánh.
Và
hiện thân của kẻ tha hương lưu đày nỗi bật là Con
Người Giêsu, Người từng nói: “Chim có tổ, chồn có
hang, riêng Tôi là kẻ không có chổ tựa đầu”. Người
đó tha hương nơi quê mình, bị dân mình ruồng bỏ. Người
đó bị treo lên khỏi đất và kêu lên “Tôi khát, Tôi
nhớ Thiên Chúa Cha tôi”. Và trong Cơn Khát, Nỗi Nhớ đó,
Ngài “hoàn thành công trình cứu độ nhân loại”, giúp
con người vượt qua thân phận chỉ là “thể phách”
hay chết, đi vào nguồn Sinh Lực của chiều kích “tinh
anh”, siêu nhiên. Sinh Lực đó là Sinh Lực yêu thương
làm cho con người trở thành thần thánh.
Trong
khổ đau của hoàn cảnh tha hương hôm nay, chúng ta nhớ
quê nhà, và hơn hết nhớ nguồn sinh lực làm nên hồn
sống của Hồng Bàng Thị, dòng tộc của chúng ta, dòng
tộc cao cả, to lớn (Hồng) và toàn vẹn, chung khắp
(Bàng). Trong bản văn huyền thoại khai sinh dân tộc nầy,
người Mẹ Âu Cơ được Thần dấu mặt Lạc Long Quân
đưa ra khỏi vùng đất của một Đế-Lai chỉ biết say
mê kim ngân, châu ngọc…, và cho làm kẻ tha hương ở
Long Trang, quê hương thần thánh. Từ mối tương giao
“Thần-Người” ấy phát sinh ra dòng tộc cao cả và
chung khắp, dòng tộc con người “linh ư vạn vật” qua
hình ảnh một trăm con phi thường : không ăn , không
uống mà tự nhiên trường đại. Người Mẹ Âu Cơ và
trăm con phi thường ấy múc lấy nguồn sống linh thiêng
cao cả nơi nhân tính mình khi ngày đêm biết quay về nơi
Tương Dạ, nơi Tâm Duy Vi “Thần gặp Người”, khi ngày
đêm khao khát và thương nhớ Thần dấu mặt Lạc Long
Quân cư ngụ Bên Kia Bờ.
Nỗi
nhớ nhà, nhớ quê của cuộc sống tha hương chúng ta hôm
nay mong sẽ cống hiến một cơ duyên giúp người đồng
bào trong cũng như ngoài nước nhớ lại sứ điệp của
nỗi nhớ căn nguyên nơi tâm sâu kín của mỗi người,
nhớ lại giá trị thiêng liêng của yêu thương và tình
nghĩa làm nên hồn dân tộc và hơi thở của văn hóa”.
Đến
đây GSTS Nguyễn Đăng Trúc giới thiệu GSTS Trần Văn
Cảnh, chủ biên cuốn “Những Khuôn Mặt Văn Hóa VN
Paris”. GSTS Trần Văn Cảnh sinh năm 1943 tại Tân Chính
thuộc tỉnh Thanh Hóa. Biên tập viên báo Chiến Hữu, Dân
Chúa Âu Châu, và Giáo Xứ Việt Nam. Tác giả một số
giáo trình bằng pháp văn về phương pháp học tập, làm
việc, điều hành xí nghiệp, kinh tế, quản trị và
phương pháp viết tiểu luận. Tác giả một số sách điện
tử phổ biến trên mạng. GSTS Trần Văn Cảnh nói về nội
dung cuốn sách: “ CLBVHVN
Paris đã được thành lập vào năm 1994, thành viên CLB đa
số thuộc giới trí thức văn nghệ sĩ trong đó có một
số người thuộc Văn Bút Việt Nam hải Ngoại, hội thơ
