Một Cái Nhìn Về
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC VIỆT NAM
Nguyễn Đức Tuyên
Bản báo cáo ngày 10.11.2004 về tình trạng giáo dục thế giới do UNESCO phổ biến, nói rằng trong thập kỷ qua, giáo dục tiểu học ở Việt Nam đã được cải thiện, nhưng Chính phủ phải cố gắng hơn nữa để nâng cấp chất lượng giáo dục. Theo bản báo cáo đó, ba nguyên nhân chính gây trở ngại cho nền giáo dục tiểu học Việt Nam là : thiếu ngân sách, thiếu cơ sở giáo dục và không đủ giáo viên giỏi. UNESCO chỉ đánh giá giáo dục Việt Nam chủ yếu ở bậc tiểu học mà không có dịp đề cập đến bậc phổ thông và đại học. Chúng tôi nghĩ rằng, nguyên nhân sâu xa của hiện trạng giáo dục Việt Nam bắt nguồn từ một triết lý giáo dục, cách quản trị giáo dục và nhất là những tác động của cơ chế xã hội ảnh hưởng đến nền giáo dục và dẫn tới hiện trạng.
Trong
khi chúng tôi chuẩn bị cuộc khảo sát về thực trạng
giáo dục Việt Nam thì có một sự kiện ngẫu nhiên xảy
ra, đó là sự trùng hợp với giai đoạn mọi người đang
say sưa bàn thảo về giáo dục, trong đó có bản báo cáo
về tình hình giáo dục do ông Bộ trưởng Giáo dục và
Đào tạo đọc trước Quốc hội và báo cáo thẩm
tra của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên
và Nhi đồng của Quốc hội vào cuối năm 2004. Bên cạnh
đó là hàng loạt những nhận định, góp ý, kiến nghị
liên quan đến vấn đề giáo dục ở Việt Nam nhiều khi
rất gay go, triệt để.
I. TỔ CHỨC GIÁO DỤC
Đứng
về phương diện lý thuyết, khi khảo sát về một nền
giáo dục của một quốc gia, trước hết chúng ta cần
xem xét cách tổ chức giáo dục qua các luật lệ cùng chủ
trương, đường lối để biết rõ về tổ chức giáo dục
ra sao. Chúng tôi sẽ trình bầy những nét chính về Luật
Giáo Dục, bậc Đại học, Đại học tư thục, Cơ sở
nước ngoài, bậc Trung học, bậc Tiểu học và luật lệ
liên quan tới việc đào tạo giáo chức.
-
Luật Giáo Dục
Luật
mang số 11/1998/QH10, gồm 9 Chương, 110 điều, ban hành ngày
2 tháng 12 năm 1998, có những nét chính sau đây :
“Luật
giáo dục quy định về hệ thống giáo dục quốc dân; về
nhà trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo
dục quốc dân, của cơ quan hành chính nhà nước, của tổ
chức chính trị, xã hội, của lực lượng vũ trang nhân
dân; và về tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo
dục. “(Điều
1)
“Nền
giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa
có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng.” (trích
Điều 3)
“Nội
dung, phương pháp giáo dục được thể hiện thành chương
trình giáo dục; chương trình giáo dục được cụ thể
hóa thành sách giáo khoa, giáo trình.“ (trích
Điều 4)
“Hệ
thống giáo dục quốc dân gồm:
-
Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo;
-
Giáo dục phổ thông có hai bậc học là bậc tiểu học
và bậc trung học, bậc trung học có hai cấp học là cấp
trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông;
-
Giáo dục nghề nghiệp có trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề;
-
Giáo dục đại học đào tạo hai trình độ là trình độ
cao đẳng và trình độ đại học; giáo dục sau đại học
đào tạo hai trình độ là trình độ thạc sĩ và trình
độ tiến sĩ. (Điều
6)
“Phương
thức giáo dục gồm giáo dục chính quy và giáo dục không
chính quy.
“Văn
bằng của hệ thống giáo dục quốc dân gồm bằng tốt
nghiệp tiểu học, bằng tốt nghiệp trung học cơ sở,
bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, bằng tốt nghiệp
trung học chuyên nghiệp, bằng tốt nghiệp đào tạo nghề,
bằng tốt nghiệp cao đẳng, bằng tốt nghiệp đại học,
bằng thạc sĩ, và bằng tiến sĩ.
“Nhà
nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân
về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo
dục, tiêu chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử và hệ thống
văn bằng.
“Nhà
nước quản lý việc xuất bản, in và phát hành sách giáo
khoa.
“Trình
độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo được qui định
như sau:
-
Có bằng tốt nghiệp trung học sư phạm đối với giáo
viên mầm non, giáo viên tiểu học;
-
Có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm đối với giáo
viên trung học cơ sở;
-
Có bằng tốt nghiệp đại học sư phạm đối với giáo
viên trung học phổ thông;
“Tổ
chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhà trường lãnh đạo
nhà trường và hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và
pháp luật. (Điều
51)
“Đoàn
thể, tổ chức xã hội hoạt động trong nhà trường theo
quy định của pháp luật và có trách nhiệm góp phần
thực hiện mục tiêu giáo dục theo quy định của Luật
này. (Điều
52)
Nghị
định 43/2000/NĐ-CP ngày 30.9.1992, quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục
về chương trình giáo dục, sách giáo khoa và giáo trình,
thi và văn bằng; về mạng lưới, tổ chức, hoạt động,
cơ sở vật chất của nhà trường và cơ sở giáo dục
khác; về tuyển dụng, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm,
thỉnh giảng và khen thưởng đối với giáo chức; về
chính sách đối với người học; và về các điều kiện
tài chính của hệ thống giáo dục quốc dân.
Mặc
dù đã dự thảo đến lần thứ 10, nhưng Luật Giáo dục
sửa đổi vẫn chưa giải quyết được những vấn đề
khẩn thiết của giáo dục hiện nay. Do vậy, Luật Giáo
dục sửa đổi đã phải lùi thời hạn trình Quốc hội
vào đầu năm 2005.
-
Bậc Đại Học
Hiện
nay cả nước có 127 trường Cao Đẳng, 87 trường Đại
Học, học viện. Có 147 cơ sở đào tạo sau Đại Học,
trong đó có 95 cơ sở được đào tạo tiến sĩ. So với
5 năm trước đây, có thêm 23 trường Đại Học và 52
trường Cao Đẳng. Hiện nay các cơ sở tập trung chủ yếu
ở Hà Nộ và Sài Gòn. Cả nước có 6 trường Đại Học,
Cao Đẳng bán công nhưng chẳng trường nào giống trường
nào.
Điều
Lệ Trường Cao Đẳng được qui định theo Quyết Định
số 56 /2003/QĐ-BGD&ĐT ngày 10.12. 2003 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Điều
lệ Trường Đại Học được ban hành theo quyết định
số 153/2003/QĐ-TTg ngày 30 tháng 7 năm 2003, gồm 10 Chương,
58 Điều.
Các
loại hình trường đại học bao gồm: công lập, bán
công, dân lập và tư thục. Trường đại học chịu sự
quản lý nhà nước về giáo dục của Bộ Giáo dục và
Đào tạo; chịu sự quản lý hành chính theo lãnh thổ của
ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
nơi trường đặt trụ sở.
Trường
đại học, theo lý thuyết, được quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về quy
hoạch, kế hoạch phát triển nhà trường, tổ chức các
hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ, tài chính,
quan hệ quốc tế, tổ chức và nhân sự.
Trường
đại học tổ chức xây dựng chương trình đào tạo, kế
hoạch giảng dạy và học tập cho các ngành đào tạo của
trường trên cơ sở chương trình khung do Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành.
Cơ
cấu tổ chức của trường đại học bao gồm các cơ cấu
bình thường của một đại học, đặc biệt có thêm Tổ
chức Đảng Cộng sản Việt Nam (
Điều 29, đoạn i ),
các đoàn thể và tổ chức xã hội (Điều
29, đoạn k).
Nhiệm
kỳ của Hội đồng trường là 5 năm. Hội đồng trường
có các thành viên là : Hiệu trưởng, Bí thư Đảng ủy
trường, đại diện các giảng viên, cán bộ quản lý
giáo dục có uy tín trong và ngoài trường, các tổ chức
chính trị-xã hội trong trường.
-
Đại Học Tư Thục
Ngày
17.1.2005, Chính phủ đã ra Quyết định về việc ban hành
Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học
tư thục số 14/2005/QĐ-TTg, gồm 7 Chương, 41 Điều, đại
lược như sau :
-
Trường đại học tư thục do người có quốc tịch Việt
Nam đề nghị thành lập và hoạt động, có tư cách pháp
nhân, có con dấu riêng và được mở tài khoản tại các
ngân hàng, kho bạc nhà nước, có địa vị pháp lý như
các trường đại học công lập trong hệ thống giáo dục
quốc dân.
