GS Thái
Công Tụng
Rivers
in Central VietNam, from Thanh Hoa to Bình Thuận, along the
mandarin road are named, discussed with various folk literature
associated with each one of the rivers. Folk literature is
conditioned by the land and its environment and passed down orally
from one generation to another. It includes folk songs, rhymes,
incantations, proverbs expressing the lifestyle of rural people ,
fishermen along rivers with all their hopes, dreams. . Various
problems associated with rivers along this road in Central Viet Nam
are discussed: flash floods in upper and middle reaches, flood and
bank erosion, salt intrusion during dry season, overuse ..
Con
đường cái quan, chạy dài từ Bắc vô Nam, xuyên qua các
đồng bằng duyên hải miền Trung, xuyên đèo, qua suối,
với câu hát trữ tình và trêu ghẹo:
Hỡi
anh đi đường cái quan
Dừng
chân đứng lại em than đôi lời
Đi
đâu vội lắm ai ơi
Công
việc đã có chị tôi ở nhà
Miền
Trung gồm những đồng bằng từ Thanh Hoá vào đến Bình
Thuận, có nhiều dòng sông chảy qua. Các dòng sông miền
Trung cũng rất đa dạng:
.
khi ngắn vì phát xuất từ sườn Đông dãy Trường Sơn
vốn không xa bờ biển
.
khi dài vì phát nguyên từ đất Ai Lao ( hay có chảy qua
đất Lào) và vì chảy qua các vùng có chế độ mưa
khác nhau nên sự phân phối dòng chảy trong năm cũng khác
biệt.
Cũng
cùng một dòng sông nhưng có thể có nhiều tên khác nhau,
tùy theo khúc sông.
Nhiều
dòng sông có tính cách lịch sử như sông Danh, sông Bến
Hải vì chứng kiến sự phân chia đất nước. Có dòng
sông chảy qua vùng có đá vôi ở thượng nguồn như sông
Danh, sông Nhật Lệ, có sông chảy qua lưu vực đá phún
xuất như sông Ba v.v .
Sông
ngòi có khi hiền hoà trôi, đem phù sa về đồng
bằng, tạo nên xóm làng trù phú yên vui nhưng có lúc giận
dữ với nước lụt trôi về với dòng chảy mạnh cuốn
trôi ra biển người và tài sản.
1.
Những dòng sông chính tại các đồng bằng duyên hải
miền Trung dọc con đường cái quan
11 Đồng bằng Thanh Hoá
Nhiều
dòng sông chính ở đồng bằng này có duyên nợ với đất
Lào vì sông Mã bắt nguồn từ tỉnh Lai Châu, xuôi về
tỉnh Sơn La nhưng sau đó chảy sang Sầm Nưa đất Lào
trên một đoạn đường dài hơn 50 km, trở lại vào
đất Thanh Hoá, hội lưu với sông Chu rồi ra biển ở cửa
Lạch Trào.
Sông
Mã dài 512km, và có một lưu vực rộng 28 400km2. Một
phần của trung lưu nàm trên đất Lào .Phía thượng lưu
sông Mã có nhiều thác lón nhỏ cũng như những vực là
những vũng nước sâu trong lòng sông. Sông Mã chảy
qua nhiều khu vực có nhiều chế độ mưa khác nhau
nên sự phân phối dòng chảy trong năm cũng khá phức
tạp : nhiều thác, nhiều vực, và còn có đặc điểm
là thường đổi dòng, đổi lạch, nhất là các đoạn
phía trên có bãi cát ngầm thường di chuyển vị trí do
sự thay đổi của dòng chảỵ. Nhờ Sông Mã nên sự trao
đổi hàng hoá giữa miền xuôi và miền ngược rất dễ
dàng và phương tiện chính là đò . Dọc sông Mã có sông
nhánh như sông Lèn ở bên trái, sông Lò và sông Lường ở
bên phải
Sông
Chu, dài khoảng 300km, bắt nguồn từ đất Sầm Nưa trên
Lào, chảy vào địa phận tỉnh Thanh Hoá ở huyện Thường
Xuân và đổ vào sông Mã ở phía bắc thành phố.
Sông
Mã cũng dễ lụt như sông Hồng nên cũng có hệ thống đê
điều nhằm hạn chế lũ lụt
Đồng
bằng này lại có đập Bái Thượng nên nước trong
các kênh mương được dẫn vào ruộng lúa. Ngoài hai sông
chính là Sông Mã và sông Chu, còn có những sông nhỏ khác
như sông Yên chảy qua các huyện Nông Cống, Quảng Xương
và Tĩnh Gia rồi đổ ra cửa Lạch Ghép. 12
đồng bằng Nghệ An
-
sông Cả dài 600km, bắt nguồn từ cao nguyên XiêngKhouang
trên Lào, chảy theo hướng TB - ĐN qua nhiều huyện của
Nghệ An rồi đổ ra biển ở Cửa Hội. Đoạn hạ lưu có
tên sông Lam. Một trong các chi lưu của sông Lam là sông
Nghèn chảy theo hướng TB- ĐN trong các huyện Đức Thọ,
Can Lộc và Thạch Hà và đổ ra Biển Đông ở Cửa Sót
chỉ cách thị xã Hà Tĩnh khoảng 10km phía Bắc. Diện
tích lưu vực khoảng 27 200 km2, một phần lưu vực
nằm trên đất Lào, chiếm khoảng 35% diện tích.
Sau
khi sông Cả chạy qua Con Cuông, thì tiếp nhận nước từ
bờ trái là sông Hiếu. Sông này bắt nguồn từ dãy núi
Phu Hoat. Đập Đô Lương trên Sông Cả tưới được
nhiều ruộng ở các vùng Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu
.
Từ
Đô Lương trở đi, sông Cả đi vào đồng bằng, lòng
sông nhiều uốn khúc.
Cách
cửa sông 30 km, gần Bến Thủy, sông Cả lại nhận
thêm nước từ hai sông là Ngàn Sâu và Ngàn Phố.
Lưu
vực sông Cả có diện tích 27 224 km2, trong đó
9 470 km2 thuộc vùng núi Ai Lao (Xieng Khoang và Sầm Nứa)
-Sông
Cấm là con sông nhỏ chảy theo hướng N- B, qua chân núi
Cấm ỏ huyện Nghi Lộc rồi ra biển ở Cửa Lò.
Đồng
bằng Nghệ An gồm các phù sa cận đại lẫn các giải
cát duyên hải như ở Diễn Châu, ở Cửa Lò và Nghi
Lộc gần Vinh.. Đặc biệt tại Quỳnh Lưu có nhiều gia
đình nuôi hươu lấy lộc nhung bán.
