Lê
Duẩn: tai ương của người Việt Nam
Nguyễn Quang
Các phe đảng cộng sản đang giết nhau, người Việt giết người Việt, nay ghi lại về con người khởi đầu cho sự dã man, gây nên không biết bao đau thương đối với người Việt có tên Lê Duẩn, Lê Văn Nhuận hay anh Ba.
Đảng
Cộng sản gồm đầy những chuyện bí mật nhưng thật ra
chẳng có gì là không bị vén màn lên, vì toàn những
chuyện mờ ám, xấu xa, tội lỗi nên luôn ém nhẹm, rồi
gán cho cái tên bí mật để mang tính chất oai hùng, bí
hiểm của những sứ mệnh bất khả thi mà chỉ có những
người cộng sản mới làm được. Nó trở thành huyền
thoại ảo!
Các
Ủy viên Trung ương đảng, Bộ chính trị, ai cũng lấy vợ
hai, vợ ba, dựa vào quyền lực để ép duyên, hoặc dùng
thủ đoạn để lấy các thiếu nữ cỡ tuổi con mình,
như Lê Đức Thọ, Võ Quang Anh (Tham
mưu trưởng Khu 9),
Trần Văn Trà, Hà Huy Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn
Hoan,...
Từ
gia đình đã là những cái nôi đầy mâu thuẫn, tương
tranh, đánh ghen và giết nhau, cho nên đến xã hội khi con
người khởi đầu làm sao thì thường kết thúc cũng vậy!
Nét
đặc thù của nó, từ khi đảng cộng sản ra đời tại
Việt Nam đến nay, Huế, Sài Gòn, Hà Nội luôn bị yếu
tố Bắc Kỳ thống trị, thời thượng nhất với lối
nói chặn họng “chỉ có Bắc Hà mới có lý luận”. Nó
mới xứng đáng đóng vai trò lãnh đạo cả ba miền Nam
Trung Bắc. Một lối nói càng bừa từ túi tham không đáy,
gây chia rẽ dân tộc.
Bài
học lịch sử chỉ có người trong cuộc mới biết cái
bí ẩn của Nam Kỳ Khởi Nghĩa (22/11/1940),
không
phải bỗng nhiên nhóm Trung ương đảng lẫn trốn ở Hóc
Môn, Bà Điểm bị Pháp bắt trọn ổ. Đó chính là miền
Bắc "chỉ điểm cho Pháp", vì muốn dẹp cái
Trung ương đảng miền Nam để đem ra Bắc Kỳ cho người
Bắc lãnh đạo.
Họ
mượn tay người Pháp để diệt Nam Kỳ. Chính vì lẽ đó,
Phan Đăng Lưu bị bắt, bị đưa ra tòa kêu án tử hình
và Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt trước, cũng bị hành
quyết chung (28/8/1941)
với
Nguyễn Văn Cừ (Tổng
bí thư năm 1938),
Võ Văn Tần
(người Đức Hòa, Tân An, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ),
Hà Huy Tập (Ủy
viên Trung ương đảng).
Tất cả đều phải chết vì yếu tố Nam Kỳ.
Đầu
não Cộng sản dĩ nhiên luôn nằm tại Bắc Kỳ, các đảng
viên Bắc và Trung Kỳ chia nhau nắm giữ các chức vụ
then chốt trong kháng chiến cũng như sau khi hòa bình. Đó
là chủ trương thầm kín của họ Hồ.
Ngay
khi chiếm miền Nam, cộng sản phân loại để cai trị,
chỉ có loại A được nắm các cơ quan đầu não, chức
vụ chính, tất nhiên gốc Bắc, còn các chức vụ phó
giao cho loại B, thành phần trong Nam tập kết ra Bắc trở
về, và loại C là thứ yếu thuộc thành phần miền Nam
nằm vùng.
Sau
khi Nhật đầu hàng, ở Nam Kỳ, các phần tử trí thức
Nam Bộ như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Dương Bạch
Mai, Nguyễn Văn Tạo, Huỳnh Văn Tiểng, Ngô Tấn Nhơn,
Phạm Ngọc Thạch,...được dịp lên ngôi thao túng miền
Nam. Họ lập ra Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ,
muốn tách ra khỏi sự khống chế của nhóm đảng viên
Trung và Bắc Kỳ để thành lập một quốc gia CS Nam Kỳ.
Không ngờ HCM biết thâm ý này nên sai Cao Hồng Lĩnh
(tham gia Cách Mạng Thanh Niên Hội từ năm 1926),
Hoàng Quốc Việt vào Nam bắt cóc Trần Văn Giàu, Dương
Bạch Mai đem về giam lỏng ở Hà Nội.
