Nguồn gốc và ý nghĩa
các
tên gọi « Hoa Lang » 花郎
và
« Hoa Lang Đạo » 花郎道
Roland Jacques
Trong
văn liệu Việt Nam có liên quan với Phương Tây, viết
trong khoảng từ thế kỷ 17 đến đầu 19, chúng ta thường
gặp những ngữ đoạn « Hoa
Lang »
(không thanh điệu) và « Hoa
Lang đạo ».
Đây là những tên gọi chỉ một loại người ngoại quốc
và tôn giáo của họ. Nhưng « Hoa Lang » chính xác
là người nước nào? Người đương thời và một số
nhà sử học sau này có những cách hiểu và giải thích
khác nhau về ác tên gọi này. Trên cơ sở những tư liệu
mới phát hiện được tôi muốn trình bày về nguyên do
và ý nghĩa các tên gọi « Hoa Lang » và « Hoa
Lang đạo ».
Sang thế kỷ 20 và cho đến
tận hôm nay, còn rất nhiều cách giải thích mang màu sắc
từ nguyên học dân gian, đầy hư ảo.
-
Hoa Lang là những lái buôn nước ngoài trẻ tuổi (« lang ») đã vào Việt Nam bán một loại vải hoa (« hoa »); hoặc là những người đàn ông lái buôn nói chung bán một loại vải có hình hoa khoai lang. Đó là những lái buôn người Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha.
-
Hoa Lang chỉ chung những người Phương Tây, mà tiêu biểu là người Hoà Lan (hoặc Hà Lan): thủy thủ Hoà Lan là những người phương Tây đầu tiên đã tiếp xúc với Việt Nam.
Giả thuyết thứ nhất là
sự tưởng tượng của người chỉ có nguồn văn liệu
phương Tây. Một sự tưởng tượng thật là khó tin. Để
hiểu rõ xuất xứ của tên gọi « Hoa Lang » mà
chỉ dựa vào văn liệu phương Tây là chưa đủ, còn phải
cần đến thế giới chữ vuông.
----------------------------------------
Xem ???????? Đại Việt sử
ký bản kỷ tục biên, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ
18 (1697), quyển xix do Lê Hy chủ biên, tờ 4a-b (= năm Quý
Mão, Cảnh Trị thứ 1 [1663]): ??? ??????? ?????????? ?????*???
????????…
Đọc Hán Việt là: «
Đông thập nguyệt cấm Thiên hạ học Hoa Lang đạo. Sơ
hữu Hoa Lang quốc nhân nhập cư quốc trung lập vi dị đạo
thuỳ [*] hoặc ngu dân. Bì phu bì phụ đa tín mộ chi... »
[* Tôi xin sửa lại chữ ? « thuỳ » đọc ? « quái »].
Dịch tiếng Việt: « Mùa đông, tháng 10, cấm người
trong nước học đạo Hoa Lang. Trước đây có người nước
Hoa Lang vào ở nưóc ta lập ra đạo lạ để lừa phỉnh
dân ngu. Bọn đàn ông đàn bà nhiều kẻ tin mộ, v.v. ».
Xem bộ ?????? Đại Việt sử ký toàn thư do Hà Văn Tấn
chủ biên, Hà Nội, nxb Khoa học Xã hội, 1993, tập iv, tr.
621 (bản chữ Hán), và tập iii, tr. 264 (bản tiếng Việt).
2 Xem, chẳng hạn Nguyễn
Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, quyển 1, Sài
Gòn, NXB Hiện Tại, 1959, tr. 23. Đỗ Quang Chính, đã nghiên
cứu nhiều tư liệu chính gốc, cắt nghĩa đúng hơn ở
đây là tên gọi của người Bồ Đào Nha; nhưng ông cũng
đã chấp nhận cách hiểu xuất xứ tên ấy như vậy. Xem
Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, Sài Gòn, Ra Khơi, 1972,
tr. 31. Chữ ? « lang », bằng tiếng Hán-Việt thường
dùng, nghĩa là « người đàn ông còn trẻ ».
3 Mới đây có Hoàng Tiến,
Chữ Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế
kỷ XX, quyển I, Hà Nội, NXB Lao Động, 1994, tr. 39-40.
Giả
thuyết thứ hai, hiện nay đang được phổ biến tại Việt
Nam, lại đáng nể vì hơn, vì có nguồn gốc khá cổ, lại
gắn với tên tuổi một nhân vật lịch sử có kiến thức
về Đông phương học. Năm 1856 vua Dực Tông (Tự Đức)
đã ủy nhiệm một hội đồng, do Phan Thanh Giản làm tổng
tài (chủ bút), soạn lại bộ Quốc sử Việt Nam. Năm
1859 việc này đã hoàn tất, và vào năm 1884 được in,
nhan đề là 欽定越史通鑑綱目
Khâm
định Việt sử thông giám cương mục.
Về năm Quý Mão, năm Cảnh Trị thứ nhất đời vua Lê
Huyền Tông, tức là 1663, sách này có đề mục (綱
« cương »)
là: 申禁爺蘇左道
« Thân
cấm Gia tô tả đạo »,
nghĩa là « Việc cấm tả đạo là Kitô giáo ».
Rồi bày tỏ (目
« mục »)
là: 先是有西洋人號花
郎夷入居國中 以爺蘇異道 誑誘愚民 « Tiên
thị hữu Tây dương nhân hiệu Hoa
Lang
di nhập cư quốc trung dĩ Gia tô dị đạo cuồng dụ ngu
dân... »,
nghĩa là: « Trước đấy có người nước ngoài thuộc
phương Tây, được gọi là ngoại bang Hoa
Lang,
đã nhập cư vào nước này đem dị giáo là Kitô giáo,
lừa bịp dân ngu đi theo... ». Sau đó ủy ban Phan
Thanh Giản đã thêm vào một chú thích (註
« chú »)
là: [花郎]
明史外國傳謂之和蘭
亦在西洋者俗訛為花郎 « Hoa
Lang:
Minh sử ngoại quốc truyện
vị
chi Hoà
Lan
diệc tại Tây dương giả tục ngoa vị Hoa
Lang »,
nghĩa là: « Cuốn Ngoại
quốc truyện
của Minh
sử ghi
họ là Hoà
Lan,
cũng thuộc về phương Tây; nhưng tục lệ sai lầm [biến
đổi tên này] thành Hoa
Lang ».