-
Trường đại học tư thục chịu sự quản lý nhà nước
về giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo; chịu sự
quản lý hành chính theo lãnh thổ của Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi trường đặt
trụ sở.
-
Tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong trường đại
học tư thục hoạt động theo hiến pháp, pháp luật và
các quy định của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội trong
trường đại học tư thục hoạt động theo quy định của
hiến pháp và pháp luật.
-
Nhiệm vụ của trường đại học tư thục là đào tạo
nhân lực có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có
kiến thức và năng lực.
-
Trường đại học tư thục được quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiệm về quy hoạch, kế hoạch phát triển
nhà trường, tổ chức các hoạt động đào tạo, khoa học
và công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế, tổ chức và
nhân sự.
-
Việc thành lập trường được tiến hành theo hai bước
: bước thứ nhất, xây dựng và thông qua đề án tiền
khả thi; bước thứ hai, xây dựng và thẩm định dự án
khả thi.
-
Trường đại học tư thục được xét thành lập khi có
đủ các điều kiện quy định tại Điều 46 Luật Giáo
dục, Điều lệ trường đại học và Quy chế này.
-
Các trường đại học công lập, bán công, dân lập được
chuyển đổi thành loại hình trường đại học tư thục
khi có các điều kiện được quy định.
-
Trường đại học tư thục tổ chức quản lý bảo đảm
các yêu cầu về cơ cấu tổ chức quy định trong Điều
lệ trường đại học và phù hợp với điều kiện, quy
mô của trường.
-
Ngôn ngữ chính thức giảng dạy ở trường đại học tư
thục là tiếng Việt. Trong những chương trình hợp tác
với nước ngoài, chương trình đào tạo ngôn ngữ và văn
hóa nước ngoài và một số ngành học khác có thể giảng
dạy trực tiếp bằng tiếng nước ngoài, tiếng dân tộc
theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
-
Trường đại học tư thục hoạt động theo nguyên tắc
tự nguyện góp vốn, tự chủ về tài chính, tự cân đối
thu chi, thực hiện các quy định của pháp luật về chế
độ kế toán, thống kê, nghĩa vụ với ngân sách nhà
nước và các quy định hiện hành khác có liên quan.
-
Cơ Sở Nước Ngoài
-
Việc quản lý và đảm bảo các điều kiện thuận lợi
cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia vào việc phát
triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục ở Việt Nam dược
qui định theo Nghị Định số 18/2001/NĐ/CP ngày 4.5.2001,
gồm 6 Chương, 38 Điều, có mấy điểm chủ yếu như sau
:
-
Nghị định này quy định về thiết lập và hoạt động
của các cơ sở Văn hóa - Giáo dục nước ngoài (VHGDNN)
tại Việt Nam để phát triển giáo dục, giao lưu văn hóa,
không nhằm mục đích thu lợi nhuận nên nguồn thu từ
các hoạt động này chỉ dùng để đầu tư phát triển
sự nghiệp văn hóa - giáo dục.
-
Cơ sở VHGDNN tại Việt Nam là tên gọi chung các tổ chức,
cơ quan văn hóa (như Văn phòng đại diện, Trung tâm, Viện,
Làng, Câu lạc bộ, Thư viện, Nhà trưng bày, Công viên,
Bảo tàng, Thảo cầm viên, v.v...), giáo dục (như Văn
phòng đại diện, Trường học Quốc tế, Trường Đại
học, Trung tâm dạy nghề, v.v...), văn hóa và giáo dục
(như Văn phòng đại diện, Trường Văn hóa nghệ thuật,
Nhà Văn hóa có lớp dạy ngoại ngữ...) được Nhà nước
Việt Nam cho phép người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài (gọi
chung là Bên nước ngoài) thành lập hoặc tham gia thành
lập và tổ chức hoạt động tại Việt Nam
-
Cơ sở VHGDNN được thành lập dưới các hình thức sau:
Văn phòng đại diện, cơ sở liên kết, cơ sở độc lập.
-
Tổ chức VHGDNN được xét cấp giấy phép đặt Văn phòng
đại diện khi có đủ các điều kiện : tư cách pháp,
điều lệ, tôn chỉ, mục đích và thời gian hoạt động
từ 3 năm trở lên, chương trình, dự án được phía Việt
Nam quan tâm và có khả năng thực hiện nhằm thúc đẩy
sự phát triển văn hóa, giáo dục của Việt Nam.
-
Cơ sở VHGDNN có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật Việt Nam,
không được lợi dụng các hoạt động văn hóa, giáo dục
để tuyên truyền sai đường lối, chủ trương, chính
sách của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, kích động bạo
lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, phá hoại thuần
phong mỹ tục, truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, mê
tín hủ tục và tệ nạn xã hội.
-
Công dân Việt Nam làm việc tại cơ sở VHGDNN có quyền
tham gia các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, đoàn thể khác theo điều lệ của các tổ chức
này và theo quy định của pháp luật Việt Nam.
-
Cơ sở VHGDNN được phép nhập khẩu hoặc tạm nhập tái
xuất các phương tiện cần thiết cho hoạt động của cơ
sở và cho nhu cầu làm việc và sinh hoạt của công dân
nước ngoài làm việc tại cơ sở VHGDNN theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
-
Trong thời gian hoạt động tại Việt Nam cơ sở VHGDNN
được Nhà nước Việt Nam bảo hộ các quyền và lợi
ích hợp pháp theo pháp luật Việt Nam và các điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết
hoặc tham gia. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham
gia có quy định khác với quy định của Nghị định này
thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
-
Bậc Trung học
Theo
Quyết Định số 23/2000/QĐ-BGDĐT ngày 11 tháng 7 năm 2000,
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Điều lệ Trường Trung
học gồm có 7 Chương và 45 Điều, có một vài d8iểm
đáng lưu ý :
-
Trường trung học được tổ chức theo các loại hình
công lập, bán công, dân lập và tư thục. Ngoài ra còn có
các trường trung học chuyên biệt như : dân tộc, phổ
thông chuyên, năng khiếu nghệ thuật, năng khiếu thể dục
thể thao, trẻ em khuyết tật.
-
Tuổi của học sinh ở lớp đầu cấp trung
học cơ sở là
11 đến 14, ở đầu cấp trung
học phổ thông
là 15 đến 19; học sinh gái được tăng một tuổi so với
tuổi quy định.
-
Học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông đã học
hết chương trình, được dự thi tốt nghiệp và nếu đạt
yêu cầu thì được cấp bằng tốt nghiệp. Theo quyết
định mới năm 2005, việc thi trung
học cơ sở đã
bãi bỏ.
-
Hội đồng giáo dục trường gồm có : Hiệu trưởng, phó
hiệu trưởng, bí thư chi bộ đảng, chủ tịch công đoàn
giáo dục, bí thư Đoàn Thanh niện cộng sản Hồ Chí Minh
và một số giáo viên. (Điều 18)
-
Tổ chức
Đảng trong trường
trung học lãnh đạo nhà trường và hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật (Điều 20.1)1
-
Bậc Tiểu Học:
Điều
Lệ Trường Tiểu học được ban hành theo quyết định
số 22/2000/QD-BGDĐT ngày 11 tháng 7 năm 2000 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, gồm 7 Chương, 49 Điều, trong đó có
những điểm đáng lưu ý như sau:
Trường
tiểu học là cơ sở giáo dục của bậc tiểu học, bậc
giáo dục nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo dục tiểu
học được tổ chức theo các loại hình công lập, bán
công, dân lập.
Tất
cả trẻ em từ 6 đến 14 tuổi đều được nhận vào học
một trường tiểu học.(Điều 38)
-
Hội đồng giáo dục trường gồm có : Hiệu trưởng, phó
hiệu trưởng, bí thư chi bộ đảng, chủ tịch công đoàn
giáo dục, bí thư Đoàn Thanh niện cộng sản Hồ Chí Minh
và một số giáo viên. (Điều 21.1)
-
Tổ chức
Đảng trong trường
tiểu học lãnh đạo nhà trường và hoạt động trrong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.2
(
Điều 23.1)
-
Công đoàn giáo dục, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Sao nhi đồng
Hồ Chí Minh và các tổ chức
xã hội khác hoạt động trong trường tiểu học theo quy
định của pháp luật..(
Điều 23.2)
-
Vấn đề Đào tạo:
Kế
hoạch và nội dung bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục được ban hành kèm theo Chỉ thị số 19
/2001/CT-BGD&ĐT ngày 31/5/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo; ngoài những vấn đề chuyên môn và sư
phạm, còn có mấy điểm chính như sau:
Nội
dung bồi dưỡng chung: Quán triệt những nội dung cơ bản
của các văn kiện của Đảng đã được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần IX của Đảng thông qua, vận dụng
quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo vào thực
tiễn của ngành, địa phương.