Sự kiện trên khiến chúng ta sẽ không lấy gì làm lạ khi Nguyễn Phú Trọng đang tìm mọi cách tiêu trừ quyền lực của nhóm miền Nam. Chỉ khác lần này có yếu tố Hoa Nam ở phe miền Bắc, sự thâu tóm quyền lực không còn trở về tay người Việt, dù là Bắc Kỳ, nhưng để “trở về” trong vai trò “làm lẻ”, một chư hầu của Trung Quốc. Mao Trạch Đông luôn xem Việt Nam như một quận, một tỉnh lẻ ở phía Nam. Giao Chỉ Mất nước!
Lê
Duẩn và Mao tính khí thay đổi giống nhau, chỉ có tham
vọng của kẻ thủ ác không thay đổi. Với Mao khi chủ
trương hòa bình, lúc cổ vũ nhiệt liệt chiến tranh trong
quan điểm đối với Việt Nam, thâm tâm luôn muốn chia
cắt nước Việt thành hai ba phần thuộc Nam, Trung, Bắc
để cho dân tộc này yếu đi. Còn Lê Duẩn cũng thay đổi
không chừng, nào chạy sang Tàu xin đưa quân sang, có lúc
hơn ba trăm ngàn quân Tàu trong cuộc chiến Việt Nam, lúc
chạy sang Nga và chửi bành trướng Bắc Kinh thậm tệ.
Giống
nhau cùng không có cái tâm đến cái hình nhi hạ, Duẩn và
Mao để lại gồm một bầy đàn thê tử, lúc mất đi
người ta ước tính Lê Duẩn có đến ba chục người
con, lúc chịu tang, người vợ trẻ nhất nhỏ hơn ông đến
năm mươi tuổi, một y sĩ trẻ chăm sóc ông và là con của
một quan chức dưới triều của ông, cháu gái dẫn theo
đưa bé nhỏ, thay vì gọi ông cố thì gọi bằng cha Lê
Duẩn! Thật bất nhân!
Gia
tài của Lê Duẩn để lại là một đám con hoang, cùng
những nghĩa trang dày đặc các bóng ma của người lính
trẻ Việt Nam, ngày nay người ta cũng chưa kiểm tra lại
xem thật sự là bao nhiêu, chỉ biết rằng khu trung tâm
Sài Gòn, với những tòa nhà sang trọng nhất, đắc tiền
nhất đều có phần của con cái Lê Duẩn. Và hằng hà sa
số thanh niên, thiếu nữ đã chết còn nằm dọc dài trên
Trường Sơn.
Lê
Duẩn giữ chức Tổng bí thư lâu nhất hơn 25 năm, từ
1960 đến 1986. Người có uy quyền cao nhất, trong lịch sử
CSVN, chỉ thua Nguyễn Tấn Dũng về sau về mặt giàu có.
Vì mới bắt đầu “kinh qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội” nên
của cải chưa tập trung được nhiều để trở thành tư
bản đỏ! Mặc dù số vàng 17 tấn do Ông Thiệu để lại
và các chiến dịch đánh tư sản cũng như tịch thu tài
sản của đồng bào miền Nam hàng chục tấn vàng khác,
thế rồi không biết chảy về đâu?
Ông
là người đã vạch ra chiến lược cách mạng với cuốn
“Đề cương cách mạng miền Nam”, chủ trương xử dụng
quân sự để chiếm miền Nam, khởi động cuộc chiến
người
Việt giết người Việt,
đưa đất nước vào thảm cảnh hoang tàn, núi sông xương
máu.
Người
ta có ghi lại lời phát biểu của ông về chiến tranh
Việt Nam “Ta
đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc...”
Và suốt cuộc đời Lê Duẩn mang nét đặc thù, đó là
khủng bố dân tộc dưới chiêu bài yêu nước để buộc
dân chúng đánh thuê cho ngoại bang, theo tiết lộ của CS
Hà Nội với AFP ngày 4-4-1995, thì số lượng thường dân
chết trong chiến tranh lên đến 4 triệu người, chia đều
cho hai miền Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam, nghĩa là mỗi
miền hai triệu người. Những câu văn viết lên thì đơn
giản nhưng đau thương mất mát thì không ngôn từ nào tả
hết được!