Cho dù
kính trọng công việc của Phan Thanh Giản, nhưng không thể
chấp nhận giả thuyết này được, vì đi ngược với
các tư liệu lịch sử. Thời Minh, Hoà Lan chiếm được
đảo Đài Loan, nên Minh
sử
cần phải quan tâm đến nước ấy, nhưng sách ấy cũng
nhắc đến ngoại bang phương Tây khác, ghi bằng tên khác,
như chúng ta sẽ thấy sau này.
Hoà Lan và Việt-nam
Thực thế người phương
Tây đầu tiên đến Việt Nam, và cả Đại Minh (Trung
Hoa), là người Bồ Đào Nha; gần 80 năm sau, người Hoà
Lan mới tới, và tên gọi Hoa Lang đã có từ trước. Quả
vậy, năm 1514, tàu buồm Bồ Đào Nha dến Trung Hoa, và năm
1524 đến Việt Nam lần đầu tiên. Đến khoảng năm 1580
đã có những quan hệ thương mại thường xuyên giữa
người Bồ Đào Nha trú ở 澳門
Áo Môn (Macao)
với xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn Hoàng. Trái lại, năm
1579 nước Hoà Lan, trước đấy là một phần của lãnh
thổ Tây Ban Nha, mới tuyên bố độc lập; mãi đến 1599
tàu buôn của Hoà Lan mới vượt bán đảo Mã Lai đi vào
vùng Biển Đông; và đến năm 1601 họ mới đến thử
thời vận tại Việt Nam, nhưng không thành công. Hơn nữa,
thời đó ở Việt Nam đạo Thiên Chúa (đạo Công giáo La
mã) đã bắt đầu được truyền bá ở một số vùng.
Còn ở Hoà Lan, đạo La mã đang bị cấm, và tôn
giáo chính thống lại là đạo Tin lành. Mãi đến cuối
thế kỷ 19, đạo Tin lành mới có mặt ở Việt Nam.
---------------------------------------------
4 Xem bài của Philippe
Langlet, « Un État national au sein de la civilisation chinoise »,
trong Bulletin de la Société des Études Indochinoises, tập
45/2-3, Sài Gòn 1970 (tr. 2-85): tr. 5-6.
5 So sánh chú thích số 1
trên đây.
6 Xem ???????? Khâm định
Việt sử thông giám cương mục, chính biên, quyển 33,
trang 5b. Nguyên bản chữ Hán trong BSEI, tập phụ thêm số
45/2-3, Sài Gòn 1970, tr. 9; bản do P. Langlet dịch ra tiếng
Pháp và chú thích, trong BSEI, tập 45/2-3, Sài Gòn 1970, tr.
100. Xem thêm Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
bản do Viện sử học Việt Nam dịch ra tiếng Việt, tập
16, Hà Nội, NXB Văn Sử Địa, 1960, từ tr. 1509.
7 Xem Khâm định Việt sử
thông giám cương mục, chính biên, quyển 33, trang 6a, trong
BSEI, tập 45/2-3, 1970, tr. 101-102, và tập phụ thêm, tr. 9.
8 Xem ?? Minh sử, quyển
321. Mục thời luận Minh sử được biên tập từ năm
1679, hoàn tất vào năm 1742.
9 Xem ?? Minh sử, quyển
325.
10 Xem, chẳng hạn
Pierre-Yves Manguin, Les Portugais sur les côtes du Viêt-nam et du
Campa, Étude sur les routes maritimes et les relations commerciales,
d’après les sources portugaises des XVI e , XVII e et XVIII e
siècles, Pari, E.F.E.O., 1972.
Rồi về
mặt ngữ âm học thật khó hiểu vì sao hai chữ 和蘭
« Hoà
Lan » (hoặc 荷蘭
« Hà
Lan ») đã được đọc thành 花郎
« Hoa
Lang ». Đáng tiếc là có tác giả, trái với Cương
mục,
đã tự ý « sửa chữa » những bản văn chính
gốc, bằng cách thay thế từ ngữ « Hoa Lang »
thành « Hoà Lan », « Hà Lan ». Trong lúc
đó vào thế kỷ 17 người Việt Nam chưa có tên gọi
« Hoà Lan / Hà Lan »; họ gọi nước ấy là « Ô
Lan », và dân đó là « Ô Lan Đê », phiên âm
tên gọi của nước và dân Hoà Lan từ trong tiếng Bồ
Đào Nha
Đáng
nhớ rằng các tư liệu tiếng Bồ Đào Nha viết đầu thế
kỷ 17 ở vùng Biển Đông đều thường gọi người Hoà
Lan là « giặc » (« rebeldes »),
« kẻ cướp » (« ladrões »),
« bọn giặc biển » (« piratas »),
hay « hải tặc » (« cossairos »).
Rất có thể Trung Hoa không những phiên âm tên gọi của
họ, còn đối chiếu họ với những bọn cướp biển
khác, mà ghi tên họ bằng cũng một chữ. Đó là 倭寇
« Wokòu »,
những hải tặc khét tiếng người Nhật, hoành hành từ
thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 men bờ biển Trung Hoa, sau này
họ bị người Bồ Đào Nha đánh tan; 寇
« kòu »
đọc theo âm Hán-Việt là « khấu », nghĩa là
« kẻ cướp, giặc ». Tên gọi này « Wo »,
chỉ người Nhật với nghĩa xấu, được ghi ở Trung Hoa
bằng hai chữ khác nhau: chữ 倭
(Hán-Việt:
« oa » hoặc « oải »), được đọc là
« wo »
trong tiếng Bắc Kinh; và chữ 和
(Hán-Việt:
« hoà »), được đọc là « wo »
trong phương ngữ Quảng Đông.