Đối
với giảng viên và giáo viên chính trị :
Nghiên
cứu học tập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX : Vận dụng các nội dung cơ bản trong các
văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX vào
giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; bồi dưỡng một số vấn đề chuyên môn, nghiệp
vụ.
Bồi
dưỡng hệ thống chuyên đề nâng cao và đào tạo lại
một số vấn đề sau: Về chủ nghĩa xã hội; Về chủ
nghĩa tư bản ngày nay; Về vấn đề giai cấp, dân tộc;
Về tôn giáo; Về sự tế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế.
Nhìn
qua những văn kiện pháp quy, chúng ta có thể rút ra những
đặc điểm của nền giáo dục Việt Nam hiện tại như
sau: tất cả đều do Đảng lãnh đạo và quản lý.
II.
PHẢN ỨNG CỦA CÁC CHUYÊN GIA VÀ QUẦN CHÚNG VỀ HIỆN
TRẠNG GIÁO DỤC VIỆT NAM
Phản
ứng của các chuyên gia và quần chúng liên quan đến hiện
trạng giáo dục Việt Nam nói chung là thất vọng và bất
mãn. Chỉ đọc những đề mục nêu trên các báo, nhất
là báo điện tử, ta cũng thấy nền giáo dục Việt Nam
được vẽ ra một bức tranh khá thê thảm.
Sau
đây chúng tôi xin trích dẫn một số ý kiến, xếp theo
một số chủ đề, trước hết là những phát biểu liên
quan đến việc giảng dậy môn triết học Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp theo là vài nhận xét về
việc giảng dậy môn văn, vài nét về đại học Mỹ
thuật, đại học Kinh tế, và đại học Y khoa, qua bậc
tiểu học, tình trạng sách giáo khoa, thi cử, văn bằng,
vấn đề học phí, tình trạng giáo chức, và sau đó là
một vài vấn đề cốt lõi:
Chủ Nghĩa
-
Khó mà có thể không đồng ý rằng, khai hoá bắt đầu từ giáo dục. Nhưng cũng khó mà đồng ý rằng ở Việt Nam chúng ta đang để mặc tuổi trẻ phát triển vu vơ, không định hướng. Điều quan trọng là định hướng ấy là gì và chúng sẽ dẫn tuổi trẻ đi đến đâu. Quyết định mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo kí ngày 23.2.2004, sinh viên hệ chính quy các trường Cao đẳng-Đại học toàn quốc bắt buộc phải thi tốt nghiệp ba môn thuộc các phần: Khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; Kiến thức cơ sở của ngành và kiến thức chuyên môn. Các môn học của bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện đang được giảng dạy tại tất cả các trường Đại Học, Cộng đồng gồm: Triết học Mác-Lênin, Kinh tế Chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Quyết định này áp dụng cho sinh viên từ khoá tuyển sinh năm 2002 và sẽ có hiệu lực từ ngày 09.3.2004, tức sau 15 ngày kể từ ngày công bố. (Quốc Việt) 3
-
Việc nội dung của những môn học trên đây liệu có còn một tí ti ứng dụng thực tiễn trong đời sống xã hội Việt nam hay không, có thể còn cần đến tranh luận công khai, có thể còn tốn giấy bút và trí óc hơn những luận lí trong bài viết này nhiều. Nhưng chính điều đó lại càng làm cho việc đưa những môn học này thành những môn học bắt buộc toàn quốc là : phản tiến bộ về phương diện giáo dục, là đi ngược lại các mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo theo những chuẩn mực quốc tế, lãng phí thời gian và tiền bạc của quốc gia, là tước bỏ quyền được học những môn học thiết thực, bổ ích khác của sinh viên phục vụ cho yêu cầu xây dựng xã hội và đất nước. Việc Bộ Giáo dục ra quyết định học bắt buộc với những môn học trên, trong bối cảnh không có bất kì một môn học khác để tham chiếu và so sánh là cố tình quay lưng lại với thực tế xã hội, với các yêu cầu của đất nước. (Quốc Việt) 4
-
Tôi giảng dạy môn Triết học Mác - Lênin, nên tôi thường đi thẳng vào vấn đề để nói cho phù hợp đối tượng sinh viên. Có những lúc tôi phải đối diện với sự thật xã hội, như biến cố của Liên Xô cũ trước đây cũng có tác động ít nhiều vào nhận thức xã hội. Tuy nhiên, về cơ bản Triết học Mác - Lênin không có gì thay đổi. Tùy theo đối tượng sinh viên, người thầy phải lưu ý điều này cho sinh viên của mình, từ đó mới bắt đầu hướng dẫn sinh viên tiếp thu những kiến thức cơ bản và phương pháp tiếp cận khoa học. Tiếp cận khoa học không có nghĩa là chỉ chấp nhận những kiến thức đã hoàn thiện mà phải không ngừng bổ sung để sinh viên trong quá trình học luôn tìm tòi, khám phá những cái mới. (Thạc sĩ Phạm Thị Hồng Hoa - giảng viên đại học Khoa học-Xã hội và Nhân văn).
-
Một khi trong kinh tế chính trị học các giảng viên có chút suy nghĩ riêng không còn thao thao một chiều về lý luận kinh tế XHCN với đặc điểm ưu việt quan trọng nhất là “quản lý tập trung, có kế hoạch” nữa, trong khung khổ các giáo trình triết học của chương trình lý luận cao cấp phần khó dạy nhất là phần “chủ nghĩa xã hội khoa học”, thì trong lý luận văn học, như một hiệu ứng kéo theo, phần lý luận về phương pháp sáng tác, đặc biệt là phương pháp sáng tác hiện thực XHCN - và rồi cả phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa nói chung - cũng, nói đơn giản theo dân gian, là sẽ được lặng lẽ “lờ” đi. 5
Chương Trình
-
"Tôi đã có xem qua một số giáo trình về văn hóa, văn học do một số thầy giáo ở đại học hay cao đẳng biên soạn được bày bán ở hiệu sách. Tôi nghĩ giá mà sinh viên không phải học hay đọc những giáo trình như vậy có lẽ trình độ biết đâu sẽ khá hơn."6
-
Chương trình học ở Việt Nam quá dài; không phải là dậy nghề cũng không phải là đào tạo một người có kiến thức sâu và tính sáng tạo; không trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản và toàn diện khoa học tự nhiên, nhân văn, văn chương và nghệ thuật; không có một lớp nào về phương pháp nghiên cứu và viết luận văn; Ở đại học Việt Nam tất cả các môn có tính bắt buộc, học sinh không có quyền tự chọn; trong ngành học chính (như toán, vật lý, hoá học, kinh tế, tâm lý, văn chương, v.v.); ngoài các lớp cơ bản phải học, học sinh cũng có quyền tự chọn các lớp trong ngành chính, ngược lại học sinh ở Việt Nam phải học tất cả mọi thứ mà nhà trường đã quyết định sẵn; Chương trình về chủ nghĩa Mác – Lenin, chính trị chủ nghĩa xã hội, lịch sử Đảng chiếm 203 giờ, bằng 9% chương trình, quá nặng và cũng là lý do làm tăng số giờ so với số giờ giảng dậy lên tới 2184.7
-
Ai cũng biết vai trò quan trọng then chốt của giáo dục đối với tiền đồ dân tộc. Thế nhưng, từ nhiều năm, chúng ta đã để cho giáo dục Việt Nam tụt hậu khá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chưa bao giờ tình hình giáo dục trở nên bức xúc như hiện nay. Nhìn chung cả nước, hệ thống giáo dục chưa ra khỏi trạng thái lộn xộn bất bình thường, hoạt động không theo quy luật khoa học, hiệu quả kém, chất lượng thấp, đang có nguy cơ bị thương mại hoá theo xu hướng ngược với lý tưởng công bằng và dân chủ của xã hội. Về cả ba phương diện dân trí, nhân lực và nhân tài, những bất cập đều quá rõ: Dân trí thấp, biểu hiện trên lối sống và suy nghĩ, tập quán, tác phong, tư tưởng, ý thức... Đạo đức bị xói mòn, thói gian dối, thiếu trung thực đang tác động nặng nề đến mọi mặt của đời sống xã hội. Nhân lực không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Yếu kiến thức, kém kỹ năng thực hành, ít khả năng xoay xở, thiếu đầu óc tưởng tượng và năng lực sáng tạo, đó là những đặc trưng chất lượng lao động khiến sức cạnh tranh rất thấp. Nhân tài tuy không đến nỗi quá thiếu nhưng phát hiện và bồi dưỡng kém, thiếu cơ hội và điều kiện phát triển. Chất xám bị lãng phí nghiêm trọng dưới nhiều hình thức khác nhau.