Lê
Duẩn sinh ngày 7-4-1907 tại Quảng Trị trong một gia đình
nông dân, cha làm nghề thợ mộc, chủ yếu là đóng hòm,
mất ngày 10-7-1986. Trình độ học vấn tiểu học. Có tài
liệu viết ông học được đến lớp 6, nghĩa là cho nâng
lên được cấp 2 của bậc trung học. Có câu chuyện liên
quan đến Trần Đức Thảo về sau, lúc ông làm Bí thư,
đã mời triết gia vào để nghe ông đọc một bài tham
luận, theo người thư ký của Lê Duẩn kể lại ông đã
chuẩn bị rất kỹ, chỉ có một mình ông thuyết trình
thao thao bất tuyệt và Trần Đức Thảo là khách mời duy
nhất để thẩm định. Chẳng may khi nghe xong vị triết
gia này cho ý kiến “Tôi không hiểu ông muốn nói cái gì
cả”. Lê Duẩn trố mắt, thất vọng nhưng chỉ nói “Có
lẽ tôi nói tiếng Quảng Trị khó nghe”, rồi bỏ sang
phòng khác. Trần Đức Thảo lẳng lặng ra về và triết
gia phải đi nông trường chăn bò từ đó!
Năm
1926, Lê Duẩn làm nhân viên sở hỏa xa, bẻ ghi đường
rầy xe lửa Đà Nẵng, người đứng phất cờ mỗi khi
tàu ra vào ga. Năm 1930 ông gia nhập đảng CS Đông Dương,
ông ra vào khám nhiều lần và tiến thân nhanh vì được
xem là thành phần cố nông, ít học, trung kiên của đảng.
Năm
1954 ông được phân công ở lại miền Nam lãnh đạo, tới
1957 Lê Duẩn được Hồ Chí Minh gọi ra Hà Nội gấp để
giữ chức quyền Tổng bí thư đảng thay thế Trường
Chinh bị ép từ chức vì Cải cách ruộng đất. Tháng
9-1960 tại Đại hội toàn quốc lần thứ III, ông được
bầu vào BCHTƯ và Bộ chính trị, giữ chức Bí thư thứ
nhất. Từ 1960 theo một số nhận định HCM sức khỏe
yếu, Lê Duẩn trở thành người có quyền hành cao nhất.
Duẩn
là người khao khát quyền lực tuyệt đối như Stalin, Mao
Trạch Đông và ông ta cô lập Hồ, Giáp để thiết lập
một bộ máy chính trị trung thành. Lê Đức Thọ cánh tay
mặt của Duẩn. Những hàng tướng như Lê Đức Anh, lúc
vào chào Lê Duẩn khi ra về thường giữ lễ theo cách đi
xà lui, còn Đỗ Mười, một “Thưa anh Ba”, hai “Dạ
anh Ba”.
Mãi sau
nhiều thập niên, khi Thọ Duẩn không còn, tiếng oan
khiêng vẫn còn giữa các đồng chí, người ta được
biết đến qua lá thư xin minh oan của Đại tá Lê Trọng
Nghĩa, sinh năm 1922, là một trong ba nhà lãnh đạo của
Việt Minh ở Thủ đô Hà Nội trong những ngày sôi nổi
của Cách mạng tháng Tám. Sau đó ông làm thư ký cho tướng
Võ Nguyên Giáp, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng, rồi Cục
trưởng Cục Quân báo (Cục II) thuộc Bộ Tổng Tham mưu,
rồi cũng là Trưởng Ban Quân báo trong chiến dịch Điện
Biên Phủ. Vào năm 1968 ông lâm đại nạn, bị bắt giam
không xét xử, suốt 8 năm đi lao động cải tạo trong cái
gọi là “Vụ án Xét lại – chống đảng, làm gián điệp
cho nước ngoài (Liên Xô)”, một vụ án dựng đứng
không hề có thật của cặp Lê Đức Thọ – Lê Duẩn
nhằm hạ bệ tướng Giáp. Và hàng trăm cán bộ đảng
viên như tướng Lê Liêm; tướng Đặng Kim Giang; 2 cha con
ông Vũ Đình Huỳnh – Vũ Thư Hiên; ông Hoàng Minh Chính;
ông Nguyễn Minh Cần, phó chủ tịch Ủy ban hành chính thủ
đô; Thượng tá Văn Doãn, Tổng Biên tập báo Quân Đội
Nhân Dân; Đại tá Lê Vinh Quốc….
Các nạn
nhân trên đây và gia đình đã gửi hàng trăm, hàng ngàn
đơn thư khiếu nại suốt hơn 60 năm nay nhưng không hề
được hồi âm. Họ bị vu cáo và yêu cầu đảng và nhà
nước phải phục hồi danh dự cho họ. Đó là ông Nguyễn
Trung Thành, nguyên Vụ trưởng Vụ Bảo vệ chính trị
Trung ương đảng; ông Lê Hồng Hà, nguyên Chánh văn phòng
Bộ Công an; các Đại tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng
Tấn… Ở đây nói lên tính chất bất nhân ngay cả với
những người cùng chiến đấu với họ, chỉ vì tranh
giành quyền lực tối thượng.