--------------------------------------------
11 Đúng hơn, lúc bấy giờ
Hoà Lan chỉ là « Tập hợp các Tỉnh Đất-Thấp », «
Provinces- Unies des Pays-Bas », dần dà sau đó mới trở
thành một nước độc lập.
12 Thư mục về các cuộc
hành trình phát kiến của các nước châu Âu thật quá
phong phú. Xem, chẳng hạn W.J.M. Buch, « La Compagnie des Indes
néerlandaises et l’Indochine », trong Bulletin de l’EFEO, số
36, năm 1936, tr. 97-196.
13 Sách Khâm định Việt
sử thông giám cương mục, ở chỗ đã dẫn, trang 6b, có
thêm một chú thích khác là: [??] ????????????
????????????????? ??? ????????… « Gia tô: Dã lục Lê Trang Tôn
Nguyên hoà nguyên niên tam nguyệt nhật dương nhân danh
Y-nê- xu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cương Quần Anh Giao Thủy
chi Trà Lũ âm dĩ Gia tô tả đạo truyền giáo... », nghĩa
là: « Các sách dã lục [tức là dã sử] chép rằng vào
năm Nguyên hoà thứ nhất, tháng ba, ngày..., đời vua Lê
Trang Tông, [tức là năm 1533], có một người nước ngoài
tên là Y-nê- xu lén lút tới các làng Ninh Cường và Quần
Anh ở huyện Nam Chân [nay thuộc xã Trực Phú và thị trấn
Yên Định, Hải Hậu, Nam Định], và Trà Lũ ở huyện
Giao Thủy [nay thuộc xã Xuân Bắc, Xuân Thủy, Nam Định],
để truyền bá tả đạo là Kitô giáo... ». Xem BSEI, tập
phụ thêm số 45/2-3, tr. 10, và BSEI, tập 45/2-3, tr. 102. Xem
thêm Hồng Lam, Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam thế
kỷ XVI-XVIII, Huế, Đại Việt, 1944, tr. 101-104.
???????????????????? ????????… « Gia tô: Dã lục Lê Trang Tôn
Nguyên hoà nguyên niên tam nguyệt nhật dương nhân danh
Y-nê- xu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cương Quần Anh Giao Thủy
chi Trà Lũ âm dĩ Gia tô tả đạo truyền giáo... », nghĩa
là: « Các sách dã lục [tức là dã sử] chép rằng vào
năm Nguyên hoà thứ nhất, tháng ba, ngày..., đời vua Lê
Trang Tông, [tức là năm 1533], có một người nước ngoài
tên là Y-nê- xu lén lút tới các làng Ninh Cường và Quần
Anh ở huyện Nam Chân [nay thuộc xã Trực Phú và thị trấn
Yên Định, Hải Hậu, Nam Định], và Trà Lũ ở huyện
Giao Thủy [nay thuộc xã Xuân Bắc, Xuân Thủy, Nam Định],
để truyền bá tả đạo là Kitô giáo... ». Xem BSEI, tập
phụ thêm số 45/2-3, tr. 10, và BSEI, tập 45/2-3, tr. 102. Xem
thêm Hồng Lam, Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam thế
kỷ XVI-XVIII, Huế, Đại Việt, 1944, tr. 101-104.
14 Bằng tiếng Trung Hoa
Bắc Kinh cũ, hai chữ ? (hoà) và ? (hà) đều được đọc
là « hô », và hôm nay là « hơ ».
15 Xem, chẳng hạn Hồng
Lam, s.đ.d., tr. 105.
16 Ví dụ, ghi bằng chữ
Hán trong quốc thư chúa Trịnh Tráng gửi nhà nước Hoà
Lan vào năm 1637: xem Võ Long Tê, « Thiên Chúa Thánh Giáo
khải mông », trong sách tập hợp Về sách báo của tác
giả Công giáo (thế kỷ XVII-XIX), T.P. Hồ Chí Minh, Trường
Đại Học Tổng Hợp, 1993, tr. 39. Ví dụ ghi bằng chữ
Quốc ngữ trong thư ‘Igesico’ [đúng hơn là Igênio] Văn
Tín viết vào năm 1659, xem Đỗ Quang Chính, s.đ.d. tr. 95.
Chúng
ta dễ hiểu vì sao có nhiều tên gọi đều chỉ Hoà Lan.
Đầu thế kỷ 17, có tên từ tiếng Bồ Đào Nha phiên âm,
ở Việt Nam là « Ô Lan » (烏,
nghĩa là « quạ, đen », hoặc 污,
nghĩa là « bẩn »?, + 蘭);
ở Bắc Kinh là 倭蘭
« Wo
Lan »;
và ở Quảng Đông (gồm cả thành phố Áo Môn của người
Bồ Đào Nha) là 和蘭
cũng nói là
« Wo
Lan »,
với sắc thái xấu; sau đó tên Quảng Đông này được
truyền đến Việt Nam đọc là « Hoà Lan ». Cuối
cùng, ở giữa thế kỷ 20, tên tiếng Trung Quốc phiên âm
từ chính tiếng Hà Lan là 荷蘭,
đọc trong « phổ thông thoại » Trung Quốc hiện
đại là « Hơ
Lan »,
nhưng trong tiếng nói cũ (và ở Quảng Đông vẫn còn) là
« Hô
Lan »,
mới được truyền sang Việt Nam, và đọc là « Hà
Lan ».