Đương
nhiên, đây không chỉ là vấn đề của giáo dục, mà là
vấn đề của toàn xã hội, nhưng trong đó trách nhiệm
và vai trò của giáo dục rất lớn.8
Môn Văn
Sau
đây là trích đoạn cuộc trao đổi của báo điện tử
talawas với ông Nguyễn Đăng Mạnh:
talawas:
Thưa Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, ông là một trong những
người phụ trách soạn thảo chương trình sách giáo khoa
phổ thông trung học ở Việt Nam?
Nguyễn
Đăng Mạnh (NĐM):
Tôi được giao làm chủ biên biên soạn chương trình và
sách giáo khoa văn học cấp III, gọi là chương trình và
sách giáo khoa cải cách giáo dục, khởi thảo từ
1989,1990. Trước năm 89-90, chương trình dạy văn trong
trường phổ thông ở Việt Nam được soạn vào khoảng
năm 54–55 gì đó khi hoà bình lập lại ở miền Bắc,
chương trình này cũng đã trải qua một vài sửa đổi
nhất định.
talawas:
Xin ông cho ví dụ.
NĐM:
Chuyện lâu rồi tôi không còn nhớ mấy. Chương trình hồi
ấy có không ít tác phẩm giá trị thẩm mỹ hết sức
thấp kém.
Tôi
cho rằng dạy văn thì phải đúng là dạy văn, chương
trình văn học thì phải đúng là chương trình văn học.
Vẫn quan tâm tới vấn đề tư tưởng, nhưng phải có
phẩm chất văn học thật sự. Vẫn tuyển lựa nhiều tác
giả, nhưng tập trung vào chín ông nhà văn. Chín vị này
được tuyển nhiều hơn những tác giả khác, có bài khái
quát riêng về tác giả. Đó là: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Hồ Chí Minh, Tố Hữu,
Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Nam Cao. Tất nhiên không phải chỉ
có chín ông này là lớn hơn cả, nhưng chúng tôi cũng
phải cân nhắc nhiều mặt: có miền Nam, miền Bắc; có
giai đoạn lịch sử này, giai đoạn lịch sử kia; tiêu
biểu cho những trường phái văn học nhất định. Tinh
thần đổi mới của chương trình này là: dạy văn phải
đúng là dạy văn, lịch sử văn học phải đúng là lịch
sử văn học, chứ không phải dạy lịch sử chính trị,
lịch sử xã hội ... Đặt trong hoàn cảnh của nó, đây
là một cuộc cách mạng quan trọng của ngành giáo dục.9
talawas:
Nếu chỉ xét trên tư cách là một tác giả văn chương,
ông có cho rằng tác giả Hồ Chí Minh có thể khẳng định
chỗ đứng của mình trong lịch sử văn học Việt Nam
không?
NĐM:
Tôi cho là có. Tôi cho rằng Hồ Chí Minh là một tài năng
nghệ sĩ thực sự, tuy cụ làm văn, làm thơ phục vụ mục
đích chính trị.10
talawas:
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được coi là
nền móng mĩ học của giai đoạn văn học 1945 – 1975 và
cả sau này. Học sinh hiện nay được học về chủ nghĩa
ấy như thế nào?
NĐM:
Nói thật là hiện nay không có ai công khai bác bỏ chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhưng người ta cũng
không nói đến nó nữa, ngay cả sách giáo khoa cũng không
nhắc đến.
talawas:
Tại các nước
Đông Âu cũ, sách giáo khoa, nhất là các sách Văn và Sử
hoàn toàn không được dùng nữa sau khi chế độ cũ sụp
đổ...
NĐM:
Ở Việt Nam mình thì không quan niệm như vậy. Và làm gì
có sự sụp đổ 11
Trong
khi đó, Hà Thư Sinh
trình bầy như sau:
-
Trong 12 năm đi học phổ thông, bạn bè tôi và tôi sợ nhất là 2 tiết làm văn nghị luận. Bắt đầu từ lớp 8 thì phải. Trong hai giờ dài lê thê đó chúng tôi phải làm những bài văn bình luận, phân tích, chứng minh nhận định của một vị lãnh đạo văn nghệ đáng kính nào đó hoặc là nhận định của các nhà soạn sách giáo khoa, những đề văn na ná giống nhau như: “Chứng minh chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thơ văn giai đoạn…”. Có bao giờ bạn được phép viết điều bạn nghĩ đâu. Nếu bạn viết: “truyện về chị Sứ chán phèo”, hay “thơ Tố Hữu dở ẹc” chẳng hạn, thì sẽ có vấn đề ngay. Bài văn sẽ bị điểm 0. Bạn sẽ bị quy là có tư tưởng phản động, phải viết bản kiểm điểm thành khẩn hối lỗi, đạo đức bị xếp loại yếu hoặc cao lắm là trung bình. Bố mẹ bạn sẽ được mời lên trường làm việc ngay.12
Đại
học Mỹ thuật
-
Trường Đại Học Mỹ Thuật hiện nay duy nhất có một khoa đầy đủ chức năng huấn luyện sinh viên trở thành một designer chính hiệu, đó là khoa Mỹ thuật Ứng dụng, mà trong đó một thầy vừa kiêm trưởng khoa vừa chủ nhiệm dạy liên tiếp cho 3 cấp độ khác nhau: năm 3, năm 4, năm 5. Riêng khoa sơn mài, không ít sinh viên phải lao đao trong những tháng cuối làm bài tốt nghiệp, họ không lo sợ trước tác phẩm sắp trình bày mà lo sợ... ông thầy.
Nói
về triển lãm, tôi nghĩ khó lòng tìm ra ở Sài Gòn hoặc
cả Việt Nam một triển lãm của mấy thầy, triển lãm
chung đã hiếm chứ đừng nói đến triển lãm cá nhân!
Trong
mấy năm học, tôi chưa bao giờ thấy nhà trường mời
các nhà phê bình đến nói chuyện chuyên đề về phê
bình tranh cho sinh viên chứ đừng nói đến mời các hoạ
sĩ nước ngoài hoặc trong khu vực đến nói chuyện, trao
đổi kinh nghiệm về kĩ năng sáng tác hoặc thuyết trình
thêm về sự đa dạng các trường phái mới trong hội
hoạ.
Ngoài
ra, lỗ hổng lớn nhất và đem lại nhiều thiệt thòi
nhất cho sinh viên là sự bảo vệ tác phẩm của họ ở
mỗi kì thi cuối năm hoặc kì thi tốt nghiệp. Họ không
được chuẩn bị, rèn luyện ý thức về sự chuyên
nghiệp của một hoạ sĩ khi đứng trước tác phẩm của
mình, tự trình bày, nói lên ý tưởng, cảm xúc vốn có
hoặc bảo vệ tác phẩm.13
Đại
học Y khoa
-
Yêu cầu đối với SV y khoa rất cao. Có lẽ chưa có ngành nghề nào các em sẽ phải học, thực tập nhiều như thế. Có thầy đặt câu hỏi với SV: “Bác sĩ kém chữa bệnh cho ai?” và khẳng định: “Không thể chấp nhận SV y khoa điểm trung bình”. Vậy các em đã sẵn sàng?
Tiếc
thay, một kết quả học tập tốt trên ghế nhà trường
đối với nhiều em vẫn còn rất xa sự mong đợi. Vừa
mới đây thôi, trong một lần họp giao ban với các khoa
tại Bệnh viện ĐH Y dược TP.HCM, GS Nguyễn Đình Hối -
hiệu trưởng, đã rất lo lắng về lỗ hổng kiến thức
của không ít SV ra trường những năm gần đây, kể cả
diện đã học nội trú (thêm ba năm).
Ông
không bằng lòng cách học của nhiều sinh viên. Thực tế
cho thấy đây quả là nỗi lo không chỉ của riêng thầy
hiệu trưởng. Chưa phải tất cả bộ môn trong trường
đã siết chặt đầu ra, nhưng 30% SV cuối khóa 2004 đã
không đủ điểm để được tốt nghiệp đúng kỳ hạn14.