Từ
cuối 1965 đến 1975, khi quyền lực của Lê Duẩn lên
đỉnh tối cao, công cuộc nướng quân “Sinh Bắc tử
Nam”, ngày càng nhiều các sư đoàn bộ binh chính
quy được đưa từ miền Bắc vào Nam.
Đề
cương cách mạng miền Nam
Tài
liệu này dài hơn 30 trang, được soạn tháng 8-1956 gồm
có 5 phần, không có gì là sáng tạo, thật sự chỉ là
phản biện duy ý chí đối với tình hình miền Nam, nhằm
quyết tâm dùng bạo lực đánh phá và áp đặt chế độ
cộng sản trên toàn lãnh thổ Việt Nam dưới chiêu bài
ngụy dân tộc, phản dân chủ, chống lại tự do.
Một
là củng cố miền Bắc, đẩy mạnh đấu tranh cách mạng
ở miền Nam, tranh thủ ủng hộ trên thế giới, đó là
ba nhiệm vụ chính của cả nước. Củng
cố miền Bắc qua đấu tố Cải cách ruộng đất, tạo
nên sự sợ hãi trong dân chúng để dễ bề cai trị độc
tài; đẩy mạnh cách mạng ở miền Nam với không biết
bao vụ ám sát, khủng bố khiến miền Nam không còn cuộc
sống trong hòa bình. Nói láo và nói láo để tạo chính
nghĩa khiến mọi người nhầm tưởng kẻ đi xâm lược
có chính nghĩa, còn nạn nhân những người miền Nam trong
cuộc chiến tự vệ trở thành kẻ hiếu chiến dưới cái
nhìn của quốc tế và nhiều người trên thế giới đã
ngây ngô tin như vậy!
Hai
là mục đích, nhiệm vụ, đối tượng cách mạng miền
Nam giữ gìn hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành
độc lập, dân chủ trong cả nước. Nhân dân miền nam bị
Đế quốc Mỹ áp bức, bóc lột nên phải đứng lên đập
tan chế độ độc tài phát xít Mỹ -Diệm.
Sự
thật hoàn toàn ngược lại như vậy như một chân lý
hiển nhiên qua hình ành cộng sản đến đâu người dân
miền Nam bỏ chạy đền đó.
Ba
là chế độ Ngô Đình Diệm ra sức phá hoại tổng tuyển
cử, nhân dân sẽ đứng lên đập tan âm mưu Mỹ-Diệm.
Tự do, dân chủ là yêu cầu bức thiết bảo đảm tài
sản, tính mạng nhân dân.
Thật
ra chế độ miền Nam đâu có ký vào Hiệp Định Geneva mà
bảo họ phải thi hành. Và nhân dân miền Nam qua cuộc tấn
công Tết Mậu Thân, cũng như mùa Hè Đỏ lửa 1972 của
phe miền Bắc, Việt cộng đi đến đâu đều gieo chết
chóc kinh hoàng.
Bốn
là hình thức đấu tranh, khả năng phát triển cách mạng,
đấu tranh hòa bình có khả năng đánh lùi những bạo lực
Mỹ-Diệm, đẩy mạnh cách mạng bằng đường lối hòa
bình phù hợp với nguyện vọng của nhân dân thế giới
“lấy nhân nghĩa thắng cường bạo”. Thực
tế, cộng sản mới là những kẻ dùng bạo lực để
khủng bố hòng nhuộm đỏ miền Nam, thực thi đường lối
của Cộng sản Quốc tế.
Năm
là bài học lịch sử, những nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng miền Nam: Nay ta mới thành công giải phóng dân tộc
được một nửa nước, nhiệm vụ cách mạng phải hoàn
thành trong cả nước. Đảng ta là đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Ở nông thôn nhiệm vụ
chiến lược của ta là đoàn kết trung, bần cố nông
liên hiệp với phú nông, đánh đổ địa chủ phong kiến,
xây dựng một nước VN hòa bình thống nhất. Đúng
là xây dựng một đất nước thống nhất bằng bạo lực
nên hà tất không thể có hòa bình. Ở nông thôn, khi hòa
bình lập lại, họ bị cán bộ cộng sản lợi dụng chức
quyền chiếm đoạt đất đai. Nông dân trở thành dân oan
dưới chế độ cộng sản! Đối với công nhân mãi mãi
dưới sự cai trị của những người cộng sản sẽ không
bao giờ có được Công Đoàn độc lập để bảo vệ
quyền lợi cho công nhân.