Ba Lê Thi Xã, VNS tự do Paris… Mỗi năm CLB sinh hoạt ít
nhất 4 lần, về các chuyên đề: đạo lý, triết lý, văn
chương, khoa học, hội họa, điêu khắc v.v. Được tái
tín nhiệm đảm trách CLBVHVN Paris vào tháng 04-2014. Nhà
thơ Đỗ Bình biết rằng mình đã lãnh một trách nhiệm
nặng nề: “Làm sao giữ vững và phát triển CLBVHVN
Paris? Trong buổi sinh hoạt VHNT “Hương Mùa Hạ 29-06-2014,
một cuộc thảo luận phong phú và hào hứng đã diễn ra
giúp cho các hội thảo viên ý thức được về ý nghĩa
của từ “Văn hóa” và đi đến quyết định đưa ra
một đường hướng với ba mục tiêu chính: Góp phần xây
dựng văn hóa Việt Nam và lưu tâm gìn giữ phát triển sự
trong sáng của tiếng Việt. Giới thiệu và phổ biến
những tác phẩm giá trị dựa trên tiêu chuẩn cách viết
có lưu tâm gìn giữ và phát triển sự trong sáng của
tiếng Việt. Các tác phẩm được phổ biến gồm nhiều
loại: sáng tác, phê bình văn học, biên khảo, dịch thuật
v.v. Kế tiếp, trong buổi sinh hoạt VHNT “Paris, Chiều
Tưởng Nhớ” 29-10-2014, các thành viên tham dự đã chấp
thuận thiết kế một dự án nhằm áp dụng những mục
tiêu và đường hướng văn hóa của mình vào việc thực
hiện một tác phẩm lấy tên “Tuyển Tập Những Khuôn
Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris 1995-2015. Cấu trúc xoay quanh
những khía cạnh sáng tác văn chương, luận khảo văn
học, nghiên cứu văn hóa… Công việc tổ chức thực
hiện được bàn thảo và quyết định ngày 05-11-2014 tại
tư gia nhà thơ Đỗ Bình và ngày 14-03-2015 tại tư gia nhà
thơ BS Phương Du Nguyễn Bá Hậu. Ba ban làm việc đã được
đề nghị: Ban điều hành chung, Ban biên tập, Ban thực
hiện. Trong chiều sinh hoạt VHNT ngày 02-04-2016, kết quả
về nội dung cuốn sách đã được công bố với 37 bài
gồm 16 bài giới thiệu những tác giả và tác phẩm, 21
bài giới thiệu một số sáng tác về thơ, văn và nghiên
cứu về văn học, văn hóa. Cuối cùng có 26 tác giả được
chọn, một số tác giả khác vì gửi bài trễ mà sách đã
đem in nên sẽ dành lại cho tuyển tập 2 kế tiếp. 26 tác
giả đó là Nhà văn Hồ Trường An, GSTS Hà Ngọc Bích,
Nhà văn nhà thơ Đỗ Bình, Nhà thơ Hương Bình, GSTS Trần
văn Cảnh, TS
Phạm Trọng Chánh, BSGS Phạm Tu Chính, Thi sĩ BS Phương Du
Nguyễn Bá Hậu, LS Trần Thanh Hiệp, Nhà báo Nguyễn Bảo
Hưng, GS Trịnh Khải, GSTS Phạm Đình Liên, Nữ sĩ Quỳnh
Liên, GSTS Lê Mộng Nguyên, Nhà văn Trần Tam Nguyên, GS Phạm
Thị Nhung, Thi sĩ GS Hàm Thạch, Nhà biên khảo Nguyễn
Thanh, GSTS Vũ Quốc Thúc, Nhà văn GS Nguyễn Thùy, Nhà văn
Từ Thức, Nhà báo Lê Trân, GSTS Từ Trì, GSTS Nguyễn Đăng
Trúc, Nhà phê bình Liễu Trương, GS Phan Thị Trọng Tuyến.