13
đồng bằng Hà Tĩnh có
giãy núi Trường Sơn chạy gần biển, đặc biệt có rặng
núi Hồng Lĩnh (tên khác: Ngàn Hống) với 99 ngọn núi
hình răng cưa sừng sững chọc trời, nhưng cũng có vài
thung lủng rộng ở phiá trong như tại huyện Hương Khê
giáp Lào. Câu ca dao:
Bao
giờ Ngàn Hống hết cây
Sông
Lam hết nước họ này hết quan
để
nói về dòng họ gia đình khoa bảng cụ Nguyễn Du.
Có
hai dòng sông quan trọng :
-
Ngàn Sâu chảy qua thung lũng Hương Khê, chảy theo hướng
N- B
-Ngàn
Phố là sông bắt nguồn từ vùng biên giới Việt
Lào thuộc huyện Hương Sơn. Trên thượng nguồn sông này
có đập chắn ngang tạo ra hồ nhân tạo, hồ Kẻ Gỗ.
Hai
sông Ngàn Sâu và Ngàn Phố gặp nhau ở Linh Cảm rồi chảy
vào Sông Lam để ra biển ở Cửa Hội. Tại đồng bằng
này, các suối ở phía thượng nguồn có phương ngữ là
‘rào’ như ca dao sau đây :
Đến
đây lạ bến lạ rào,
Hõi
con chim hồng nhạn, ở phương nào tới đây
Kèo
mai, nhớ núi chim bay
Ai
nhớ chim muốn hỏi, biết thư bày ra sao ?
14
đồng bằng Quảng Bình
-Sông
Gianh, có tên khác là Rào Nậy, Linh Giang dài 155 km,
bắt nguồn từ rặng núi đá vôi Giăng Màn (có hình thù
kéo dài liên tục nên có tên Giăng Màn) ở biên giới
Việt Lào, chảy theo hướng TB - ĐN qua các huyện Tuyên
Hoá, Quảng Trạch rồi đổ ra biển ở cửa cùng tên.
-Sông
Nhật Lệ, còn có tên khác là Đại Giang chảy trong huyện
Bố Trạch và Quảng Ninh rồi đổ ra cửa cùng tên ở
cách Đồng Hới khoảng 3 km về phía ĐB.
Tiếng
hát ngư ông giữa dòng Nhật Lệ
Tiếng
kêu đàn nhạn trên áng Hoành Sơn
Khúc
thượng nguồn của sông Nhật Lệ, trong huyện Bố Trạch
có tên là sông Sa Lung. Có phụ lưu lớn bên phía phải
(hữu ngạn) là sông Trạm ( Kiến Giang). Bền bờ sông
Nhật Lệ có di tích lũy Thầy, do Đào Duy Từ xây dựng
năm 1631.
Trong
đồng bằng, có một phá lớn gọi là phá Hạc Hải,
nhiều thủy sản, nằm cách Đồng Hới khoảng 27km về
phía Nam.
15
đồng bằng Quảng Trị
-Sông
Bến Hải chỉ dài khoảng 60 km, chảy ra Biển Đông ở
Cửa Tùng, có cầu Hiền Lương là nơi phân chia hai miền
Nam Bắc, nằm ở vĩ tuyến 17, theo hiệp định Geneve 1954
-Sông
Thạch Hãn bắt đầu từ sườn Đông dãy Truờng Sơn chảy
về biển qua các địa danh Cà Lu, Ba Lòng, thành phố Quảng
Trị rồi hợp với sông Cam Lộ. Sông này chảy
qua vùng đất huyện Cam Lộ, chảy qua thị xã Đông
Hà , đổ vào sông Thạch Hãn, rồi đổ ra Cửa Việt.
Cách
thị xã Quảng Trị 4km phía Bắc có địa danh Ái Tử được
nhắc nhở qua ca dao :
Mẹ
thương con, qua cầu Ái Tử
Vợ trông chồng đứng núi
Vọng Phu
Một mai bóng xế trăng lu
Con ve kêu mùa Hạ, biết mấy
Thu cho gặp chàng
16.
đồng bằng Thừa Thiên
Từ
ngoài vào, phải kể:
-Sông
Ô Lâu ở địa phận huyện Quảng Điền .
-Sông
Bồ là phụ lưu bên trái của sông Hương, bắt nguồn từ
vùng núi A Lưới, chảy theo hướng TB - ĐN rồi đổ vào
sông Hương ở huyện Phú Vang.
-Sông
Hương bắt đầu từ vùng núi huyện Nam Đông, chảy qua
huyện Hương Thủy và thành phố Huế, rồi đổ ra phía N
phá Tam Giang. Do hai nhánh Tả trạch và Hữu trạch hợp
lại ở Ngã Ba Tuần trước khi vào đồng bằng .
Cả
ba con sông trên đều chảy vào phá Tam Giang là một phá
rất dài vì chiều dài là 30 km và rộng từ 1
đến 6 km. Ở phía Nam, phá ăn thông với các đầm:
Thanh Lam, Hà Trung, Thủy Tú, Cầu Hai và trước trận lụt
lịch sử 1999, có hai cửa ăn thông ra Biển Đông là
Thuận An và Tư Hiền.
-
Hai con sông Nong và Truồi phát xuất từ núi Truồi và đổ
vào đầm Cầu Hai.
Đầm
Cầu Hai, toả rộng dưới chân núi Bạch Mã (1444m) ngắn
và rộng, thông thương với đầm (‘phá’) Tam Giang và
đổ ra biển ở cửa Tư Hiền. Nhìn vào bản đồ, phá
Tam Giang tương tự như một dòng sông, còn đầm Cầu Hai
giống như một cái hồ lớn. Các đầm phá Cầu Hai, Tam
Giang này, qua các trận lũ lụt cuối năm 1999, đã có thêm
nhiều cửa biển nữa. Riêng phá Tam Giang-Cầu Hai này đã
chiếm 1/3 diện tích toàn tỉnh Thừa Thiên và 30% dân số
Thừa Thiên sống quanh vùng phá-đầm này. Phá Tam Giang đã
trở thành bất hủ với câu ca dao:
Nhớ
em anh cũng muốn vô
Sợ
truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
17.
đồng bằng Quảng Nam
.-Sông
Hàn (tên khác : sông Cẩm Lệ, sông Hà Thân ..tùy theo
từng khúc khi chảy qua các địa phương khác nhau) chảy
qua thành phố Đà Nẳng rồi đổ ra Vủng Hàn.
-Đứng
bên đất Hàn,
Ngó
qua Hà Thanh, xanh như tàu lá
Đứng
bên Hà Thanh
Ngó
qua bên Hàn, phố xá nghênh ngang
-Em
đứng nơi cửa sông Hàn
Ngó
sang bãi biển Tiên Sa
Ngũ
Hành Sơn ở trên
Mủi
Sơn Trà ngoài khơi
Nghe
chuông chùa Non Nưóc
Em
nhớ mấy lời thề ước
Anh
làm sao cho duyên nợ đuợc vuông tròn
Kèo
lòng người xứ Quảng mỏi mòn đợi trông
.-Sông
Thu Bồn dài 205 km và lưu vực rộng 10 496 km2.