Thực
tế đã diễn ra như TT Ngô Đình Diệm đã từng tuyên bố
trong diễn
văn buổi khánh thành đập Đồng Cam - Tuy Hòa 17-9-1955 :
“Nếu
bọn Việt Cộng thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị
tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của
Trung-hoa Cộng-sản. Hơn nữa toàn-dân sẽ phải sống mãi
mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia
đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo."
Cuộc
chiến Đông Dương lần thứ hai 1960-1975
Cuộc
chiến 1946-1954 được gọi là cuộc chiến Đông dương
lần thứ nhất và giai đoạn 1960-1975 là Cuộc chiến Đông
Dương lần thứ hai.
Những
đoàn quân miền Bắc tiến vào xâm lược miền Nam từ
năm 1959, sau khi Lê Duẩn làm quyền bí thư thay thế Trường
Chinh được hai năm và ngày 20-12-1960 Mặt trận Giải
phóng Miền Nam được thành lập tại xã Tân Lập Tây
Ninh, một công cụ của Hà Nội. Cuộc chiến vẫn chưa
qui mô vì thế chiến lược toàn cầu lúc bấy giờ, đó
là Nga chủ trương hòa hoãn với Mỹ, nên Lê Duẩn chỉ
tổ chức khủng bố, ám sát các viên chức địa phương
khắp miền Nam để tạo sự hoang mang, sợ hãi trong dân
chúng.
Cuộc
Tổng tấn công Tết Mậu Thân.
Lê
Duẩn là người chỉ đạo chiến dịch này, nhằm đánh
thẳng vào các trung tâm đông đúc dân cư của miền Nam,
gồm 6 thành phố lớn, 44 thị xã, hàng trăm quận lỵ.
Duẩn là người chủ trương đánh lớn để tạo khúc
quanh cuộc chiến. Nhất là Hà Nội nghĩ rằng, nhân dân
miền Nam sẽ vùng lên ủng hộ cộng sản, nhưng Việt
cộng đến đâu người dân bỏ chạy đến đó.
Con số thật buồn cho mẫu
số chung là người Việt, Lê Duẩn huy động khoảng 100
tiểu đoàn, tổng cộng 84,000 người, bị tan rã gần hết,
có tới 70% bị tử thương, 11% bị bắt làm tù binh, các
cơ sở nằm vùng bại lộ, bị tiêu diệt. VNCH có 4,950
người tử trận, 926 người bị mất tích, 15,097 người
bị thương. Phía Đồng minh có 4,120 người tử trận, 19,
265 bị thương, 600 người mất tích.
Miền
Nam bị thiệt hại nặng về kinh tế toàn quốc có trên
60,000 căn nhà bị hủy, 13 xưởng kỹ nghệ đổ nát vì
bom đạn, 20 hãng xưởng khác bị hư hại, thiệt hại lên
tới 25 triệu Mỹ kim. Nạn nhân chiến tranh lên gần
700,000 người.
Cuộc
Tổng cộng kích cho thấy chính sách thí quân dã man và
tính đa sát điên cuồng của Lê Duẩn: nhiều chục vạn
thanh niên bị đẩy vào tử địa, phố xá bị đốt phá,
hàng vạn người dân vô tội bị tàn sát để thỏa mãn
tham vọng tột cùng của kẻ độc tài xuất thân có
truyền thống cha làm nghề đóng hòm.
.
Hoang
tưởng kỳ quái của Lê Duẫn: đánh vỗ mặt.
Cuộc Tổng tấn công
1972, miền Nam VN thường gọi là trận Mùa hè đỏ lửa,
phía CS gọi là “Chiến dịch xuân hè 1972”, kéo dài từ
30-3-1972 tới 31-1-1973, mặt trận diễn ra ở Trị- Thiên,
Bắc Tây nguyên, miền Đông Nam bộ và Nam bộ. Chỉ huy
chiến dịch gồm Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, Văn Tiến
Dũng.
Đây
là trận Tổng tấn công lớn và đại qui mô gấp bội
lần cuộc tổng công kích Mậu Thân, lần này Duẩn đổi
sang chiến tranh qui ước với hơn chục sư đoàn có sự
yểm trợ của xe tăng, đại bác. Xử dụng những đại
đơn vị chính qui do Lê Duẩn chủ trương và:“Để
giành thắng lợi, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã
huy động rất nhiều tân binh cho trận quyết chiến này.