Đại
học Kinh tế
-
Chương trình học kinh tế đòi hỏi 1451 giờ học kinh tế so với ở Mỹ chỉ đòi hỏi tối thiểu là 480 giờ (tức là 1/3 chương trình đại học), như vậy đòi hỏi học các môn kinh tế gấp 3 lần số giờ ở đại học Mỹ. Nhìn chương trình giảng dậy ở Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh ta thấy, học sinh trong 4 năm phải học gần như tất cả mọi thứ trên đời về kinh tế mà nhà trường có thể nghĩ ra được, từ các môn cơ bản như kinh tế vi mô và vĩ mô, đến các môn như kinh tế lao động, quản trị xí nghiệp, kế toán, địa lý kinh tế, luật kinh tế, dân số học, chính sách thương mại, kinh tế tài nguyên và môi trường, phân tích dự án kinh tế, thị trường chứng khoán, v.v. Đây là những môn ít khi dậy ở cấp đại học 4 năm và có dậy thì chỉ là những môn để học sinh có thể chọn lựa, và đây cũng là những môn mà trường đại học có thầy đã và đang nghiên cứu chuyên sâu. Đòi hỏi mỗi thứ một tí, học sinh không có khả năng hoặc thì giờ đi sâu vào bất cứ vấn đề gì và chắc chắn là thầy cũng chỉ đọc sách nói lại mà không hiểu thầy có hiểu không nữa. Theo các tài liệu giáo khoa của trường thì nội dung rất là rất nặng lý thuyết mà nhiều phần học sinh ở Mỹ chỉ học trong chương trình sau cử nhân. Như vậy trường chỉ nhằm nhồi sọ kiến thức lý thuyết kinh tế mà sự phân chia chi li các lớp học thì có vẻ thực dụng như dậy nghề.15
Bậc
Tiểu học
-
Nhưng do phải chạy theo những chỉ tiêu vô lý mà ngành giáo dục đã đề ra hàng năm và bắt buộc giáo viên chúng tôi phải làm theo nên dần dần kiến thức mà học trò nhận được chỉ là những diều sáo rỗng, không thực tế.
Theo
tôi, học sinh bây giờ đến trường như là một người
máy, chúng phải chuyển tải, phải nhồi nhét những kiến
thức mà chúng không thể hiểu được. Vì giáo viên chúng
tôi phải chạy đua với thời gian mới có thể cơ bản
chuyển tải hết kiến thức trong một tiết dạy cho học
sinh. Những thành tích mà theo báo cáo mỗi năm chúng tôi
đã đạt được sẽ không bao giờ phản ánh đúng thực
trạng giáo dục hiện nay.16
Sách giáo khoa
-
Chúng tôi đã viết nhiều bài báo, chỉ đích danh hàng chục vị giáo sư đầu ngành, hàng chục vị giáo sư tiến sĩ khoa học hẳn hoi ăn cắp văn, ăn cắp cả công trình khá đồ sộ của những người khác để viết sách giáo khoa, sách giáo trình, ví như hai bộ giáo trình đại học văn hoá học ở hai miền Bắc và Nam. Sự dối trá, lừa đảo, đạo văn... vẫn đang nằm chềnh ềnh trên các giá sách thư viện đại học và các hiệu sách, núp dưới tên tuổi của nhiều vị giáo sư khả kính. Có khá nhiều vị giáo sư nổi tiếng lấy bài của hàng trăm, hàng chục người khác in thành sách, chỉ viết bài tựa nhỏ mà nghiễm nhiên đề tên mình lên thành tác giả. Có những vị chủ biên sách giáo khoa văn dám đề tên mình là tác giả một cuốn sách nước ngoài do chính các vị ấy dịch, dù các vị này có dây phần bằng bài tựa ăn theo.17
Thi Cử
-
Kết thúc hai đợt thi đại học tháng 7 năm 2004, số thí sinh đến dự thi là hơn 888,000, đạt 77.97% so với số hồ sơ đăng ký. Nét đáng lưu ý trong mùa thi năm nay là số thí sinh bị kỷ luật giảm đi nhưng số giám thị phạm quy lại tăng lên. Thống kê ban đầu cả hai đợt thi, có 3,186 thí sinh vi phạm quy chế bị xử lý kỷ luật tại chỗ (bằng 80% năm 2003), trong đó có 2,367 bị đình chỉ thi. Cả hai đợt có 14 cán bộ tuyển sinh phạm quy, tăng hơn gấp đôi so với năm ngoái.
Văn bằng
-
Báo chí gần đây đưa tin Hội đồng phong Giáo sư (GS) và Phó giáo sư (PGS) đã phong chức danh này cho 37 GS và 302 PGS. Ðã hơn 20 năm qua, người ta coi GS, PGS là học hàm nhà nước phong cho một người, (như phẩm hàm triều đình ban tặng suốt đời) chứ không phải là một chức danh (tên gọi) của người làm nhiệm vụ giảng dạy có trình độ cao ở đại học (ÐH) và sau ÐH. Do vậy đã có khoảng 75% GS và PGS công tác ở các cơ quan, kể cả hành chính, không giảng dạy ÐH. Con số GS, PGS của Việt Nam là 6,384 người (trong số này không biết có bao nhiêu người không đọc được một tờ báo nước ngoài chứ chưa nói chuyện giao tiếp với các nhà khoa học nước ngoài hay báo cáo công trình của mình bằng tiếng nước ngoài). Còn số lượng Tiến sĩ khoa học và Tiến sĩ thì Việt Nam có khoảng trên 20 ngàn người. Theo số liệu của Vụ đại học và sau đại học thì từ năm 1976 đến 2004, Bộ GD&ÐT đã cấp 38 bằng Tiến sĩ khoa học, 4,278 Phó tiến sĩ (thời kì chưa đổi tên gọi), Tiến sĩ 3,075 và Thạc sĩ do Bộ cấp là 24,049, Thạc sĩ do trường ÐH cấp từ 1999 là 7,026. Chưa kể mấy ngàn PTS đào tạo ở nước ngoài trước đây được chuyển tên gọi là TS. Người ta ước tính có khoảng trên 21,000 người làm khoa học (gồm GS, PGS, TSKH, TS…). Quy mô đào tạo dự tính từ nay đến năm 2010 sẽ có thêm 38,000 Thạc sĩ và 15,000 TS nữa! Xem những con số GS, PGS, TSKH, TS đó, không người nước ngoài nào lại không thấy nền giáo dục và khoa học nước ta là phát triển hơn nhiều nước trong khu vực và đáng khâm phục! 18
-
Bộ Công an CSVN vừa có văn bản số 771, gửi các tổng cục, công an các tỉnh, thành phố về cách giải quyết số cán bộ, nhân viên trong ngành đã sử dụng văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp như sau: «Cán bộ chiến sĩ do sử dụng văn bằng trung học phổ thông (THPT) không hợp pháp để đưa vào hồ sơ dự thi và học, tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung cấp, ngoài việc xử lý kỷ luật theo qui định, phải tiếp tục theo học thi lấy bằng THPT hợp pháp để được công nhận trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp. Nếu sau 1-2 năm mà không có bằng THPT hợp pháp thì thu hồi văn bằng cao hơn». Để ra lệnh này, Bộ Công an CSVN cho biết đã «căn cứ tình hình chung của các bộ ngành khác»... là thực tế số cán bộ ăn gian nói dối quá đông.19
Học phí
-
Theo sự nhận xét của giáo sư Nguyễn Xuân Hãn nói về học phí ở Việt Nam ngày nay: «Học phí quá cao là sự vô lý. Nhà nước nói rằng đầu tư vào việc học là đầu tư vào sự phát triển, do đó chi phí của nhà nước cũng ngày càng tăng. Tại trường trung học phổ thông phường Chương Dương, quận Long Biên, Hà Nội, phường này được xem như nghèo nhất thành phố, tiền đóng góp cho trường của một học sinh là gần 1 triệu đồng/năm học. Số tiền này khoảng 18% theo qui định của nhà nước, còn 82% là các “lệ phí vô lý”. Ở bậc đại học, chi phí trung bình cho một sinh viên cũng từ 7 đến 15 triệu đồng/năm. Con số này chắc chắn vượt quá mức của những gia đình công chức. Trong khi đó những cuộc điều tra của nhà nước đưa ra nói rằng trong vài ba năm gần đây lợi tức trung bình hàng năm cho công chức chỉ vào khoảng 5-7 triệu đồng. Theo tổng thống kê nhà nước, thì chi tiêu cho giáo dục như vậy là quá lớn».