Sông Thu Bồn còn có một phụ lưu khác, gọi là sông Cái
(tên khác: sông Chợ Củi), cũng bắt nguồn vùng biên giới
Việt-Lào, nối với sông Thu Bồn ở huyện Đại Lộc.
Sông Cái lại có một phụ lưu bên phải ở khúc thượng
nguồn tên là Sông Bung, chảy theo hướng TN- ĐB trong
huyện Giằng
Sông
Thu nước chảy đôi dòng,
Đèn
khêu hai ngọn anh trông ngọn nào ?
Muốn
tắm mát lên ngọn sông đào,
Muốn
ăn sim chín thì vào rừng xanh
Một
phụ lưu lớn phía phải sông Thu Bồn có tên là sông
Tranh, bắt nguồn từ miền núi huyện Trà Mi, chảy từ
Nam lên phía Bắc qua các huyện Hiệp Đức, vùng mỏ than
An Hoà Nông Sơn.
Sông
Thu Bồn chảy qua Hội An để đổ ra Cửa Đại (Đại
Chiêm). Hội An trước kia nằm sát biển, nay đã lùi sâu
vào trong đất liền. Nhờ một nông nghiệp phong phú ở
đồng bằng Quảng Nam nên vào thế kỷ 17, qua cảng Hội
An, các thương gia người Hoa, người Nhật đã mua và xuất
cảng nhiều sản phẩm như tơ lụa, đường, quế, tiêu
v.v.
Nối
sông Tam Kỳ với sông Thu Bồn là một sông nhỏ ( ‘Trường
giang’), chảy song song với bờ biển và đây là tàn tích
của một phá nưóc mặn xưa kia càng ngày bị bồi lấp,
nằm dọc bờ biển tỉnh Quảng Nam.
:
Bánh xe
lấy nước trên sông Trà Khúc:
18.
đồng bằng Quảng Ngãi
-Sông
Trà Bồng chảy trong huyện cùng tên, qua thị trấn Châu
Ổ, huyện lị huyện Bình Sơn rồi đổ ra cửa Sa Kì ở
vũng Dung Quất:
Đi
ngang lên mũi Sa Kỳ
Ngó
ra lao Ré, xiết chi nỗi sầu
Lao
Ré trong ca dao là Cù Lao Ré, còn gọi là đảo Lý Sơn ỏ
ven bờ biển Quảng Ngãi
-Sông
Trà Khúc ( còn có tên khác là sông Thạch Nham) dài 120 km,
phát nguyên vùng núi phía TN tỉnh Quảng Ngãi và Cao
Nguyên, chảy theo hướng TN - ĐB qua thị xã Quảng Ngãi và
đổ ra biển ở cửa Cổ Lủy. Trên sông này có đập
thủy nông Thạch Nham xây vào thời đệ nhất Cọng Hoà
năm 1959
Ai
về Thiên Ấn sông Trà
Có
thương thì hãy ghé nhà thăm em
-Sông
Vệ bắt nguồn ở phía TN huyện Ba Tơ, chảy theo hướng
TN- ĐB qua các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa trong tỉnh Quảng
Ngãi, rồi đổ ra cửa Cổ Lủy ở phía Đ thị xã Quảng
Ngãi.
-sông
Trà Cầu là một sông nhỏ, bắt nguồn từ vùng Ba Tơ,
chảy qua huyện Đức Phổ rồi ra cửa biển cùng tên .
19.
đồng bằng Bình Định
có nhiều đồng bằng nhỏ (Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ,
Phù Cát) với tổng diện tích chừng 1 550 km2, nhưng
chỉ có đồng bằng Qui Nhơn là rộng nhất vì chiếm đến
500km2;
Từ
ngoài vào, phải kể :
-
Sông An Lão bắt nguồn từ vùng núi huyện Ba Tơ tỉnh
Quảng Ngãi
Nước
Ba Tơ chảy vô Bình Định
Nhắn
bạn chung tình tránh nịnh, chớ theo
và
chảy từ Bắc xuống Nam qua các huyện An Lão, Hoài Ân
tỉnh Bình Định và hợp với sông Lại (Lại Giang) ở
gần thị trấn huyện lị huyện Hoài Nhơn trước khi đổ
ra biển
Nước
Lại Giang mênh mang mùa nắng
Dòng
sông Côn lai láng mùa mưa
Đã
cam tháng đợi năm chờ
Duyên
em đục chịu, trông nhờ quản bao
-sông
Trúc chỉ là một sông nhỏ chảy từ đầm Trà Ổ ra biển
ở huyện Phù Mỹ.
-Sông
Côn dài hơn sông trên, phát nguyên từ khối núi Ngọc
Rô ở huyện Kon Plong tỉnh Kontum, đoạn thượng lưu là
sông Dak Cron Bung, đoạn trung lưu, chảy vào huyện
Tây Sơn có tên sông Hà Giao, đoạn hạ lưu chia ra nhiều
chi lưu, đổ ra vịnh Quy Nhơn.
Vài
ca dao có địa danh thuộc Bình Định như sau:
-Anh
về Đập Đá , Gò Găng
Để
em kéo vải sáng trăng một mình
-Tam
Quan đất tốt trồng dừa
Nam
thanh nữ tú cho vừa ý anh
1.10.
đồng bằng Tuy Hoà do Sông
Ba bồi đắp. Đây là một con sông lớn và dài gần
400km, bắt nguồn từ cao nguyên Kontum, chảy qua các tỉnh
Pleiku và Phú Yên rồi ra biển ỏ Tuy Hoà . Đoạn hạ lưu,
từ chỗ hợp lưu với sông Hinh ỏ Củng Sơn, chảy ra
biển, gọi là sông Đà Rằng, có đập Đồng Cam . Lưu
vực rất rộng ( 13800km2); với một lưu vực rộng lớn
như thế cọng thêm hệ thống dẫn nước của đập Đồng
Cam tưới các cánh đồng phù sa phì nhiêu, tạo một nền
nông nghiệp phát đạt.:
Tiếng
đồn Bình Định tốt nhà
Phú Yên tốt ruộng, Khánh
Hoà tốt trâu
Bên
phải sông Ba có một nhánh gọi là sông Hinh hợp với
sông Ba ở Củng Sơn, huyện lỵ của huyện Sơn Hoà. Trên
sông có trạm thủy điện Sông Hinh, công suất 66 MW
Trong
đồng bằng Phú Yên cũng có một đầm lớn rộng 1500ha,
có sò huyết, tục gọi đầm Ô Loan.
1.11.