Còn hai
ba tên gọi phiên âm khác đều chỉ Hoà Lan nữa. Thời 清
Thanh triều,
ơœ giữa thế kyœ 18, có cuốn sách của hai quan lớn 張汝霖
Trương Nhữ
Lâm và 印光任
Ấn Quang
Nhiệm, 澳門記略
Áo
Môn ký lược,
giải thích rằng thời Minh Triều người 賀蘭
« Hơ
Lan »
(cách đọc cũ và ở Quảng Đông: « Hô
Lan »;
Hán-Việt: « Hạ Lan ») đã được gọi là 和蘭
« Wo
Lan »
(Hán-Việt « Hoà Lan ») hoặc 紅毛繁
(Hán-Việt
« Hồng Mao Phồn », nghĩa là « tóc mầu đỏ
um tùm »). Rôi còn tên gọi 紅夷
« Hồng
Di », nghĩa là « người ngoại quốc [dạ, tóc...]
đỏ », cũng sử dụng để chỉ người Anh Quốc.
Tóm
lại, tên gọi « Hoa
Lang »
không có liên quan nào đó đến nước Hoà Lan hoặc người
Hoà Lan caœ.
Tên
gọi « Hoa Lang » đã
xuất hiện trong tiếng Việt
từ
bao giờ ?
Cho đến
nay cuốn sách nổi tiếng của giáo sĩ Christoforo Borri có
lẽ vẫn là tài liệu in sớm nhất ghi lại sự xuất hiện
tên gọi « Hoa Lang ». Sách này, viết bằng tiếng
Ý, in năm 1631 tại châu Âu; có một câu được tác giả
dẫn ra bằng tiếng Việt, phiên âm theo nguyên
tắc thường dùng của tiếng Ý một cách hơi vụng
về, nhưng lại dễ đọc đối với độc giả người Ý:
« Con
gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam? »,
nghĩa là « Con nhỏ muốn vào trong lòng
Hoa Lang
chăng? ». Sau Borri, có nhiều giáo sĩ khác cũng cho
rằng dân chúng Việt Nam gọi họ, và thứ tôn giáo mà họ
đang truyền bá, bằng tên đó.
Trước
Borri mấy chục năm, trong cuốn 杜族家譜
Đỗ
tộc Gia phả,
làng Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá, có nhắc
đến một người duy nhất trong họ đã theo một tôn giáo
khác: 二男興遠從花郎道
« Nhị
nam Hưng Viễn tùng Hoa
Lang đạo »,
nghĩa là « Con trai thứ là Hưng
Viễn, theo
đạo
Hoa Lang ».
Chuyện này xảy ra thời vua Lê Anh Tông (1558-1571), còn
cuốn Gia phả dòng họ Đỗ được ghi vào những năm cuối
thế kỷ 16, trước khi chuyến tàu đầu tiên của người
Hoà Lan tới.
Đây là một tài liệu
rất đáng chú ý, là tài liệu chính gốc bản địa, do
người bản địa viết bằng chữ vuông. Cũng như trước
đây, để hiểu rõ hơn ý nghĩa chính xác của tên gọi
« Hoa Lang » mà chỉ dựa vào văn liệu Phương
Tây là chưa đủ, còn phải cần đến thế giới chữ
vuông. Nói đúng hơn, nên có mối trao đổi văn hoá hỗ
tương rộng lớn giữa Phương Đông với Phương Tây.
-----------------------------------
17 Xem Mai Lý Quảng [chủ
bin], 現代漢越詞典
Từ điển
Hán-Việt hiện đại, TP Hồ Chí Minh, NXB Thế Giới, 1994,
tr. 379 v 1000; xem thm 植漢民
Thực Hn Dn v
吳林嬋玉
Ngơ Lâm Thiền
Ngọc, 漢英小字典
Hán-Anh tiểu
tự điển / Chinese-English Dictionary, Cantonese in Yale
Romanization, Mandarin in Pinyin, Hồng Kơng, New Asia, 1994, tr.
57.
18 o Mơn ký lược : bản
viết tay năm 1746, xuất bản 1751. Tiếc rằng tôi chỉ xem
được bản do Luís Gonzaga Gomes dịch ra tiếng Bồ đào
Nha: Tcheong-UŠ- Lam et Ian-Kuong-Im, Ou-Mun Kei-Lok. Monografia de
Macau, o Mơn / Lisboa, nxb Quinzena de Macau, 1979, tr. 190.
19 Xem 章文欽
Chương Văn
Khâm [Zhang Wenqin], « Macao and Japan during the Qing [Thanh]
dynasty », trong RC - Review of Culture, (Viện Văn Hoá Áo Môn),
tập II, số 29, th. 10-12/1996, tr. 85-110: tr. 86. Culture, (Viện
Văn Hoá Áo Môn), tập II, số 29, th. 10-12/1996, tr. 85-110:
tr. 86.
20 Christoforo Borri,
Relatione della nvova Missione delli PP. della Compagnia di Giesu, al
Regno della Cocincina, Rơma, Francesco Corbelletti, 1631, tr.
107-109
Tên gọi « Hoa
Lang » có nghĩa chính xác là gì?
Văn bản
đầu tiên giải thích tên gọi đó trong tiếng Việt hình
như là cuốn Phép
giảng tám ngày
của Alexandre de Rhodes, in năm 1651. Ông viết: « Chớ
có nói, đạo nầy là đạo
pha lang »,
và bên cạnh chính ông đã dịch ra tiếng La tinh là:
« Neque
verò dicatis hanc esse Lusitanorum
legem »,
nghĩa là « Đừng nói đây là tôn giáo của người
Bồ Đào Nha ».
Dị bản là « Pha
lang »
thay thế « Hoa Lang » có ích lớn về mặt ngôn
ngữ học, như chúng ta sẽ thấy sau đây.
Các tư liệu cho đến nửa
thế kỷ 18 mà tôi đã xem được đều cắt nghĩa rất rõ
« Hoa Lang » là một tên gọi riêng người Bồ
Đào Nha (Portugal) mà thôi, chứ không bao gồm cả những
người Tây phương khác.