-
Tại những vùng nông thôn khó khăn, học sinh cũng phải đi học thêm, giá cũng rẻ hơn khoảng 30 ngàn đồng cho 12 buổi/tháng. Còn tại thành phố, giá dạy kèm từ 40 ngàn đến 100 ngàn đồng. Nếu dạy luyện thi thì giá thày giáo còn có thể nhận lương lên đến 500 ngàn đồng/cho 2 giờ. Nhiều giáo viên đã phải «chạy sô» từ 4 đến 5 lần/ngày. Trước đây lối dạy kèm chỉ tập trung vào các thày cô dạy giỏi, hay dạy môn chính, giáo viên hiệu trưởng. Nhưng ngày nay môn phụ trở thành «rào cản» trong cuộc chạy đua học thi chạy điểm của học sinh. Đến các môn phụ như thể dục nay học sinh cũng phải vất vả mới vượt qua được. Như vậy, bằng cách này hay cách khác, học sinh cũng phải «gõ cửa» đi học thêm từ ông thày chính trong lớp của mình, để có ít nhất đạt mức qua kỳ thi.20
Giáo chức
-
GS Cao Xuân Hạo kể, ông từng làm phản biện thứ nhất cho một luận án tiến sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học dài 380 trang của một nghiên cứu sinh. Theo ông, nghiên cứu sinh này quá kém, nên ông đã có thư cho Bộ với lập luận: Là tiến sĩ thì phải hơn một học sinh trung học. Nghiên cứu sinh này không bằng một học sinh lớp 3 thì làm sao trở thành tiến sĩ! Đề nghị không cho bảo vệ (trước đó tại trường đại học, luận án này cũng đã bị 100% ý kiến bác bỏ). Thế nhưng Bộ vẫn cho nghiên cứu sinh đó được bảo vệ và còn phái 3 «ngôi sao sáng» trong làng ngôn ngữ học Việt Nam vào ngồi hội đồng với «sứ mệnh» là phải «cứu» nghiên cứu sinh này bằng bất cứ giá nào. (VNN)
-
TS Nguyễn Thiện Tống (Trường đại học Bách khoa) mỉa mai: «Thật ngược đời khi có những người không có trình độ cả về chuyên môn và đạo đức lại ngồi trong hội đồng để đánh giá người có trình độ hơn mình. Và họ đã làm việc qua loa cho xong». «Thực tế cũng cho thấy có những tiến sĩ, giáo sư dạy và đánh giá cho hết thạc sĩ này đến tiến sĩ kia nhưng lại không hề học hành, nghiên cứu trong suốt nhiều năm. (VNN)
-
Đó là sự suy đồi đạo lý và nhân cách sư phạm. Một bộ phận không nhỏ thầy cô giáo quen gọi học sinh bằng các đại từ nhân xưng như "mày, hắn, thằng nọ, con kia"; không chịu hiểu rằng một tiếng gọi thân yêu "trò, em, con" của thầy sẽ đi theo trò suốt cả cuộc đời.21
-
Hiện có 12% gíao viên tiểu học, tương đương 42,000 người chưa đạt chuẩn, trong đó có nhiều người được đào tạo ở trình độ rất thấp. Tỷ lệ này ở bậc trung học cơ sở là khoảng 9% với khoảng 24,000 người. Ở bậc trung học phổ thông, con số này là 3,900 giáo viên, tương ứng với 4.6%; chủ yếu là gíao viên các môn thể dục, tin học, ngoại ngữ. Năm 2005: "sàng lọc" gần 8 vạn giáo viên. (Trao đổi với Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Đặng Huỳnh Mai)22
Côt lõi vấn đề
-
Trong mấy lời kêu cứu kể trên tôi đã nói về nỗi lo tiền trường quanh năm của mọi gia đình có con em đi học ở mọi cấp trên cả nước, về thảm trạng học sinh bỏ học tràn lan vì nghèo, mặc dù năm nào và đâu đâu cũng báo cáo chương trình phổ cập giáo dục cả tiểu học lẫn trung học đều đạt yêu cầu; về tệ lãng phí, tệ hà lạm công quỹ sánh ngang với quốc nạn tham nhũng, đặc biệt về nạn sách giáo khoa thay đổi hằng năm làm nghèo nhân dân để làm giàu cho một số lái sách; về việc cưỡng bách học sinh tiểu học trả tiền, gọi là phổ cập giáo dục, để "nuôi gà chọi" và "nuôi mộng Einstein" của một số người (như trong dân gian từ lâu đã có câu "lấy nhi đồng nuôi người lớn"); về chính sách tái phân phối lộn ngược đầu; về tình trạng tạm bợ của nhiều trường lớp trên khắp nước; về bệnh thành tích với những chỉ tiêu quái dị như chỉ tiêu tốt nghiệp các cấp hay kiểm tra các loại luôn đạt tỷ lệ gần 100% , và những hệ lụy, biến chứng của nó; về việc liên tục lấy tuổi thơ làm vật thí nghiệm; về nạn "xã hội đen" trong giáo dục; về nạn mua bán chữ nghĩa, mua bán bằng cấp, và gian lận bằng cấp; về tệ học thêm, học hè mà có người gọi là cái "ách văn hóa tròng lên đầu tuổi thơ"; về hệ thống các trường chuyên lớp chọn trường chuẩn, ở đó con em nhà nghèo không có chỗ chen chân và với tối thiểu 80% học sinh bị cận thị theo một báo cáo chuyên khoa mắt thành phố ngày 23-7-04, chưa kể khả năng cận thị hay lệch lạc về tinh thần và những rối loạn tiềm ẩn khác; về nạn áp đặt thiếu dân chủ hay nạn tập trung giáo dục, hệ lụy của tập trung dân chủ; về tính lệ thuộc, chạy theo đuôi v.v… của nền giáo dục của chúng ta. 23
-
Ngày 06.3.004, một cuộc hội thảo không chính thức nhưng gồm toàn những nhà giáo tên tuổi của Việt Nam vừa được tổ chức tại Hà Nội. Chủ đề của buổi họp là bàn về «căn bệnh nan y của nền giáo dục đào tạo nước nhà». Các ý kiến đều thống nhất : Trạng thái của nền giáo dục VN hiện rất không bình thường và cần phải tìm ra những «u nhọt» chính để «giải phẫu» mới mong cứu vãn. Nói đúng ra «u nhọt» rất nhiều vì nó đã tồn tại cả mấy thập kỷ và hiện nay vẫn còn đang được điều hành, lãnh đạo của những «cái đầu ưu việt». Ta có thể kể ra là: Thi cử nặng nề, chất lượng đào tạo kém, sự bất công trong giáo dục, gánh nặng học phí, chế độ lương bổng bất hợp lý, sách giáo khoa thay đổi liên tục nhưng chất lượng vẫn thấp... Trong nội dung giới hạn của bài này, chúng tôi muốn nói đến một vấn đề khác - mà ít khi được nhắc đến. Đó là nạn «bao cấp tư duy». (Phan Kiến Quốc)24
-
Luật sư Nguyễn Ngọc Bích, hiện ở Sàigon, trong một bài phân tích về giáo dục đã giải thích một số hiện tượng, qua một đoạn như sau:
Chủ
Trương :
Khi Đảng nắm chính quyền thì phải nghĩ đến việc giáo
dục, học hành.
Hậu
Quả :
Đường lối giáo dục nặng về chính trị, nhẹ về nhân
bản, nhân sinh.
Chủ
Trương :
Người ấn định đường lối giáo dục là chính trị
gia (bí thư khoa giáo hay tuyên huấn). Nhìn nhận vấn đề
theo khía cạnh chính trị.
Hậu
Quả:
Đã có
trong đầu mô hình xã hội mới và tin nó là tốt.
Nhìn vấn đề
theo khía cạnh chính trị chứ không theo nhân bản, nhân
sinh. Giáo dục
bị chính trị hóa. (giáo án – trường Đào tạo cán bộ
giáo dục ngoài trường sư phạm).
Chủ
Trương : Chọn
người thực hiện (kỹ thuật gia) theo sự tin tưởng vào
lòng trung thành không dựa trên tài năng.
Hậu
Quả: Người
tài năng bị loại bỏ. Người ít tài được trọng dụng.
Chủ
Trương :
Người tài năng bị loại bỏ.
Hậu
Quả: Người
ít tài có mặc cảm trước người có tài nên dèm pha,
chụp mũ; mặt khác tuyệt đối trung thành làm theo chính
sách, đường lối, không sáng kiến. Tạo ra phe đảng, bè
phái.
Chủ
Trương : Giáo
dục phải ưu tiên dành cho người thuộc giai cấp của
mình.