đồng bằng Khánh Hoà hay
Nha Trang chỉ gồm hai đồng bằng chính là đồng bằng
Ninh Hoà (100km2) và đồng bằng Nha Trang (135 km2), ngoài ra
toàn các đồng bằng nho nhỏ. Giữa mũi Đèo Cả đến
mũi Dinh (Padaran), bờ biển có nhiều bãi rất đẹp như
bãi biển Đại Lãnh phía bắc Ninh Hoà và nhiều hòn đảo
nhỏ ngày nay đã dính liền vào bờ biển bởi những giải
duyên hải từ Bắc đến Nam.
Sông
Cái chảy qua thành phố Nha Trang :
-Anh
muốn tìm nguồn nước trong
Nên
đi ngược dòng sông Cái
Hay
vì bị bùa ngải
Nên
anh phải bỏ bãi, lên nguồn?
Thuyền
anh dù thuận gió đi luôn
Đến
đầu Thác Ngựa cũng phải cuốn buồm trở lui
(Thác
Ngựa là một trong các thác nguy hiểm ở thượng nguồn
sông Nha Trang)
-Thơm
Vạn Giã thơm đà qúa ngọt
Mía
Phú Ân cái đọt cũng ngon
Hỡi
người chưa vợ chưa con
Vào
đây chung gánh nước non với mình
Quản
bao lên thác xuống ghềnh
Mía
ngon, thơm ngọt đượm tình quê hương
-Phải
chi Sông Cái có cầu
Thiếp
qua, thiếp giải cơn sầu chàng nghe
Ai
làm chén nọ xa ve
Mùa xuân thiếp đợi, mùa hè chàng trông
Biết
là có đặng hay không
Đó chờ, đây đợi uổng công hai đàng
1.12.
đồng bằng Ninh Thuận.
Vùng này có tiếng nắng thừa mưa thiếu, khô hạn . Sông
Phan Rang, còn gọi sông Cái có đập Nha Trinh , ngày nay nhờ
nước xả của đập thủy điện Danhim trên Dalat, nên
lượng nước sử dụng cho sự tưới ruộng được
nhiều hơn. Phía Đông Bắc thị xã Phan Rang, có đầm Nại
rộng 700 ha .
Tại
đồng bằng Phan Rang, mùa nắng hiện tượng bốc hơi xảy
ra rất mạnh, do sự mao dẫn, các mầu bọt trắng đục
đùn lên mặt đất. Đó là đất cà giang, nhiều cacbonat
natri, dân địa phương thiếu xabông dùng chất đó kỳ cọ
khi tắm
1.13.
đồng bằng Bình Thuận
Từ
mũi Dinh đến Phan Thiết, giãy núi Trường Sơn ở xa bỡ
biển hơn, do đó các đồng bằng rộng hơn nhưng lại
khô hạn: vũ lượng hàng năm nhỏ hơn 600mm và số ngày
mưa ít hơn 80. Nhờ khô hạn, sự bốc hơi nước mạnh
nên có nhiều ruộng muối như ở Cà Ná.
Nếu
kể bắt đầu từ ngoài vào, ta có sông Lòng Sông, chảy
qua huyện Tuy Phong,rồi đến sông Lủy với sông Mao,
một sông nhánh bên trái của sông Lủy, đổ ra cửa Phan
Rí..
Sông
Mường Mán chảy qua Phan Thiết
Quần
đảo Phú Qúy ngoài khơi Bình Thuận
2.
Lưu vực và ảnh hưởng rừng trên lưu vực
Lưu
vực sông là vùng lãnh thổ mà sông nhận được nưóc
nuôi dưỡng. Các dòng sông miền Trung có lưu vực nhỏ,
chỉ trừ sông Mã, sông Cả , sông Thu Bồn và sông Ba .
Trong thủy lợi, diện tích lưu vực sông được tính từ
nguồn đến vị trí công trình tính toán
Rừng
có ảnh hưởng đến các yếu tố thủy văn trong lưu vực:
rừng hạn chế dòng chảy mặt, chuyển nước mặt thành
nước ngầm, nhờ vậy có tác dụng điều tiết nguồn
nước sông suối Rừng bảo vệ đất trên các triền lưu
vực, giúp chống xói mòn. Những lưu vực có rừng
che phủ thì độ ẩm không khí tăng cao, làm tăng lượng
nước rơi địa hình. Chính nhờ các khả năng điều tiết
to lớn như vậy của rừng nên sự phá rừng bừa
bãi trên lưu vực đã dẫn đến những kết qủa tai hại
như lũ lụt xảy ra, hạn hạn tiếp diễn, xói mòn triền
dốc, đem theo cả sỏi đá lẫn cát bùn làm nhiều hồ
chứa nước dễ bị bít và cạn, phải nạo vét định kỳ
Để
dễ bề so sánh, sông Hồng dài 1126 km và có lưu vực
toàn thể là 168 700 km2 trong đó chiều dài chảy trong
nước là 556 km và lưu vực trong nước là 86 500
km2; sông Mekong có lưu vực toàn thể rất rộng:
795 000km2, trong đó chỉ có 71 000km2 là nằm trong
nước.
3.
Công dụng của các dòng sông
Trong
các tài nguyên thiên nhiên, sông ngòi là một tài nguyên
vô giá vì đảm nhận nhiều chức năng, cung cấp cho con
người những dịch vụ tối cần cho cuộc sống.
Sông
ngòi giữ nhiều chức năng quan trọng như:
.cung
cấp nước sinh hoạt
.nước
dùng trong các kỹ nghệ: mía đường, xi măng, giấy
.đem
từng lớp lớp phù sa về giúp cho nông nghiệp trồng
trọt, chăn nuôi
.nuôi
trồng thủy sản ở mọi môi trường: thủy sản nước
ngọt, thủy sản nước lợ và nước mặn
.
vận tải ghe thuyền chuyên chở phẩm vật từ miền xuôi
lên miền ngược và đem sản phẩm miền núi xuống đồng
bằng:
Ai
về nhắn với họ nguồn
Mít
non chở xuống, cá chuồn chở lên
.
hồ chứa nước tại các vùng cao vừa sản xuất
điện năng, vừa công dụng tưới nước và điều hoà
dòng chảy
4.
Sông nước trong văn học dân gian
Sông
ngòi luôn luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ, văn,
nhạc. Những bài thơ Đường của Lý Bạch, của Thôi
Hiệu, bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, bản nhạc Dòng
Sông Xanh đều lấy sông làm nguồn cảm hứng. Riêng văn
học dân gian cũng có nhiều điệu hò trên sông nước. Vì
sự vận chuyển hàng hoá bằng ghe thuyền đòi hỏi chèo
chống khó nhọc nên để bớt vất vả khi chèo đò, nhiều
loại hò ra đời với nội dung rất phong phú, phản
ánh phong cảnh thiên nhiên, mối tình trai gái v.v. Cùng với
mái chèo cất nhịp, những lời ca giàu tính chất trữ
tình giúp cả khách lẫn trai chèo quên đi những nhọc
nhằn, nỗi lạnh lẽo tịch mịch của đêm truờng. Văn
học dân gian được phong phú thêm với những hò
Huế, hò Quảng, hò sông Mã v.v.