Như vậy nhìn chung vào nội dung kết quả thâu lượm được
của các tác phẩm vào ngày 02-04-2016, đã đi theo đúng
đườngg hướng của nội dung tiên liệu ngày 29-06-2014 và
ngày 26-10-2014. Nội
dung chủ yếu cụ thể và đặc trưng mà người đọc
chăm chú sẽ dễ dàng khám phá và nhận ra, đó là “chân
dung chung của người làm văn hoá trong “Những Khuôn Mặt
Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015”. Nhiều đề tài và
nhiều tiếp cận khác nhau, nhưng tất cả mọi tác giả
đều đã đề cập, nhiều ít, xa gần, đến chủ đề
“Tha Hương”, là nét chân dung đặc trưng chính yếu
chung, với ba mầu rất đậm và rõ nét. Một cái tha hương
hiện thực của tâm tình hoài nhớ, thương mến, mong chờ
quê hương tươi sáng và của cảnh sống giữ thơm quê
mẹ, bảo trì và phát triển văn hóa dân tộc, hội nhập
quê người. Một cái tha hương vươn lên của tình thương,
đi từ tình thương gia đình, đến tình thương Nước
Việt, Người Việt, Tiếng Việt, tiến lên tình thương
nhân loại. Và một cái tha hương thăng tiến về tâm
linh, tìm về chân, thiện, mỹ, hướng lên tâm linh và
thiêng liêng. Rõ rệt “Những
khuôn mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015”
đã hoà nhập với những tác phẩm văn, thơ, nghiên cứu
về văn học và văn hóa Việt Nam khác trên thế giới, mà
khai phá ra một nội dung mới trên diễn đàn văn học
Việt Nam cho thời hậu chiến, 1975-2015. Khác
với văn thơ thời tiền chiến 1930-1945 và văn thơ thời
chiến 1945-1975, văn
thơ thời hậu chiến 1975-2015 nở rộ ra ở hải ngoại,
trong đó có Paris, với dòng văn thơ THA HƯƠNG và TÌNH
THƯƠNG Nước Việt, Người Việt, Tiếng Việt”.
Phần
thứ hai của chương trình văn học để
tưởng niệm đến đa số những tác giả và tác phẩm đã
từng sinh hoạt trong CLBVHVN Paris mà nay đã qua đời. Vì
thời lượng có hạn nên ban tổ chức chỉ nêu danh một
số người. GSTS âm nhạc Quỳnh Hạnh trình bày vài nét
về Học giả TS Thái Văn Kiểm, bút hiệu Hương Giang,
sinh năm 1922 tại phường Trung Hậu (Huế). Ở hải ngoại
thường cộng tác với các báo Tự Do, Việt Nam Hải
Ngoại, Làng Văn, Quê Mẹ v.v. Tác giả tập Au
Pays du Nénuphar,
giải nhất Cosmos (1977, Montréal). Được huy chương
« Bắc Đẩu Bội Tinh » Légion
d’Honneur
Pháp Quốc năm 1982. Nhà Giáo Tuyết Dung trình bày vài nét
về Nữ sĩ Vân Nương và đọc thơ của bà. Nữ sĩ Vân
Nương (1919-2015) là phu nhân của Luật sư Lê Ngọc Chấn.
Bà là hội viên của Thi đàn Quỳnh Dao, Hội Thơ phái nữ
đầu tiên thành lập năm 1962 tại Sài-Gòn. Họa sĩ Nguyễn
Đức Tăng trình bày vài nét về nhà thơ Hương Bình, nhà
thơ Hàm Thạch và đọc thơ. Nhà thơ Hương Bình Cao Văn
Chiểu sinh quán tại Cố Đô Huế. Nguyên Hiệu Trưởng
trường Phú Xuân (Huế). Dân biểu, Nghị sĩ thời Đệ
Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa. Nhà thơ Hàm Thạch Nguyễn
Xuân Nhẫn (1921-1996), Cử nhân Cao Học đại học Luật
Khoa. Đầu thập niên 60, làm Chủ tịch Nghiệp Đoàn Xuất
Nhập Cảng kiêm Phó Chủ tịch Phòng Thương Mãi Saigon.