Rất đông những người lính lên đường mùa hè 1972 ấy
là những thanh niên từ 30 trường đại học – cao đẳng
của Hà
Nội: gần 10.000 bộ đội gồm sinh viên và cả giảng
viên trẻ. Hiện nay ở Nghĩa
trang Trường Sơn, ở Thành
cổ Quảng Trị có rất nhiều bia mộ của những
người lính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ghi năm
sinh là 1953 hay 1954”
Hậu
quả từ quyết định này việc tập trung nhiều lực
lượng xung quanh mục tiêu trước khi tấn công đã bị
hỏa lực khủng khiếp của Hạm đội 7 nả pháo, khiến
VC đưa lưng hứng trọn trước khi nổ súng. Ngoài ra, hàng
trăm ngàn cán binh CS đã làm mồi cho B-52, pháo binh,
không quân VNCH, quả là trận đánh thí quân qui mô lớn,
sai lầm và đầy tội ác của Lê Duẩn.
Trận
chiến 1975
Hiệp
định Paris ký ngày 27-1-1973, Hà Nội vi phạm hiệp định
sau ngày ngưng bắn, VNCH chống lại. Tháng 2-1973 đã có
175 xe vận tải, 223 xe tăng BV vào Nam qua đường mòn Hồ
Chí Minh, BV gia tăng xâm nhập.
Trong
khi đó Viện trợ quân sự của khối CS cho BV không thay
đổi. Giai đoạn 1969-72 Tổng số 684,666 tấn vũ khí,
giai đoạn 1973-75 649,246 tấn coi như tương đương.
Nga
khuyến khích gây hấn, chiến tranh qua chuyến đi của Tổng
tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov đến Hà Nội vào tháng
12/1974 và sau đó đã tăng viện trợ quân sự gấp 4
lần. Lê Duẩn lên tinh thần và ra lệnh khi quân Bắc Việt
tràn vào Sài Gòn, nay vẫn còn ghi lại tính vô nhân đạo,
bất nhân của Lê Duẩn đối với phe miền Nam: “Không
được, phải đánh chết những con chó, kể cả khi nó đã
rơi xuống nước. Tất cả bọn Mỹ, dù là cán bộ ngoại
giao hay Lầu Năm Góc đều là kẻ thù của nhân dân Việt
Nam. Vì thế, phải chiến đấu quét sạch chúng đi, không
để một tên xâm lược nào trên mảnh đất chúng ta”.
Thời
hậu chiến
Sau
khi chiếm miền Nam bức màn bí mật đầy gian dối của
cộng sản giống như chiếc hộp đen nay được mở bung
ra, người miền Nam tuyệt vọng liều chết vượt biển
tìm tự do trong khi người miền Bắc thất vọng, miền
Nam quá sung túc văn minh so với cảnh cơ hàn của miền
Bắc. Họ đã thấy nó hoàn toàn ngược lại với sự
tuyên truyền láo của cộng sản trước đây.
Mười
năm đầu từ chiến tranh sang hòa bình dưới sự lãnh đạo
một cai thầu chiến tranh, chuyên nghề đánh phá của Lê
Duẩn, người dân sống trong cơ hàn, một nước nông
nghiệp nhưng dân không có gạo để ăn, phải ăn bo bo,
Việt Nam trong khoảng thời gian này được xếp trong số
10 nước nghèo đói nhất thế giới.
Đỗ
Mười, Phó thủ tướng Trưởng ban Cải tạo công thương
nghiệp theo chỉ đạo của Lê Duẩn tiến hành đánh tư
sản tại miền Nam VN đã gây ra thảm cảnh màn trời
chiếu đất cho không biêu nhiêu người, kiểm kê các nhà
tư sản rồi lấy nhà đuổi đi kinh tế mới, hàng chục
ngàn cơ sở thương mại bị đóng cửa trong ngày đầu
xuất quân.
Chiến
dịch thất nhân tâm này khiến nhiều người phải tự tử
hoặc đi vượt biên, một cuộc ăn cướp vĩ đại trắng
trợn, trấn lột tài sản các thương gia để bỏ túi
chia chác nhau, lấy nhà cửa phân phối cho các đảng viên
từ ngoài Bắc vào. Ước lượng có hai triệu người đi
vượt biên, mấy trăm nghìn người thiệt mạng ngoài biển
khơi.
Thật
sự là những vụ khủng bố, cướp cạn sau khi hòa bình.
Nguyên
tắc hàng đầu của các chiến dịch này là bí mật, bất
ngờ. Những ông chủ, bà chủ chỉ bàng hoàng nhận biết
những gì xảy ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt
bất ngờ có mặt, đọc quyết định "kê biên tài
sản" của họ. Những cửa hàng, nhà cửa bị tịch
thu trở thành tài sản công và thường sẽ thành một cửa
hàng quốc doanh hoặc thậm chí nhà ở cho cán bộ. Tài
sản bị niêm phong xong, mọi người trong gia đình đó
phải chuẩn bị nhận quyết định đi "xây dựng vùng
kinh tế mới".