Dòng
sông ở Huế với nhiều điệu hò: mái nhì, mái đẩy,
dô hậy, đẩy nôốc là những thể hò dân gian trên sông
nước. Tiếng hò của mối tình ngang trái:
Nước
chảy xuôi, con cá buôi lội ngược
Nước
chảy ngược, con cá vượt lội ngang
Thuyền
em xuống bến Thuận An
Thuyền
anh lại trẩy lên ngàn anh ơi !
Câu
hò mái nhì gợi nhiều rung cảm do tình yêu đôi lứa:
Nước
đầu cầu, khúc sâu khúc cạn
Chèo
qua Ngọc Trản, đến mạn Kim Long
Sương
sa gió thổi lạnh lùng
Sóng
xao trăng lặn, gợi lòng nhớ thương
Tình
yêu chân thật, tình yêu không son phấn là những đề tài
trong các câu hò dân gian:
Thiên
sanh nhân, hà nhân vô lộc
Địa
sanh thảo, hà thảo vô căn
Một
mình em ngồi dựa lòng thuyền, dưới nưóc trên trăng
Biết
cùng ai trao duyên gửi phận, cho được bằng thế gian
Hò
khoan có cả hò trên vạn, hò dưới nước. Hò khoan cũng
được gọi với nhiều tên như hò đối đáp, hò chào
mừng. Nhiều loại hò có tính cách chơi chữ dân gian và
lối chơi chữ của nhà nho rất thông dụng:
Cá
có đâu mà anh ngồi câu đó
Biết
có không mà công khó anh ơi ..
Hoặc:
Gái
Xuân em đi chợ Hạ
Mua
con cá Thu về chợ hãy đang Đông
Ai
nói với anh em đã có chồng
Tức
mình em đổ cá xuống sông em về
Hoặc:
Người
Kim mã cưõi con Ngựa vàng,
Đất
Phù Long rồng nổi, thời chàng đói chi
Người
con trai cũng đối lại:
Người
Thanh Thủy gặp khách Nước Trong,
Hoành Sơn ngang núi, đã thoả
lòng em chưa ?
Hò
có nhiều loại tùy động tác như hò rời bến, hò đò
xuôi, hò mắc cạn v.v.Nhạc điệu tùy lúc. Hò đò xuôi
khi thuận buồm xuôi gió với nhạc điệu dài đều;
hò mắc cạn thì khi dứt một câu hò thì trai đò phải
đồng lên tiếng ‘vác’ đồng thời đem hết sức
vác thuyền và cứ dứt một câu hò, thuyền nhích được
một đoạn
Những
câu hò, câu hát cũng dùng sông để ví von, so sánh:
-Bao
giờ cho sóng bỏ gành
Cù
lao bỏ biển, anh mới đành bỏ em .
-Cây
đa cũ, bến dò xưa,
Người
thương có nghĩa, nắng mưa ta vẫn chờ
-Nào
khi mô, em nói với anh :
Sông
cạn, mà tình không cạn,
Vàng
mòn, mà nghĩa chẳng mòn
Nay
chừ nước lại xa non,
Đêm
năm canh tơ tưởng, héo hon ruột tằm
-Muời
hai bến nước là duyên
Em
cũng muốn bến hiền thuyền đậu
Nhưng
em trách cho hai bên phụ mẫu
Làm
cho hai đứa không nên thất nên gia
Xa
cách này bởi tại mẹ cha
Làm
cho nên nỗi bướm hoa lìa cành
5.
Vài đại lượng cần biết trong thủy lợi
Tài
nguyên nước bao gồm cả nước mặt do mưa rơi xuống
sông, suối, ao hồ và nước ngầm. Nước ngầm cũng
phụ thuộc vào lượng nước mưa rơi và tính chất thấm
nước của đất đá .
Thủy
lợi là khoa học tổng hợp
nhằm đánh giá, khai thác sử dụng hợp lý và bảo vệ
tài nguyên nước và bao gồm đánh giá và quy hoạch nguồn
nước; khảo sát và thiết kế, xây dựng công trình; quản
lý lưu vực; chỉnh trị sông, bờ biển
Thủy
văn (hydrologie ) là lĩnh
vực nghiên cứu khoa học về nước thông qua quan trắc,
phân tích và công thức hoá . Cũng là khoa học ứng dụng
nhằm điều khiển và sử dụng nước. Chế độ thủy
văn dao động theo mùa về mực nước, về dòng chảy,
về thành phần và nồng độ các chất hoà tan, sự thay
đổi lòng sông
Bốc
thoát hơi nước là lượng
nước bốc hơi từ mặt đất và thoát hơi từ câỵ Do
giá trị thực tế của lượng hơi nước bốc ra từ đất
và từ cây rất khác nhau, tùy theo tính chất đất, hàm
lượng nước, thảm cây che phủ đất nên các nhà khoa
học đề nghị một lượng
bốc thoát hơi nước tiềm tàng (évapotranspiration
potentielle) để dễ so sánh. Bốc thoát hơi nước tiềm
tàng là lượng nước tối đa thoát ra từ một thảm
thực vật thấp và dày đặc đồng đều không bị hạn
chế và bốc hơi từ đất lên, khi lượng nước cung cấp
hoàn toàn bảo đảm trong những điều kiện khí hậu thổ
nhưỡng nhất định.
Lưu
vực sông (bassin versant;
watershed) là vùng lãnh thổ mà sông nhận được nước
nuôi dưỡng. Có vài sông lưu vực lớn ở Viet Nam như
sông Mekong, sông Hồng v.v. Trong thủy lợi, diện tích lưu
vực sông được tính từ nguồn đến vị trí công trình
tính toán.. Ví dụ: sông Đà có diện tích lưu vực là
52 900 km2, nhưng sông Đà ở Hoà Bình thì lưu vực là
51 800 km2.
Đoạt
giang (river piracy). Đầu
nguồn một dòng sông có thể do xói mòn lùi ngược và
đoạt nước thượng nguồn của một dòng sông thuộc
lưu vực khác. Một vài sông miền Trung đã do xói mòn vào
đường phân nước nên đã ăn vào phần thượng nguồn
dòng sông lưu vực bên Lào .
Lưu
lượng dòng sông
Lưu
lượng nước là lượng
nước chảy qua một mặt cắt ngang của lòng dẫn hoặc
ống dẫn trong một đơn vị thời gian một giây. Đơn vị
tính thường là m3/sec hay lit/sec.
Lưu
lượng biến thiên theo thời gian:
Mùa
lủ muộn dần từ Thanh Hoá đến Phan Thiết.