Nhà giáo Nguyễn Thanh trình bày vài nét về GS Võ Thu Tịnh
(1920-2010), bút hiệu Thu Tâm, là một nhà nghiên cứu văn
hóa dân tộc, chuyên biên khảo về văn học Việt Nam cho
các tạp chí Pháp ngữ, Việt ngữ tại Pháp, Hoa Kỳ, Đức,
Thụy Điễn, và đã xuất bản 20 tác phẩm Pháp Việt.
Nhà giáo Thúy Hằng trình bày vài nét về Nữ sĩ Minh Châu
và đọc thơ. Bà sinh năm 1922 tại Huế, tốt nghiệp Quốc
Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật và Sư Phạm Hội Họa. Bà là Giáo
sư các trường trung học kỹ thuật Huế, Sài-Gòn, Régina
Mundi. Là tác giả những bức tranh lụa nổi tiếng của
Việt Nam trước năm 1975 và là tác giả nhiều tập thơ
trong đó có tác phẩm Thi Họa Hương Lòng. Nhà thơ Từ
Thạch trình bày vài nét về Nữ sĩ Thân Thị Ngọc Quế
và đọc thơ. Bà sinh năm 1918 tại Thừa Thiên (Huế),
những năm cuối đời đi tu lấy pháp danh Tâm Mãn, bà mất
năm 2007, thọ 90 tuổi. Tác giả của những tập thơ: Giọt
Nước Cành Sen, Thư Gửi Muôn Trùng, Mây Trắng Đường
Về, Trắng Cả Hoàng Hôn. Ngọc Xuân trình bày vài nét về
GSTS Phạm Đình Liên, sinh năm 1935 tại Huế. Nguyên Giáo
sư tại đại học Minnesota (Hoa Kỳ) và đại học Grenoble
(Pháp). GSTS-Nhạc sĩ Phạm Đình Liên đã ra đi vĩnh viễn
vào tháng 8 năm 2016, để lại nhiều thương tiếc cho các
bạn hữu, là thành viên của CLBVH VN Paris trong ngót 14
năm, các CD Việt Nam Mến Yêu 1 và 2, CD Tình Khúc Tha Hương
(với sự cộng tác của ba nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, Phạm
Đình Liên và Đỗ Bình), CD Tình Khúc Phạm Đình Liên,
đều được tổ chức ra mắt trong các buổi sinh hoạt
của CLB. Đặc biệt Nữ sĩ Quỳnh Liên tuổi đã ngoài 90
hiện diện hôm nay. Mây Thu trình bày vài nét về Nữ sĩ
và đọc bài thơ “Cô Liêu” của bà. Nữ sĩ Quỳnh Liên
tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Quỳnh Liên thuộc hoàng
tộc, dòng dõi Tuy Lý Vương, bà là phu nhân của thi sĩ
Hương Bình, tác giả của một số thi tập.