Hậu
Quả: Loại bỏ
sinh viên tài năng. Kỳ thị trong tuyển sinh. Tạo ra bất
công mà không thấy. Làm thui chột tinh hoa của xã hội mà
không hay.
Chủ
Trương : Sinh
viên kém về trình độ, sức tiếp thu khác nhau.
Hậu
Quả:
Không thể phát
huy sáng tạo, thầy đọc trò chép. Trò dở không làm sản
sinh thày giỏi.
Trình độ chung
giảm sút
Chủ
Trương : Thày
không xuất sắc, lại hay sợ sai lầm về chính trị nên:
Sao chép chương trình học từ các nước đi trước, không
chọn lựa, vì chọn lựa đòi hỏi phải biết đánh giá,
nghĩa là phải giỏi. Hơn nữa bê nguyên xi chương trình
thì khỏi phải giải trình với lãnh đạo. Dạy nguyên xi
để không bị phê bình là sai quan điểm
Hậu
Quả: Chụp mũ
chính trị cho bất kỳ sáng kiến, đề nghị nào có khả
năng phá chuẩn mực.25
-
Sau đây là một cuộc phỏng vấn về giáo dục Việt Nam giữa phóng viên Đài RFA và một số bạn trẻ:
Hỏi:
Lượng kiến thức mà học sinh phải tiếp nhận là rất
nhiều, lại đi học thêm nhiều như vậy mà cuối cùng
thì chất lượng giáo dục vẫn thấp, bạn nghĩ là vì
sao thế?
Đáp:
Ở Việt Nam mình, dậy học vẫn theo lối truyền thụ
kiến thức một chiều, tức là thầy nói gì thì trò biết
thế, cấm có được làm khác đi. Vì vậy tuy lượng kiến
thức nhồi nhét vào đầu học sinh là rất nhiều, nhưng
nó lại không được đào xới, thảo luận để tìm hiểu
thêm nên có học xong cũng quên ngay. Nói chung là học kiểu
đó vừa mệt, vừa mất thời gian, lại không hiệu quả.
Hỏi:
Cuối cùng, giữa lúc chính quyền và người dân trong nước
nỗ lực cải cách giáo dục như hiện nay, thì bạn thấy
liệu ngành giáo dục của Việt Nam có thể được cải
tổ tốt đẹp không?
Đáp:
Khó lắm. Vì ngành giáo dục vẫn như con chim trong lồng.
Cái quan trọng là phải phá bỏ được những rào cản về
măt xã hội thì mới có thể phát triển về mặt giáo
dục được.
Hỏi:
Nói như thế có phải bạn bi quan quá không?
Đáp:
Không bi quan đâu. Không phải bây giờ người ta mới nói
đến cải cách, mà từ mươi mười lăm năm nay đã liên
tục tiến hành rất nhiều biện pháp rồi. Cải cách
trong thi cử, cải cách giáo khoa, phân ban, trường chuyên
lớp chọn… đủ cả, đều không được. Tất cả đều
đi đến ngõ cụt hết.
Hỏi:
Nghĩa là bạn chưa thấy lý do gì để lạc quan về giáo
dục Việt Nam, phải không?
Đáp:
Với bối cảnh Việt Nam hiện nay thì nói đúng hơn là
không bao giờ chấn hưng được giáo dục26
-
Theo Giáo sư Nguyễn Đình Trí, Đại học Bách khoa Hà Nội, việc đào tạo gia tăng nhưng phương tiện giáo dục vẫn giữ nguyên, số giáo sư không thay đổi. Thày dạy đang bị «vắt sữa» với trung bình 1,177 giờ/năm với môn họa đồ, 1,134 giờ/năm môn xã hội học, 915 giờ môn cơ khí. Với sự bận rộn như vậy, thày nào còn có thì giờ để nghiên cứu khoa học ngõ hầu nâng cao kiến thức và lương bổng không mấy chênh lệch. Bậc lương giáo viên so với giáo sư có phần nào cao hơn, nhưng không có nghĩa là đời sống giáo viên khấm khá hơn, vì vậy các thày các cấp đua nhau mở lớp dạy kèm, dạy thêm. Tại nhiều địa phương còn có ngân khoản du di, co giãn, bớt giờ dạy, cố làm tư thêm, để thêm lợi tức. Nhưng dạy tư nhiều khi là «dạy chính», thế mới khổ. Theo sự tiết lộ từ nghiệp đoàn giáo dục thành phố Saìgon, số giáo viên lương tháng dưới 1 triệu đồng/tháng chiếm 60%, chỉ ở ngoại ô thành phố, được trợ cấp 300 ngàn đồng/tháng. Giáo viên mới ra trường, lãnh lương từ ngân sách, mỗi tháng lãnh chỉ 516,200 đồng.
-
Từ cả chục năm nay, Trung ương đã có nhiều nghị quyết chỉ rõ những bất cập, yếu kém lớn của giáo dục: chương trình và phương pháp dạy lạc hậu, thi cử nặng nề, dạy thêm học thêm tràn lan, sách giáo khoa chưa tốt, nhiều hiện tượng gian dối, tiêu cực đang làm xói mòn uy tín và hiệu quả giáo dục. Tuy Nhà nước và xã hội đã đầu tư không ít cho giáo dục, và bản thân ngành giáo dục cũng đã cố gắng hết sức, nhưng không kỳ họp nào của Quốc hội không phản ảnh những bức xúc sâu sắc của người dân về giáo dục, mà bức xúc cứ lặp đi lặp lại chủ yếu xung quanh mấy vấn đề vừa nêu. Điều đó có nghĩa những yếu kém bất cập đã từng được chỉ ra từ lâu vẫn chưa được khắc phục đáng kể; thậm chí có mặt còn trở nên gay gắt và nghiêm trọng hơn, biến thành những căn bệnh trầm kha, những ung nhọt nguy hiểm khó lường. (Hoàng Tụy)27
-
"Ngày nay, giáo dục đại học của ta đang tụt thấp hơn 50 bậc so với đại học của Thái Lan" (Tài liệu của ban Tư tưởng Văn hoá, Khoa giáo và Tổ chức Trung ương phục vụ nghiên cứu các kết luận Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần 6 khóa IX, NXB Chính trị quốc gia - 2002)28.
-
Chương trình và nội dung đào tạo kém tính thiết thực, xa rời mục tiêu đào tạo, ít nhắm tới việc làm sau khi ra trường, ít liên hệ với các hoạt động sản xuất, xã hội, kinh tế của VN, quá nặng về lý luận, lý thuyết, nhẹ về thực hành, thực tiễn. Do vậy sinh viên học thì vất vả, mà sau khi tốt nghiệp lại khó kiếm việc làm và khó thích nghi với cuộc sống.(Nguyễn Văn Đạo ĐHQG Hà Nội ) 29
III.
NHẬN ĐỊNH VỀ NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN TẠI
Trong
khi khảo sát về nền giáo dục Việt Nam hiện tại, chúng
tôi thấy có quá nhiều vấn đề; nhiều nhận xét cho
rằng “hết thuốc chữa”. Ta có thể kể ra : Thi cử
nặng nề, chất lượng đào tạo kém, sự bất công trong
giáo dục, gánh nặng học phí, chế độ lương bổng bất
hợp lý, sách giáo khoa thay đổi liên tục nhưng chất
lượng vẫn thấp... Bình tĩnh và khách quan là thái độ
của chúng tôi. Những vấn đề đã được nêu trên sẽ
không nhắc lại, hơn nữa chúng tôi chỉ xin nêu ra những
vấn đề căn bản và nổi bật, có nghĩa là không đề
cập đến toàn bộ những vấn đề liên quan tới giáo
dục mà chỉ chú tâm vào mấy điểm: về cơ cấu giáo
dục, về nhân lực và cơ sở, về chương trình, giảng
dậy và học tập, thi cử, về sự sa đọa đạo đức,
và sau đó là mấy vấn đề cốt lõi:
-
Về cơ cấu giáo dục.
Trên
nguyên tắc và theo lý thuyết, Việt Nam có một cơ chế
giáo dục được thiết lập trên các văn kiện pháp lý
như Luật Giáo Dục, các Điều Lệ về tổ chức giáo dục
từng cấp, từng ngành. Thực tế là cho đến tháng 3 năm
2005, dự thảo Luật Giáo Dục so với Luật hiện hành bỏ
bớt 4 điều, bổ sung 10 điều mới, sửa đổi 83 điều
cả về nội dung và kỹ thuật, nhưng vẫn chưa hoàn tất,
trong khi qui chế tư thục được ban hành tháng 1 năm 2005.