Mùa
lũ ở Sông Chu : tháng 6- 10; sông Cả: tháng 8 -11; sông
Gianh : tháng 9- 11. Từ Thừa Thiên đến Khánh Hoà: từ
tháng 10 đến tháng 1 năm sau. Từ Phan Rang đến Hàm Tân
(Bình Tuy/Bình Thuận), mùa lũ xuất hiện tháng 7- 12
Lưu
lượng lớn nhất của con lũ phụ thuộc chủ yếu
vào cường độ, thời gian mưa và đặc tính lưu vực.
Mùa
cạn là lúc lưu lượng dòng chảy thấp, giảm đến đáng
kể. Nhiều dòng sông nhỏ có thể lội qua được. Sông
Chu có mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 5; sông Cả từ
tháng 12 đến tháng 7; sông Gianh từ tháng 12 đến tháng
8. Từ Huế vào, mùa cạn từ tháng 2 đến tháng 8.
Nhiều
tỉnh miền bắc Trung Việt như Thanh, Nghệ, Tỉnh, Bình,
Trị bị thêm gió Lào nóng thổi từng cơn ác liệt vì
hiện tượng foehn , sự bốc thoát hơi của đất và của
cây rất mạnh; có khi hạn hán kéo dài không trồng hoa
màu được ; nhiều hồ thủy điện bị khô nước.
Mật
độ lưới sông là tỉ số
giữa tổng số độ dài của tất cả sông suối trong hệ
thống sông trên diện tích lưu vực. Trong khi miền Châu
thổ sông Hồng và sông Cửu Long, kinh rạch sông ngòi
chằng chịt, mật độ lưới sông rất dày (2 -4 km/km2)
thì miền Trung, mật độ lưới sông thấp hơn (1.5 -
2 km/km2). Riêng các vùng có đá vôi như Phong Nha,
Kẻ Bàng ở Quảng Bình thì mật độ rất thưa (0.3-
0.5 km /km2) vì đá vôi dễ thấm nưóc. Mật độ lưới
sông vùng Phan Rang, Phan Thiết cũng thưa thớt vì lưu vực
mưa ít và bốc hơi nhiều.
Hệ
số dòng chảy là tỉ số
giữa lớp dòng chảy (mm) và lớp nước mưa rơi trên lưu
vực (mm) tạo nên lượng dòng chảy đó.
Hệ
số sử dụng nước là tỉ
số giữa lượng nưóc thực sự sử dụng và lượng nước
được cung cấp. Hệ số này phản ánh tình hình mất
nước trong qúa trình sủ dụng. Trong một hệ thống tưới
ruộng thì hệ số này cho thấy tình hình mất nước từ
nguồn tới ruộng như tổn thất do ngấm, bốc hơi, rò rỉ
qua các bờ kênh. Thường hệ số này từ 0.5 đến 0.8.
Muốn tránh rò rĩ trên kinh tưới, nhiều nơi dùng giải
pháp bê tông hoá hoặc plastic hoá các kinh
Hệ
số thấm là tốc độ
thấm nưóc vào đất
Hệ
số tưới là lượng nước
tưới cho một đơn vị diện tích cây trồng trong một
đơn vị thời gian. Tính bằng l/sec/ha. Ví dụ trên lúa là
1 lit/sec/ha, nhưng trên bắp thì chỉ 0. 7 l/sec/ha
Hệ
số nhám. Trong kinh dẫn
nước có thể có thực vật phát triển, tăng độ gồ
ghề của bề mặt, ảnh hưởng đến dòng chảy
Mođun
dòng chảy là lưu lượng
nước sinh ra trung bình trên một đơn vị diện tích lưu
vực trong một giâỵ. Tính ra là lít/sec/km2.
Mođun
dòng chảy năm lớn nhất đạt tới 70- 80lít/sec/km2 tại
lưu vực sông Tả Trạch (sông Hương) và nhỏ nhất chỉ
có 5-10 lít/sec/km2 tại lưu vực song Lủy Phan Thiết.
Môđun dòng chảy đỉnh lũ có thể đạt 20-30 m3/sec/km2
Dòng
chảy bùn cát, còn gọi là dòng
chảy rắn là lượng bùn
cát do dòng nước vận chuyển trong lòng sông qua một mặt
cắt nào đó, trong một khoảng thời gian nhất định như
ngày, tháng, năm.. Sông Hồng và sông Cửu Long có dòng
chảy bùn cát nhiều phù sa lơ lửng rất lớn.
Kênh
dẫn nước đưa nước từ công trình đầu mối (đập,
hồ, nhánh sông v.v.) về phân phối cho hệ thống kênh
điều tiết nước mặt ruộng, còn kênh tiêu (canal de
drainage) dẫn nước thừa trên ruộng ra sông hoặc ra khu
chứa nước tiêu
Tưới
nước có nhiều phương pháp:
Tưới
ngập (submersion irrigation)
tạo một lớp nước trên ruộng như trồng lúa . Đòi hỏi
phải san bằng đất và đắp nhiều bờ để giữ nước
Tưới
rãnh (furrow irrigation) hoặc
tưới thấm: đưa nước chảy theo rãnh để nước thấm
vào đất theo chiều ngang, giữ được đất thông khí và
xốp. Ứng dụng cho bắp đậu trồng theo hàng
Tưới
nhỏ giọt (drip irrigation):
cung cấp nước từng giọt trực tiếp vào gốc cây . Nước
tưới được lọc sạch cặn nếu không lỗ bị bít. Lưu
lượng tưới rất nhỏ (thường chỉ vài lít trong một
giờ) vừa đủ thấm vào đất
Tưới
phun (Sprinkler irrgation):
dùng máy bơm hút nước và phun lên thành hạt nhỏ như
mưa . Ưu điểm là không cần đắp bờ, san bằng đất
khi tưới nhưng khuyết điểm là tăng bốc hơi, tăng ẩm
độ không khí có thể tạo điều kiện cho bệnh thảo
mộc và ngoài ra, thiết bị bơm đắt tiền
6. Các vấn nạn những dòng sông
Dòng
sông vốn là một tài nguyên qúy giá nhưng gặp các vấn
nạn sau đây :
6.1 Lũ
lụt .Vì các dòng sông
miền Trung không dài, độ dốc núi non rất lớn, đồi
núi trọc, không cây che phủ nên nước mưa, vốn tập
trung vào vài tháng trong năm, dễ gây ra lụt, nhất
là từ Thanh Hoá đến Quảng Nam. Rừng bị phá hại đã
làm các qúa trình địa mạo tiêu cực như xói mòn,
rửa trôi, trượt lở đất xảy ra nhanh chóng .
6.2 Hạn
hán. Cũng vì phá rừng nên
lượng mưa chảy tràn trên mặt (runoff) nhiều hơn lượng
nước mưa thấm vào đất. Gặp mùa nắng kéo dài hoặc
khi mùa mưa kết thúc sớm, lưu lượng trên sông giảm
dần nên nhiều nơi thiếu nước sinh hoạt.