Phần
văn nghệ: được
bắt đầu bằng bản hợp ca Những Nẻo Đường Việt Nam
của Thanh Bình do Gia đình KH Cao Niên trình bày. Chương
trình nhạc thính phòng chủ đề “Quê Hương” hôm nay
đặc biệt dành để tưởng niệm các nhạc sĩ đã từng
sinh hoạt trong CLB và nay đã vĩnh viễn ra đi, nhóm FAVIC
với nhạc phẩm Lối Về Xóm Nhỏ để tưởng nhớ cố
Nhạc sĩ Trịnh Hưng, Đỗ Quyên với nhạc phẩm Tình Hoài
Hương của Phạm Duy, Minh Nguyệt với Chiều Làng Em của
Trúc Phương, Đình Thy với Hình Bóng Quê Nhà của Thanh
Sơn. Ca sĩ Đình Đại với ca khúc Lửa Tù, thơ của
Nguyễn Chí Thiện được phổ nhạc. GSTS âm nhạc Quỳnh
Hạnh trình bày ca khúc Nhạt Nắng của Xuân Lôi, ca sĩ
Tuyết Dung trình bày Tình Quê Hương của Việt Lang. Sau đó
ca sĩ Ngọc Trâm và Phương Khanh tiếp nối chương trình
với bài ca cổ, trích đoạn Hồn Thiêng Sông Núi và Triệu
Trinh Nương. Điệu Lưu Thủy Hành Vân và Lý Con Sáo nghe
thật mùi mẫn làm xao xuyến thổn thức bao trái tim của
các thính giả. Tiếp theo với giọng phụ họa của các
ca sĩ Hải Yến và Minh Nguyệt, ca sĩ Ngọc Xuân trình bày
nhạc phẩm Thôn Trăng của nhạc sĩ Mạnh Bích và cũng để
tưởng nhớ đến nhạc sĩ Việt Dzũng, nhạc sĩ Khắc
Dũng đã trình bày nhạc phẩm Mời Em Về. Nhạc phẩm
Suối Mơ của Văn Cao được ca sĩ Sơn Khôi trình bày và
ca sĩ Mỹ Hằng với nhạc phẩm Chiều Mưa Biên Giới của
Nguyễn Văn Đông. Nghệ sĩ Thúy Hằng trình bày Tiếng Sáo
Chiều Quê của ThĐiều khiển chương trình với quá nhiều
tiết mục mà thời gian lại giới hạn dành cho mỗi tác
giả chỉ có vài phút, không đủ để diễn đạt hết ý
nghĩ nhưng MC gồm có anh Nguyễn Quang Huy, Bác sĩ Nguyễn
Bá Linh và Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng đã thật khéo léo
dàn xếp để cho những tác giả hiện diện đều có thể
gửi gấm những thông điệp văn hóa của mình, tuy cô
đọng nhưng sâu sắc, có giá trị lâu dài trong việc góp
phần vào những suy tư về văn hóa Việt Nam ở hải
ngoại. Hội Ái Hữu Gia Long với áo dài tím đồng màu
trang nhã trong nhiệm vụ tiếp tân. Các tác giả và khách
mời dù tuổi hạc đã cao, ngoài 90, 80, vẫn hiện diện
đông đủ. Hầu hết các bạn ở xa từ nhiều nơi trên
đất Pháp đều đến tham dự: ở Marseille có GS Nguyễn
Thùy; Montpellier có nhà thơ Mây Thu và nhà biên khảo Mỹ
Phước Nguyễn Thanh; Strasbourg có GSTS Nguyễn Đăng Trúc và
phu nhân; Troyes có nhà văn Hồ Trường An và Bernard; Rouen
có Khắc Dũng, nhà văn Phan Thị Trọng Tuyến và phu quân;
Lyon có ca sĩ Sơn Khôi và phu nhân, Tuyết Vân, Khúc Duy
Tường; Hoa Kỳ có nhà văn Phan Nhật Nam. Tất cả đều
góp công sức để cho buổi sinh hoạt được thành công.
Tất cả đều do tấm lòng yêu văn hóa Việt Nam. Chủ
tịch CLBVHVN Paris, nhà thơ Đỗ Bình đã nói trong thư cảm
ơn: “ Chữ tín, một trong những đức tính cao quý nhất
trong nhân phẩm của con người. Chúng ta là những người
xa quê hương, thương quê hương, yêu văn hóa dân tộc.
Chúng ta tìm đến với nhau bằng những thứ tình thiêng
liêng đó, và lời hứa đến với nhau đã xác tín nhân
cách, do đó buổi sinh hoạt được thành công mỹ mãn”.
Kết
thúc chương trình vào lúc 18 giờ 30 phút. Gia đình KH Cao
Niên do BS Nguyễn Hữu Thành là hội trưởng mời tất cả
các quan khách trong hội trường cùng đồng ca bài Việt
Nam Việt Nam của Phạm Duy.
Tường
thuật:
Nguyễn
Mây Thu
(Montpellier,
30-09-2016)
____________________________________________________________