Đỗ
Mười múa tay, múa chân có sự phụ họa của Võ Văn
Kiệt, cùng hô hào thực hiện rất quyết liệt theo lệnh
của Lê Duẩn.
Chiêu
bài đu dây Cộng Sản Hà Nội
Quan
hệ Việt-Trung-Sô
Năm
1975 Lê Duẩn thăm Bắc Kinh, Trung Quốc muốn Duẩn chống
Nga nhưng ông ta vẫn theo chính sách đu dây. Bắc Kinh cho
là VN vô ơn phản bội. Duẩn ngày càng thân Nga khiến Băc
Kinh lo ngại CSVN mạnh ở Đông Dương. Ngày 1-11-1977 Nhân
Dân nhật báo của Bắc Kinh coi Mỹ là bạn coi Nga là thù.
Ngày 30-7-1977 Bắc Kinh tuyên bố ủng hộ Miên chống VN và
sau đó cắt hết viện trợ cho CSBV.
Ngày
3-11-1978 Hà Nội ký hiệp ước hữu nghị với Nga (Việt
– Sô) trong đó có cả phòng thủ chung. Nga tăng viện trợ
kinh tế cho Hà Nội từ 450 triệu USD năm 1975 lên 1,1 tỷ
năm 1979, viện trợ quân sự tăng mạnh khi có chiến
tranh Việt-Miên từ 125 triệu năm 1977 lên 600 triệu năm
1978, 900 triệu năm 1979. Ngày nay người ta vẫn chưa tìm
thây có công trình nhân văn nào có giá trị để khai hóa
văn minh cho người Việt, sự viện trợ người Nga không
ngoài số vũ khí đủ loại để đánh nhau, người Việt
giết người Việt.
Cuộc
chiến Việt –Miên
Từ
tháng 4 -1975 một toán Khmer đỏ đột kích Phú Quốc 6
ngày, sau đó hành quyết hơn 500 người dân Việt tại đảo
Thổ Chu. CSVN phản công tái chiếm, quan hệ Việt –Hoa
xấu đi, Trung Quốc tăng cường viện trợ cho Miên. Tháng
9-1977 quân chính qui Khmer đỏ gồm 4 sư đoàn chiếm nhiều
địa điểm tại các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu
Thành Tây Ninh đốt gần 500 căn nhà, giết gần 800 người.
Năm
1977, Lê Duẩn sang Trung Quốc hội đàm với Hoa Quốc
Phong để tìm một giải pháp cho Campuchia nhưng thất bại
và ra về trong sự tẻ nhạt..
Ngày
31-12-1977, sáu sư đoàn CSVN đánh sâu vào đất Miên, năm
ngày sau rút về. Sau đó Pol Pốt liên tục cho tấn công
vào VN, tháng 4-1978 hơn 3,000 người dân VN bị giết tại
Ba Chúc.
Tổng
cọng từ 1975-1978 Khmer đỏ tấn công biên giới và giết
hại khoảng 30,000 người VN.
Ngày
13-12-1978 Pol Pot huy động 19 sư đoàn, một sư đoàn Khmer
đỏ chỉ có 4,000 người, tấn công xâm lược và tàn sát
thường dân, CSVN chận đứng bước tiến của địch,
khoảng 38,000 quân Khmer đỏ bị giết, gần 6,000 tên bị
bắt.
Từ
đầu tới cuối tháng 12 -1978 Việt Nam huy động tổng
cộng 18 sư đoàn với xe tăng, pháo bính, không quân yểm
trợ tiến vào đất Chùa tháp. Ngày 7-1-1979 quân Khmer đỏ
tan rã, chính phủ Pol Pot rút khỏi Nam Vang. Cuối tháng
3-1979 CSVN chiếm được hết những tỉnh thành quan trọng
của Campuchia và tiến sát biên giới Thái Lan.
CSVN
chiếm đóng xứ Chùa Tháp 10 năm cho tới cuối năm 1989
mới hoàn toàn rút khỏi Campuchia. Phía CSVN cho biết họ
thiệt hại 55,300 người tử thương, phía Khmer đỏ khoảng
100,000 người bị giết.
Chiến
tranh Việt-Trung
Đây
chỉ là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt, bắt đầu
ngày 17-2-1979 và kết thúc ngày 16-3-1979 Trung Cộng rút sau
khi đã chiếm Lạng Sơn, Lào cai, Cao Bằng, song mục đích
bắt VN rút khỏi Campuchia không thành.