6.3
Mặn hoá Do bùng nổ dân
số, sinh đẻ búa xua không kiểm soát, các đồng bằng
miền Trung có diện tích đất trồng trọt được càng
ngày càng nhỏ nên phải tận dụng thâm canh vào mùa khô,
do đó phải bơm nước tưới ruộng, làm nước nhiễm mặn
càng xâm nhập sâu. Do bơm nước, mực nước hạ thấp,
cường độ thấm nước từ các sông tăng lên, làm nước
mặn ngoài biển lấn vào.Vào cuối mùa nắng, khi dòng
chảy của sông ngòi nhỏ nhất thì độ mặn lên xa trên
mọi dòng sông miền Trung, gây khó khăn cho dân chúng về
nước uống cũng như về tưới hoa màu. Cũng có chỗ hệ
thống đê ngăn mặn bị vỡ khiến nhiều ruộng bị mặn,
không trồng trọt được.
6.4 Sạt
lở bờ sông . Sự khai
thác bừa bãi càng ngày càng nhiều các tài nguyên như
cát, sỏi, vật liệu xây dựng trên các dòng sông để
xây cất trong qúa trình đô thị hoá cũng như xây kè lấn
ra bờ sông làm thay đổi dòng chảy hiện có, thay
đổi cấu trúc/kết cấu/ địa mạo dòng sông, gây nhiều
vực sâu, đưa đến tình trạng sạt lở về lâu dài, như
tình trạng các dòng sông như Thu Bồn, Trà Khúc v.v.
khiến nhiều gia đình sống mấp mé bên các triền sông
phải di dời hàng năm.
6.5 Bùn
cát lơ lửng : nếu
nhiều trong dòng nước thì các hồ chứa bị bồi
đầy nhanh chóng. Sự phá rừng trên thượng nguồn
làm bào mòn lưu vực và do đó, lượng phù sa lắng
đọng sẽ tăng cao lòng sông và làm giảm sự thoát lũ.
Sông Hương chảy qua thành phố Huế là một ví dụ điển
hình: bùn cát làm dòng sông đục ngàu, không còn xanh
trong như xưa.
6.6
Thủy triều và sóng lớn
. Các rừng ngập mặn bị phá để làm đìa nuôi tôm, nên
các làng duyên hải càng bị gió ngoài khơi thổi mạnh,
không có hàng rào thực vật thiên nhiên chống đỡ, nên
triều cường và sóng lớn lấn sâu vào đất liền; nhiều
đìa nuôi tôm, nhièu ao nuôi cá cuốn trôi ra biển. Triều
cường làm nhiều vùng thấp bị ngập hư hại và làm các
đê bao, đê ngăn mặn bị phá hủy . Khi thủy triều vào
trong sông, độ mặn lan truyền, khuyếch tán. Dưới tác
dụng của dòng triều, nước biển xâm nhập vào sông, đi
về hướng thượng nguồn. Chiều dài xâm nhập phụ thuộc
vào cường độ của dòng triều và lượng nước trên
thượng lưu đổ về.
6.7
Ô nhiễm nước
Nếu xưa
kia, nước quan trọng thì ngày nay, nước lại càng quan
trọng hơn. Lý do chính là do áp lực dân số, tạo nên
nhu cầu nước. Kỹ nghệ phát triển, đô thị phát
triển, dân số phát triển kéo theo nhiều phế thải và
nhiều ô nhiễm; nhưng vì mọi ô nhiễm dù là từ đất
(bãi rác rò rĩ, thuốc sát trùng, phân bón ), dù là từ
không khí (từ các khu kỹ nghệ, từ khói xe) nhưng cuối
cùng rồi cũng phải chảy về chỗ thấp, nghĩa là
vào nước.Tóm lại, nước không những phải nhiều cho
một dân số càng ngày càng tăng (Việt Nam nay đã 80 triệu
dân) mà còn phải sạch để bảo đảm sức khoẻ.
Nước mà dơ bẩn thì vô hình gây ra một gánh nặng cho
nền y tế. Đặc biệt, trên các dòng sông miền Trung, có
nhiều vạn đò sống trên sông và sử dụng trực
tiếp nước sông nên dịch bệnh là một ám ảnh
thường xuyên .Thực vậy, phần lớn phân người từ các
đô thị đi thẳng vào sông ngòi mà không được xử lý
.
Mọi
vấn nạn trên đều có tương quan với nhau. Mùa mưa, nước
lụt cuốn trôi nhà cửa ruộng vườn vì mưa lũ nhiều do
rừng đầu nguồn bị phá; mùa nắng thì do bơm nước
nhiều qúa sự luân lưu của dòng chảy (nước mặt và
nước ngầm ) nên nước mặn xâm nhập sâu vào nội
địa.
Muốn
giải quyết các vấn nạn trên, sự quản trị đồng bộ
của lưu vực đòi hỏi những biện pháp tổng hợp :
-trồng
rừng ở đầu nguồn để chuyển một phần nước mặt
thành nước ngầm nhằm hạn chế nưóc lũ dồn về hạ
lưu qúa nhanh, kéo dài thời gian truyền lũ. Rừng cây giúp
giảm tốc độ dòng chảy, giảm lượng nước chảy tràn
bề mặt và lượng đất bị xói mòn.
Sự
phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên rừng không
loại trừ lẫn nhau; đúng hơn, chúng phụ thuộc và hỗ
trợ cho nhau . Tài nguyên rừng bảo vệ tài nguyên nước
và nhờ tài nguyên nước, mới có những đập thủy điện
nhỏ trên các vùng núi non, giúp nông dân thôn bản có thể
giải trí nhờ truyền hình, giúp xay lúa, chà gạo, giải
phóng phụ nữ khỏi các việc nặng nhọc lam lũ.
-xây
dựng các hồ chứa đầu nguồn để tích nước nhằm
giảm mức độ của lũ. Các công trình giữ nước trên
núi hay vùng gò đồi giúp điều tiết lượng nước.
Có thể nuôi cá trên các hồ được đào theo hệ thống
hồ bậc thang có phun nước, nhận nước và xả nước.
Trên các suối, xây đập ,làm hệ thống nước chảy tự
động từ suối vào vườn để tưới cây trồng.
-xây
dựng các đập tức là những công trình chắn ngang dòng
chảy, ngăn nước hoặc tạo thành hồ chứa để điều
tiết lưu lượng, bớt được lũ lụt ở hạ lưu vào mùa
mưa, bổ sung nguồn nước vào mùa nắng để tưới ruộng,
cấp nước sinh hoạt, cải tạo môi trường đầm phá,
tạo đầu nước phát thủy điện.