Đến
năm 1773, có một lá thư do một giáo sĩ người Việt, tên
là Vixentê Liêm, gửi một giáo sĩ người Tây Ban Nha, viết
bằng chữ Quốc ngữ, và cùng thời đó đã được người
Tây Ban Nha dịch ra tiếng La tinh. Thư này kể lại cuộc
gặp gỡ giữa chúa Trịnh Sâm (1767-1786) với một giáo sĩ
Tây Ban Nha khác. Chúa hỏi: « Vua
Hoa Lan có
một thùng thủy tinh để mà tắm gị , có chăng? ».
Bản tiếng La tinh đã dịch ra theo nghĩa thông thường là:
« Fertur,
quod Rex
Lusitaniae magnum
vas vitreum ad balneum habet. Estne certum? »,
tức là: « Người ta cho rằng Vua
Bồ Đào Nha
có... ». Nhưng chúng ta có thể dễ dàng thấy người
hỏi không phân biệt Tây Ban Nha với Bồ Đào Nha; và từ
« Hoa Lang »
đã
bị nói, hoặc chép lại, chệch thành « Hoa
Lan »,
có thể dưới ảnh hưởng của tiếng « Ô Lan ».
Nghĩa chính xác là « Bồ Đào Nha » đã dần dần
phát triển thành một nghĩa rộng, chỉ người Âu châu
theo đạo Thiên Chúa, rồi chỉ người Phương Tây nói
chung.
-----------------------------------
21 Xem Đỗ Quang Chính,
s.đ.d., tr. 30; Nguyễn Hồng, s.đ.d. tr. 62.
22 Xem bài của Léopold
Cadière, « Về nhà họ Đỗ thuộc làng Bồng-trung tỉnh
Thanh-hoá », trong sách của Hồng Lam đã dẫn, tr. 124-138;
bản chữ Hán được chép lại tr. 125, dịch nghĩa tr. 126.
Và Nguyễn Hồng, s.đ.d., tr. 23-24; bản chữ Hán được
dịch nghĩa tr. 23, phiên âm c.t. 5. Xem thêm Bulletin des Amis
du Vieux Huế, th. 1-3 năm 1941, tr. 99. Người em trai của
Hưng Viễn là Đỗ Công Biều đỗ cống sinh (tức là cử
nhân) vào năm Chính Tự thứ bảy, tức năm 1564.
23 Phép Giảng Tám Ngày,
T.P. Hồ Chí Minh, Tủ sách Đại kết, 1993, tr. 25 của bản
văn sông ngữ.
24 Thư mới phát hiện
trong Viện lưu trữ Vatican (bộ « Riti », tập 3016, tr.
712-717), đang chuẩn bị để xuất bản.
25 Theo cuốn từ điển
của J.-L. Taberd (Nam Việt Dương Hiệp tự vị,
Dictionnarium Annamitico-Latinum, Serampore [Ấn Độ], J.C.
Marshman, 1838), từ « gị » này là một « từ trống »
được một số người thêm ở cuối câu.
Đúng
ra là phải khen hai cuốn từ điển của Bá Đa Lộc
(Pigneau de Béhaine) – bản thảo vô giá hoàn tất năm 1772
– và của Taberd, soạn trên cơ sở đó và xuất bản năm
1838. Cả hai đều cắt nghĩa thật hoàn hảo: « Hoa
Lang 花郎 »
là « Người
Bồ Đào Nha »;
và « đạo
Hoa Lang »
theo Taberd là « Tôn
giáo của người Bồ Đào Nha tức là Cơ đốc giáo ».
Nhưng từ khoảng năm 1802, tàu Bồ Đào Nha đã về Áo Môn
không quay lại nữa, đem theo cả những kỷ niệm của
những người Bồ này, nên không còn bóng dáng của họ ở
chân trời đất Việt. Cùng với sự rút lui của người
Bồ Đào Nha, nghĩa chính xác của từ « Hoa
Lang »
cũng đã bị mất đi.
Nhóm
soạn Khâm
định Việt sử thông giám cương mục
đã tìm đến Quốc sử Trung Hoa (Minh
sử),
nhưng giải thích không đúng. Còn từ điển của Huỳnh
Tịnh Của cắt nghĩa như sau: « Người
nước Hoa Lang, hiểu chung là Lữ-tống ».
« Lữ-tống »,
và « Đại
Lữ-tống »,
lại được định nghĩa là: « Nước
Maní »,
tức là Phi-líp-pin, và « nước
Y-pha-nho »,
tức là Tây Ban Nha. Các sai lầm của Phan Thanh Giản và
của Huỳnh Tịnh Của đã kéo theo sai lầm của những
người sau. Mặt khác, những từ điển tiếng Việt biên
soạn về sau, kể cả Hán
Việt tự điển của
Đào Duy Anh, đã không thu thập các từ ngữ này, tuy thế
tới nay tên gọi « Hoa Lang đạo » vẫn còn tồn
tại ở một số vùng.
---------------------------------
26 [Pierre Pigneaux]
Dictionnarium Annamitico Latinum, Pari, Văn khố của Hội Thừa
sai Ba-lê xb., 2001.
27 Jean-Louis Taberd, s.đ.d.
28 Xem Pierre-Yves Manguin,
Les Nguyễn, Macau et le Portugal (1773-1802), Pari, EFEO, 1984.
29 Philiphê Bỉnh, một
giáo sĩ người Việt, đã sang Bồ Đào Nha vào năm 1796 và
đã mất ở đấy. Trong tác phẩm của ông, Bồ Đào Nha
được ghi bằng chữ quốc ngữ là « nước Portugal »
hoặc « tiếng Vutughê », và ghi theo âm Hán-Việt là «
Batưđôjaá ». Ông cũng viết nhiều về người Pháp, ghi
bằng chữ quốc ngữ là « Phalansa », và ghi theo âm
Hán-Việt là « Pháp-lang- tây ». Nha được ghi bằng chữ
quốc ngữ là « nước Portugal » hoặc « tiếng Vutughê »,
và ghi theo âm Hán-Việt là « Batưđôjaá ». Ông cũng viết
nhiều về người Pháp, ghi bằng chữ quốc ngữ là «
Phalansa », và ghi theo âm Hán-Việt là « Pháp-lang- tây ».