Tưởng
cũng nên nhắc lại, ngày 3-11-1978 CSVN ký Hiệp ước hữu
nghị Việt-Sô trong đó có cả phòng thủ chung. Nhưng quả
là đau lòng cho các hiệp ước ký kết với cộng sản,
khi Trung Quốc đánh Việt Nam, Liên Xô không đưa quân sang
cứu giúp. Ngoài Phi đoàn vận tải của Nga chở Quân đoàn
2 CSVN từ Campuchia về Lạng Sơn.
Mục
đích của cuộc chiến theo Thượng tướng không quân (Bắc
Kinh) Lưu Á Châu nói Đặng Tiểu Bình gây chiến để xác
nhận quyền lực tuyệt đối của ông ta trong đảng, sau
đó trả thù cho Mỹ đã tháo chạy nhục nhã tháng 4-1975
cần rửa hận để được Mỹ viện trợ ồ ạt.
Nhờ cuộc chiến này Mỹ đã viện trợ cho Tầu về kinh
tế, khoa học, quân sự, tiền vốn…
Nguyên
văn
“Cuộc
chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một
lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ
những yếu tố này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau
khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm
chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở
cửa Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này”
Trung
Cộng cho biết CSVN tử thương 50,000 người và họ có
20,000 người thiệt mạng. Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội
Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng cộng thương
vong của quân Trung Quốc là 62,500 người.
Cả
hai phía đều nói chiến thắng nhưng cuộc chiến gây
thiệt hại trầm trọng cho kinh tế Việt Nam: các thị xã
Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt
hoàn toàn: 320 xã, 735 trường học, 428 bệnh viện, bệnh
xá, 41 nông trường, 38 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ
và 80,000 héc ta hoa màu bị tàn phá, 400,000 gia súc bị
giết và bị cướp.. Khoảng
một nửa trong số 3.5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài
sản. Sau cuộc chiến CSVN nhường cho tầu chiến Liên Xô
đóng ở cảng Cam
Ranh để
đổi lấy viện trợ tái thiết. Cuộc chiến ngắn này
khiến Bắc Kinh tốn kém khoảng 1,3 tỷ USD ảnh hưởng
tới quá trình cải tổ kinh tế.
Kết
luận
Trong suốt thời gian dài
từ 1954 đến 1964, Trung Cộng là nguồn cung cấp duy nhất
cho CS Bắc Việt, không chỉ từ chén cơm manh áo mà cả
lý luận tư tưởng, từ vật chất đến tinh thần của
đảng CSVN lệ thuộc sâu xa vào đảng CSTQ. Khắp miền
Bắc, từ công sở đến gia đình, hình ảnh của Mao được
đặt trên mức linh thiêng.
Dó đó
CSVN đã thi hành một cách nghiêm chỉnh hầu hết các mệnh
lệnh đầy tai họa từ Mao và các chính sách phi nhân đã
dẫn đến cái chết oan uổng của nhiều trăm ngàn người
dân Việt Nam vô tội qua các chiến dịch Cải Cách Ruộng
Đất, hàng triệu người bỏ mình trong cuộc chiến tranh
huynh đệ tương tàn để người Việt giết người Việt.
Đã có lúc Mao sai Đặng Tiểu Bình, lúc đó là Tổng Bí
Thư đảng CSTQ, bí mật thăm Hà Nội và hứa viện trợ
một tỉ yuan nếu Hà Nội chịu trong vòng ảnh hưởng của
Trung Quốc và tiến hành chiến tranh. Đến tháng Ba 1968,
tổng số quân Trung Cộng có mặt tại miền Bắc là 320
ngàn quân với tất cả phương tiện yểm trợ và trang bị
vũ khí đầy đủ. Tất cả đều là Mao từ sách vở đến
đường lối và đã từng áp dụng tại Trung Quốc.
Từ Mao
đến Mao, phản bội Mao rồi trở về với Mao, chứng tỏ
đường lối thiếu uyển chuyển, luôn cực đoan thái quá
của Lê Duẩn, cũng như sự kiêu ngạo của kẻ ít học,
xuất thân thường thuộc thành phần ở đợ như Võ Văn
Kiệt, đã đưa đất nước từ thảm hại này đến đau
thương khác. Nhất là sự thất bại trong công cuộc kiến
thiết đất nước thời hòa bình, lòng có đầy miệng
mới nói ra, khi ông phát biểu “cứ in tiền, chúng ta xã
hội chủ nghĩa, không sợ lạm phát”, đủ hiểu ông
thừa kế đầy đủ cái tố chất di truyền của nghề
đóng hòm đối với một nền kinh tế. Nó đã
làm tiêu tan uy tín, sự nghiệp của ông tới mức khi ông
chết phần lớn người dân VN, cũng như những người
trong đảng của ông, đều cảm thấy thở phào nhẹ nhõm.
Nguyễn Quang