-phân
một phần lưu lượng lũ của sông chính vào sông nhánh
Và lồng
ghép vào chương trình trên phải là một chuơng trình điều
hoà dân số,- chú trọng vào chất lượng hơn là số
lượng dân-, cũng giúp cải thiện môi trường sống, vì
có sự liên hệ chặt chẽ giữa dân số và môi trường
7 Bảo vệ các môi trường
7.1 Bảo
vệ môi trường nước ngọt
Nước
phế thải từ các nhà máy cũng như nước sinh hoạt đô
thị cần được xử lý nghĩa là làm giảm bớt nồng độ
các độc tố trước khi cho thoát ra kinh rạch vì nếu
không sẽ nguy hiểm cho sự tồn vong nhiều loài cá, tôm
cũng như nguy hiểm cho sức khỏe dân sống trên các vạn
chài..
Cần
lưu ý là nước, ngoài khía cạnh giá trị vật chất,
phải được xem có giá trị tinh thần vì hồ ao, sông
suối có tác động thẩm mỹ, thông thoáng, giúp con người
tìm một chút thanh thản trong cuộc sống xô bồ của xã
hội đô thị ngày nay .
7.2 Bảo
vệ môi trường nước lợ
Môi
trường nước lợ ở cửa sông biển, rất đa dạng về
sinh cảnh vì có các rừng ngập mặn, các đầm lầy cỏ,
các thảm cỏ nước, ‘bốn bề bát ngát mênh mông, triều
dâng hôm sớm, mây lồng trước sau’. Ngoài rừng ngập
mặn với đước, sú, bần, vẹt, còn có đầm lầy.
Đây là bãi sinh sản của các loài thủy sinh, là nơi chắn
sóng, chắn bão, là nơi cung cấp nguồn lợi thủy hải
sản tôm cua, nhuyễn thể và cá. v.v…Môi trường
này là nơi rất thích hợp cho sự quần tụ các loại
cò: Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm (Chinh Phụ
Ngâm), các loài chim nước di cư trú đông, từ miền lạnh
đến như vịt trời, ngỗng trời v.v.
Bảo
vệ môi trường nước lợ cũng để phát triển du lịch
sinh thái với quan sát đàn cò, xem vượn khỉ, chèo thuyền
dọc kinh rạch chằng chịt, chưa nói đến bảo vệ nhiều
nguồn gen, nguồn giống và nguồn lợi thủy sản; bảo
vệ các giải rừng sú vẹt có thể giảm bớt thiên
tai, gió bão.
7.
3 Bảo vệ môi trường nước mặn
Bảo
vệ môi trường biển có nghĩa là chỉ khai thác phần
lời, cụ thể là phải đảm bảo cho các loài sinh vật
có thể tiếp tục sinh sản và phát triển; bảo vệ
đàn tôm con ở gần bờ, các hệ sinh thái tự nhiên của
tôm con nghĩa là các rừng ngập mặn, vịnh nhỏ, bãi
rong, tảo, thiết lập các vùng bảo vệ tài nguyên sinh
vật biển vì nhiều loài có nguy cơ bị tiêu diệt như
rùa biển vì lấy thịt ăn và mai rùa làm mỹ phẩm.
Thực
vậy, Liên Hiệp Quốc đã đặt năm 1998 có tên ‘Năm đại
dương’ để cảnh báo việc bảo vệ môi trường và
sinh vật biển.
Bảo
vệ môi trường biển là tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển ngành du lịch trong nước và quốc tế vì
những thế kỷ sau, tuổi thọ càng ngày càng cao, mức
sống cao lên, thì du lịch tăng thêm và đó là
khu vực Việt Nam cần phát triển các dịch vụ để tạo
công việc cho những thế hệ trẻ cứ mỗi năm gia nhập
vào thị trường nhân công. Bờ biển Việt Nam có nhiều
bãi dài và đẹp, không thua gì Cancun, Puerto Vaillarta của
Mexico nhưng thiếu đầu tư , thiếu tổ chức, xây cất
bừa bãi, nước cống các khách sạn đổ thẳng ra bờ
biển nên gây thêm ô nhiễm
*
*
*
Miền
Trung, quê em nghèo, đất cày lên sỏi đá, nhưng có hai
tài nguyên tái tạo được là rừng trên giãy Trường sơn
chạy dài vừa chứa rừng, vừa chứa nước đều là năng
lượng tái tạo, cọng thêm gió Lào thổi mạnh trong vài
tháng đầu hè. Nước và rừng là hai nguồn năng lượng
có thể tái tạo (renewable resource), thay vì than đá, dầu
hoả là những nguồn năng lượng cạn kiệt dần với
thời gian khai thác. Biết tái chế biến nước thải làm
lại cho sạch trước khi trả lại cho sông, tăng diện
tích rừng trên các lưu vực là yêu thiên nhiên. Trong Hội
nghị Thượng Đỉnh trái đất về phát triển bền
vững ở Johannesburg Nam Phi tháng 9 năm 2002, các nhà lãnh
đạo thế giới cũng kêu gọi các nước tăng dần
việc sử dụng các nguồn năng lượng có thể tái tạo.
Nước và rừng như một cặp bài trùng, có cọng sinh, có
tương quan nhân qủa, có tác động tuần hoàn.
Healthy
cùng với wealthy một vần
.Bổn phận của mỗi người sinh sống trên các giải đồng
bằng miền Trung là phải làm thiên nhiên xinh đẹp hơn,
trong sạch hơn. Như vậy, ta đã để lại cho các thế hệ
tương lai một di chúc qúi báu, vì hệ sinh thái có vững
mạnh, không ô nhiễm thì con người mới có sức khoẻ
thể chất và tâm linh. Nói cách khác, phương trình hai vế
sau đây phải được nghiệm đúng : Healthy
ecosystems= Healthy people. Mà
healthy (có sức khỏe) cũng dẫn tới wealthy (giàu), vì có
sức khoẻ thì mới sản xuất ra của cải, dùng tiền
tiết kiệm để đầu tư ra của cải, thay vì dùng để
mua thuốc trị bệnh.
Thái
Công Tụng
Thư
tịch sơ lược
Asian
Development Bank. Environments
in Transition. Cambodia, Lao PDR, Thailand, Viet Nam . ADB 2000
Hà
Mai Phương. Địa lý Việt
Nam. Mai Hiên xb 1979
Lê
Hữu Mục Văn hoá nuớc
.Vietnamologica số 5 Trung Tâm Việt Nam Học Canada xb 2001
Nguyễn
Dưọc và Trung Hải .Sổ
tay địa danh Việt Nam. Nhà xb Giáo Dục 1999
Thái
Công Tụng. The irrigated
plains in North Nghệ An province .Vietnamologica number 4. Montreal
2000
Thái
Công Tụng Land use in Thanh
Hoá province, with special reference to the Bái Thượng dam
irrigation rehabilitation project . Vietnamologica number 2. Montreal
1996
Thái
Công Tụng. Natural
environment and land use in South Viet Nam. Institute of Agricultural
Research. Saigon 1972
Viện
Khoa Học Xã Hội Việt Nam . Địa lý Việt
Nam. Nhà xuất bản khoa Học Xã Hội Hà Nội 1990