30 Huình-Tịnh Paulus Của,
大南國音字彙
Đại Nam Quấc
Âm Tự Vị, 2 quyển, Sài Gòn, Rey Curiol, 1895-1896. Lại
xb., bản chụp lại : Gia Định, Văn Hữu, 1974.
31 « Lữ-tống » là tên
phiên âm Hán-Việt của đảo Luy-xon, ở đó có thủ đô
Manila. Đến năm 1898, Phi-líp- pin là thuộc địa của Tây
Ban Nha.
32 Philiphê Bỉnh cũng ghi
bằng chữ Quốc ngữ Tây Ban Nha là « Hespanha » (chính đây
là chính tả tiếng Bồ Đào Nha thời đó), và ghi theo âm
Hán-Việt là « Lả-tống ». Tulano Carneiro đã phái Bỉnh
vượt đại dương và là giáo sĩ người Bồ cuối cùng ở
Việt Nam, đã mất ở Bắc Bộ vào năm 1809. Trong khi đó
các giáo sĩ người Tây Ban Nha còn hoạt động đến nửa
thế kỷ 20.
33 Xem Đào Duy Anh (biên
soạn) và Hãn Mạn Tử (hiệu đính) Hán Việt tự điển
giản yếu 漢越詞典:簡要,
xb. lần thứ 3, Sài Gòn, Trường Thi, 1957; sách này được
xuất bản lần đầu tiên vào năm 1931. Lại x.b. : [Hà
Nội], Nxb. Khoa học Xã hội, 1992 ; Tp. Hồ Chí Minh, Nxb.
Tp. HCM, 1994.
34 Xem, chẳng hạn J.F.M.
Génibrel, Từ diển Việt-Pháp, Dictionnaire
Vietnamien-Français, Sài Gòn, Nhà in Tân Định, 1898, và Tây
ngữ thích Nam tổng ước, Nouveau dictionnaire
français-annamite, Sài Gòn, Impr. Mission; Jean Bonet,
Dictionnaire Annamite-Français / Đại Nam Quốc âm tự vị hợp
giải Đại Pháp quốc âm, 2 t., Pari, Nhà in Quốc gia,
1899-1900; Hội Khai trí Tiến đức Khởi thảo, Việt Nam tự
điển, Hà Nội, Trung Bắc Tân Văn, 1931; Gustave Hue,
Dictionnaire Annamite-Chinois- Français, 1937; Eugène Gouin,
Dictionnaire Vietnamien-Chinois- Français, Sài Gòn, Nhà In Viễn
Đông [IDEO], 1957; và những từ điển được xuất bản
gần đây.
Tên gọi « Hoa
Lang » có nguồn gốc là gì?
Ở các phần trên, chúng
ta đã xác định đúng đắn nghĩa của từ « Hoa
Lang » được dùng trong tiếng Việt, nhưng chúng ta
chưa truy cứu nguồn gốc của nó, và cách nó đã nhập
vào từ vựng của người Việt.
Gốc xa
xăm đã bắt nguồn bởi từ « Francs »,
« Franken »,
« Franchi »;
các từ này tồn tại trong các ngôn ngữ châu Âu, nhằm
chỉ một dân tộc gốc Đức, tức là người Frăng. Họ
là nền móng của đế quốc Saclơmanhơ (Charlemagne), khoảng
năm 800 thống trị phần lớn Tây Âu. Thuở đó, người Ả
rập theo Hồi giáo, đã gọi địch thủ này của họ là
« al-Ifranj »
Wỉ@jỉ@¯C (số nhiều và văn chương) – tiếng Ả Rập
không có tổ hợp phụ âm đầu « fr », nên phải
thêm nguyên âm « i » ở trước –; rồi từ đó
lại thành ra « Faranj »
Wỉ@j@¯
(số
ít bằng tiếng dân gian) theo nguyên tắc tiếng Ả Rập;
và « Ifranji »
@Vỉ@jỉ@¯G
hoặc « Faranji »
@Vỉ@j@¯ (tính
từ). Thời có các cuộc thập tự chinh (1096-1254), đạo
binh Tây Âu, vẽ dấu Thánh giá lớn trên các áo giáp và
trên cờ hiệu, tiến đánh đế quốc Hồi giáo để giải
thoát Thánh Địa và thành Giêruxalem.
Như
thế, tên gọi « Faranj
/ Ifranji... »,
được phổ biến ở các vùng Trung Đông, là từ phiên âm
để gọi quân thù. Cần chú
ý là ở
một số phương ngữ của tiếng Ả rập (Ai Cập, Ba
Tư...), phụ âm cuối
X
« j », / /, được đọc như / g /.
Cuối thế kỷ 15, đầu
thế kỷ 16, khi tàu thuyền Bồ Đào Nha vượt mũi Hảo
Vọng vào Ấn Độ Dương, các cánh buồm cũng có những
hình Thánh giá rất to. Thực tế, tư tưởng thập tự
chinh vẫn còn mạnh trong giới cầm đầu; họ vẫn hy vọng
chinh
phục
được người Hồi giáo. Quả thế, người Bồ Đào Nha
đã thống trị trên biển, rồi chiếm được một số
pháo đài, hải cảng, địa điểm thương mại chính của
chính quyền Hồi giáo ở Ba Tư và Ấn Độ. Thời kỳ này
đã kết thúc vào năm 1511 khi họ chiếm thành quốc Malaca
ở bán đảo Mã lai, là đầu mối giao thông giữa Tây
phương và Ấn Độ với Nam Dương, Trung Hoa và Nhật Bản.
Thủ lĩnh Hồi giáo của Malaca đã chạy trốn về Bắc
Kinh xin nhà Minh trợ giúp; và tiếng kinh sợ khi dùng gọi
người Bồ Đào Nha là « quân thập tự » –
« Faranj(i)
/ Ifranj(i) »
(hoặc « Farang(i)
/ Ifrang(i) »)
– , đã thành tên gọi phổ biến tại địa phương. Xuất
phát từ tiếng Ả Rập, tiếng Ba Tư, hai cặp từ này
cũng đã du nhập vào các thứ tiếng cùng tồn tại trong
dân cư và thủy thủ từ tứ phương tạo nên thành quốc
Malaca.
---------------------------------
35 Ví dụ ở vùng Hưng
Yên, và cả ở giữa dân cư gốc Việt ở Nam Vang (Phnom
Penh, Cam Bốt). Đáng kể ở Phnom Penh, trước cơn khủng
hoảng Khơ-me đỏ, có một nhà thờ mang tên là « Hoa Lang
»; trong khi giáo dân ở Cam Bốt thời đó đa số là người
Việt, nhà thờ này dành riêng cho một nhóm giáo dân
Khơ-me, đã nhập đạo từ lâu đời, và vẫn còn mang
những tên họ Bồ Đào Nha theo truyền thống cổ (như ở
Ấn Độ v.v.).
36 Xem bài của Luís Filipe
Ferreira Reis Thomaz, « Os Frangues na terra de Malaca » [người
« Frăngơ » trên đất Malaca], trong tập sách do Francisco
Contente Domingues chủ biên: A abertura do mundo: estudos de
história dos descobrimentos europeus [Việc mở rộng thế giới:
nghiên cứu lịch sử hành trình phát kiến của người Âu
châu] 2 quyển, Lisboa, Presença, 1986: q. 1, tr. 209-217, nhất
là c.t. 6 ở tr. 216.
37 Xem Roland Jacques, Les
destinataires de la mission « ad gentes » en droit canonique. La
genèse du droit missionnaire de l’Église catholique : le cas de
l’Extrême-Orient, bài luận án tiến sĩ được bảo vệ
tại Đại học Pari-XI ngày 8 th. 12 năm 2000, chương 3 (sắp
xb. tại Pari, Cerf, 2002).
38 Xem, ví dụ Charles Ralph
Boxer, The Portuguese seaborne empire 1415-1825, Luân Đôn,
Hutchinim Niu Yooc, Knopf, 1969; Geneviève Bouchon, Albuquerque: Le
lion des mers d’Asie, Pari, Desjonquères, 1992.
Nhưng bên này bán đảo
Mã Lai, sau năm 1511, chính sách của Bồ Đào Nha đã hoàn
toàn khác: họ cố gắng giao hảo với chính quyền địa
phương, ký hiệp ước hữu nghị và thương mại, nên
tiếng dùng để gọi họ cũng đã mất đi cái sắc thái
hằn học và hãi hùng.
Ở
Malaca, theo các tài liệu cũ, tên gọi người Bồ là
« Frangue(s) »,
/ fr©#Ž.ɡ6
/ (theo mẫu « Ifrang »,
đã mất đi nguyên âm phụ trợ ở đầu). Trong tiếng Mã
lai và In-đo-nê-xia hiện nay vẫn còn sử dụng từ
« Perenggi »
(theo mẫu « Farangi »),
còn tiếng Thái Lan thì dùng từ « Farang »,
để gọi người Âu châu với sắc thái hơi coi thường;
và tại những nước đó, đạo Thiên Chúa cũng bị gọi
là tôn giáo của người « Perenggi »
hoặc « Farang ».
Thành phố Malaca thời bấy
giờ gồm có ba phường của người Trung Hoa, phường của
người 福州
Phúc Châu (Bắc
福建
Phúc Kiến),
phường của người 漳州
Chương Châu
(Nam Phúc Kiến), và phường của người
廣州
Quảng Châu.
Qua trung gian của nhóm
người này, tiếng ám chỉ người Bồ Đào Nha đã sớm
được truyền đến nhiều vùng ở Trung Hoa, và chắc chắn
được ghi lại nhờ những chữ thích hợp theo từng
phương ngữ.
Năm
1517, một học giả về ngành khoa học thiên nhiên tên là
Tomé Pires, người Bồ, được phái từ Malaca sang Bắc
Kinh trong một phái đoàn ngoại giao, đã gặp chuyện chẳng
lành. Mục thời luận 明史
Minh
sử
năm 正德
Chính Đức
thứ 16 (1521) còn nhắc đến một khẩu đại bác, có tên
gọi là 佛郎機
« Fo-lang-ji »,
dạo ấy bị tước đem về Bắc Kinh trình lên hoàng đế
武宗
Vũ Tông; nhưng
sau xác định tên đó nghĩa đen là tên gọi một loại 洋人
« dương
nhân »
(người nước ngoài), chứ không phải một loại súng
lớn. Chuyện này cũng được truyền lại trong niên giám
vương triều Bồ Đào Nha thời Vua Giu-ong (João) III
(1521-1557), nói ve việc người Trung
Hoa đã lấy mẫu khí giới Bồ Đào Nha để đúc theo, và
gọi tên loại khí giới đó là « feringui »,
/ f6.riŽ.gi
/ . Từ « faranji
/ faranghi »
đến« fo-lang-ji »
không xa. Tiếng Trung Quốc thường đọc chữ /R/ trong
các từ ngoại ngữ thành / L/, và nguyên âm đầu phụ trợ
bị thay đổi là điều cũng rất dễ hiểu.
------------------------------------
39 Malaca thời bấy giờ
gồm nhiều phường tự chủ cho mọi dân tộc, dưới
quyền tối cao của thủ lĩnh. Người Bồ Đào Nha vẫn
giữ lại chế độ này, chỉ thêm một phường riêng và
kế chân thủ lĩnh.
40 Xem thêm Roland Jacques,
De Castro Marim à Faðfo : Naissance et développement du padroado
portugais d’Orient des origines à 1659 [Từ Castro Marim tới
Hội An: sự khai sinh và phát triển của chế độ bảo
trợ tôn giáo ở Phương Đông của Bồ Đào Nha, từ khởi
thủy đến năm 1659], Lisboa, Fundação Calouste Gulbenkian,
Serviço de Educação, 1999.
41 Cũng có thể đọc là
« Peranggi » hoặc « Peringgi ».
42 Xem Luís Filipe Ferreira
Reis Thomaz, n.đ.d.
43 Xem Minh sử, quyển 325.
Ở chỗ này tôi đã dẫn theo sách của Beatriz Basto da
Silva, Cronología da história de Macau [Niên đại lịch sử Áo
Môn], Áo Môn, Sở Giáo dục, 1992, tr. 25. Theo cuốn sách
này Minh sử còn nêu những người « Fu lang chi » ở nhiều
chỗ khác nữa: ví dụ vào năm 1614-1617, khi hoàng đế 明神宗
Minh Thần Tông
(萬曆
Vạn Lực)
quyết định quan và dân nên hoà thuận với họ (n.đ.d.).
Về các vấn đề này, xem thêm 黃鴻釗
Hoàng Hồng
Chiêu [Huang Hongzhao], « Portuguese settlement in Macao and
cultural exchange between China and the outside world », trong RC -
Review of Culture, (Viện Văn Hoá Áo Môn), tập ii, số 29,
th. 10-12/1996, tr. 67-84: tr. 73-76.
44 Beatriz Basto da Silva,
s.đ.d., tr. 26
45 Cũng có nơi viết: 佛朗機
hoặc 拂狼機.
Xem Charles Ralph Boxer, South China in the 16 th century. Being the
narratives of Galeote Pereira, Fr. Gaspar da Cruz, Fr. Martin de
Rada, 1550-1575, Luân Đôn, Hakluyt Society, 1953; Nendeln
(Liechtenstein), Kraus Reprints, 1967, tr. 365. Cách đọc như
sau: (1) 佛郎機
bằng tiếng
Bắc Kinh là « fó-láng- ji », Hán-Việt « phật-lang- cơ
»; (2) 佛朗機
Bắc King «
fó-lžang-ji », Hán-Việt « phật-lãng- cơ »; (3) 拂狼機
Bắc King «
fú-láng- ji », Hán-Việt « phất-lang- cơ ». Cách viết
thứ hai có nghĩa tốt: 佛
« Phật »
nghĩa là « Bụt », còn 朗
« lãng »
nghĩa là « sáng sủa ». Cách viết thứ ba có nghĩa xấu:
拂
« phất »
nghĩa là « làm trái »; còn 狼
« lang » nghĩa
là « chó sói ».
Vả lại
từ « fo-lang
[-ji] »
chuyển sang « hoa lang » cũng khá gần gũi. Có thể
chữ thứ ba bị bỏ đi vì được coi như chữ 之
(Hán Việt
« chi ») là một trợ từ vô nghĩa, hoặc là dùng
giữa định ngữ và danh từ trung tâm trong tiếng Hán cổ,
nghĩa là « của »: « ‘Fo
lang’ chi
pháo »
là « súng
đại bác của
người
‘Fo lang’ ».
Có một giả thiết khác: song song với dạng tiếng
Ả rập
hoặc Mã Lai, từ « Farang »
của tiếng Xiêm cũng được truyền miệng đến Trung Hoa.
Nếu đúng, thì riêng tiếng « Farang »
này được người Quảng Đông phiên âm bằng chữ
Hán. Về
sự luân phiên « rang
/ lang »
thì chúng ta đã biết rồi. Và trong phương ngữ Quảng
Đông, chữ Hán-Việt 花
« Hoa »
được đọc là « Fa ».
Từ Quảng Đông sang Việt Nam hồi giữa thế kỷ 16, thì
có cả hai dạng, đều dùng để gọi người Bồ Đào
Nha, và sau đó cũng để chỉ tôn giáo mà họ « rao
giảng ». Dạng truyền miệng là « Falang »,
được ghi bằng chữ Quốc ngữ là « Pha
lang »,
đúng như Alexandre de Rhodes đã viết trên sách Phép
giảng tám ngày của
ông; và dạng viết bằng chữ vuông
花郎,
được người Việt đọc là « Hoa
lang »,
sau đấy được phổ biến ở nhiều vùng tại Việt Nam.
------------------------------
46 Về mặt ngữ âm học,
trong tiếng Bắc Kinh, 機
« ji » được
đọc là / ßi /, và 之
« zhi » là /
tˆH /. Vì đây là một từ ngoại ngữ, nên theo tôi việc
hai chữ này bị dân chúng lẫn lộn cũng hiểu được.
47 Trong quyển từ điển
của Alexandre de Rhodes, ở chỗ « Hoa, Thinh hoa » (tức là
Thinh Hoa / Thanh Hoa, nay là tỉnh Thanh Hoá, tr. 328), ông đã
giải thích: « Người Bồ Đào gọi là Sinufa [Sinh Fa?] »
đúng theo cách phát âm của Quảng Đông, gồm cả Áo Môn.
48 Người Quảng Đông đã
không sử dụng chữ 佛
hoặc chữ 拂
để phiên âm
« faranji », vì họ phát âm hai chữ ấy gần như trong
tiếng Hán-Việt; trong đó có chữ 花
tiện, vì
Quảng Đông đọc nó là « fa ».
49 Ở Trung Quốc, theo
Trương Nhữ Lâm và Ấn Quang Nhiệm, (sách Áo Môn ký lược
đã dẫn, tr. 110), tên gọi 佛郎機
« Fo-lang- ji »
chỉ riêng người Bồ Đào Nha đã được thay đổi vào
thời 清
Thanh triều
(sau năm 1644), thành 西洋人,
« Tây Dương Nhân ».