Hệ
thống giáo dục Việt Nam đại lược như sau : sau lớp
mầm non và cấp tiểu học 5 năm là trung học cơ sở 4
năm, tiếp theo 3 năm nữa là trung học phổ thông; trung
học phổ thông + 4 năm = đại học (y khoa thêm 2 năm);
trung học phổ thông + 3 năm = cộng đồng; trung học phổ
thông + 2 năm = trung học chuyên nghiệp.
Ngân
sách giáo dục năm 2000 là 14.5 ngàn tỷ đồng, chiếm 15%
ngân sách quốc gia, năm 2004 ngân sách giáo dục là 34.4
ngàn tỷ đồng, chiếm 17.1%
Nhìn
chung, nền giáo dục Việt Nam vừa có khuynh hướng “bao
cấp” về phương diện chỉ huy, về mặt tư tưởng và
đồng nhất; mặt khác vì thiếu khả năng quản trị và
tài chánh lại “buông thả” để cho thu học phí, hình
thành các loại tư thục, bán công và dân lập làm cho nền
giáo dục Việt Nam có khuynh hướng thương mại hóa, và
ngày càng tha hóa. Có nhiều ý kiến cho rằng tổ chức
giáo dục chỉ nên có hai loại : công lập và tư thục.
Tại
cấp trung học, việc phân ban ở cấp ba, dường như chỉ
để chuẩn bị cho bậc đại học. Điều này không thực
tế với hoàn cảnh Việt Nam khi đa số học sinh sẽ ngưng
lại ở trung học để ra đời kiếm việc. Nếu quan niệm
giáo dục trung học là nhằm đào tạo một lớp công dân
có đủ kiến thức phổ thông để trở thành chuyên viên
trung cấp trong mọi ngành thì giáo dục trung học phải
đặt lại. Trung học chuyên nghiệp trong nhiều năm qua đã
gặp trở ngại lớn là không thu hút đựơc học sinh, một
phần vì việc giáo dục chuyên nghiệp đó, dù đã đào
tạo được 1.5 triệu học sinh, thực sự không đáp ứng
đúng nhu cầu việc làm khi học sinh tốt nghiệp vì “nửa
thầy, nửa thợ”; phần khác là thanh niên và phụ huynh
có khuynh hướng tiến lên bậc đại học như một viễn
mơ không thực tế. Tóm lại, làm sao tìm được lối
thoát cho hàng triệu học sinh tốt nghiệp trung học mỗi
năm, có khả năng chuyên môn vững, đúng với nhu cầu,
đem họ vào sản xuất là điểm rất đáng quan tâm.
Tại
cấp đại học, nhiều người cho rằng Việt Nam bị ảnh
hưởng sâu xa của đại học Liên Sô, trong khi tổ chức
giáo dục của chính Liên Bang Nga hiện nay đã thay đổi
tận gốc theo kinh nghiệm Âu Mỹ và cơ cấu xã hội mới.
Sự tồn tại ở Việt Nam hiện nay là một hệ thống đại
học và cao học hết sức phức tạp và quản lý thiếu
nhất quán và lãng phí. Vì lý do chính trị và bao cấp,
nhà nước không dám trao quyền tự trị cho đại học làm
cho đại học không thể thi hành chức năng của mình. Tự
trị đại học là quyền tự quản, không chịu sự quản
lý của chính phủ về phương diện chương trình, nội
dung giáo dục, bổ nhiệm giáo chức và tuyển sinh.
Điểm
đặc biệt trong tổ chức giáo dục Việt Nam hiện nay là
một cơ chế đảng hiện diện và nắm toàn quyền từ
tiểu học đến đại học. Văn kiện pháp quy ghi rõ :“Tổ
chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhà trường lãnh đạo
nhà trường và hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và
pháp luật. (Điều 51). “Đoàn thể, tổ chức xã hội
hoạt động trong nhà trường theo quy định của pháp luật
và có trách nhiệm góp phần thực hiện mục tiêu giáo
dục theo quy định của luật này. (Điều 52). “Tổ chức
Đảng Cộng sản Việt Nam trong trường đại học tư thục
lãnh đạo nhà trường và hoạt động trong khuôn khổ
hiến pháp và pháp luật”. “Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí
Minh và Sao nhi đồng Hồ Chí Minh hoạt động trong trường
theo Điều lệ Đoàn, theo quyết định của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, và Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh.”
Tổ
chức này bao gồm Bí thư Đảng, một số giáo sư, cán bộ
quản trị và học sinh, sinh viên, dưới danh hiệu “các
tổ chức chính trị - xã hội “ kiểm soát mọi sinh hoạt
trong trường, từ chương trình, giáo án, tư tưởng v. v.
làm cho giáo chức lúc nào cũng sợ sệt, không dám có
sáng kiến đổi mới cách giảng dậy, thay vào đó là
giảng dậy chiếu lệ theo sách vở để khỏi mang lụy.
Cũng từ đó, sinh viên và học sinh thiếu óc sáng tạo,
luôn thụ động là nguyên nhân của tình trạng bế tắc
giáo dục hiện nay.
Biến
thái của tổ chức Đảng trong cơ cấu giáo dục hiện
nay dẫn tới hậu quả tham nhũng trong nhà trường. Mọi
quyết định bình bầu, lên lớp, “tiên tiến” cho con
em, phụ huynh đều phải trả giá bằng tiền cho tổ chức
Đảng, Đoàn trong nhà trường. Đảng được tổ chức
trong hệ thống giáo dục nay trở thành ổ tham nhũng và
áp chế.
Ông
Lê Đăng Doanh, trong bài thuyết trình cho Bộ Chính Trị
vừa qua, theo tiết lộ, có nói như sau: “ Hệ
thống chính trị của chúng ta nhìn vào thấy là đảng
dày đặc luôn. Chính phủ có bộ nào, cục ban nào, Đảng
có hết tất cả thứ ấy.
Lại thêm bộ máy gọi là tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức quần chúng; nói rằng là tôi đại diện cho
quần chúng, nhưng một nghiên cứu nước ngoài nó nói đấy
là những người mạo danh tổ chức quần chúng, thực sự
là cánh tay nối dài và là cái loa của Đảng Cộng sản,
không phải là đại diện gì cả và toàn bộ chuyện đó
là chuyện vô duyên luôn, không có ý nghĩa gì hết trong
việc phản ánh tình hình, bảo vệ lợi ích. »30
-
Nhân lực và cơ sở
Đội
ngũ giáo chức đại học được đào tạo ở trong nước
và nước ngoài từ những thập kỷ 50-60, đang là những
tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư đều đã ở tuổi 65-70.
Trong khi đó đội ngũ kế cận thì chưa được chuẩn bị
để thay thế. Gần 30 năm qua, việc đào tạo được thực
hiện ở trong nước, đại đa số giáo chức không có
điều kiện giao lưu, trao đổi học thuật với các trường
đại học của thế giới. Trong những năm gần đây, Nhà
nước đưa cán bộ nghiên cứu đi đào tạo ở nước
ngoài, nhưng tiếc rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
phân bổ tới 23% dành
cho cán bộ, công chức ở các cơ quan hành chánh và tổ
chức đảng để học về quản lý xã hội hiện đại
chứ không phải là kiến thức của một chuyên viên ngành
kinh tế hay kỹ thuật dành cho giáo chức giảng dạy của
các trường đại học.
Trình
độ giáo sư, phó giáo sư khá thấp so với quốc tế. Cả
nước số giáo sư đã được công nhận mới chiếm tỉ
lệ chưa tới 0.1%, số phó giáo sư chưa tới 5%, trong toàn
bộ số giảng viên đại học.
Ở
các trường đại học Việt Nam hiện nay, tỷ lệ trung
bình là 25.8 SV/giảng viên, số giờ dạy của giảng viên
từ 800 – 1,000 giờ/năm, thậm chí có giảng viên dạy
đến 1,500 giờ/năm hay hơn nữa, trong khi ở đại học
các nước trung bình mỗi giảng viên dạy từ 300 giờ đến
400 giờ/năm và tỷ lệ thời gian dành cho công tác giảng
dạy và nghiên cứu khoa học được quy định là 50/50.
Như vậy, cơ cấu lao động của giảng viên ở đại học
Việt Nam rất bất thường, số thời gian dành cho nghiên
cứu khoa học của đại đa số giảng viên đại học rất
thấp. Giáo
sư vừa làm công tác giảng dạy vừa suy tư và nghiên
cứu. Giảng dạy và nghiên cứu được ví như hai mặt
của đồng tiền đối với người thầy ở đại học.
Những phát minh, những giải Nobel mà giới đại học Hoa
Kỳ thâu lượm được nói lên điều đó. Ở những đại
học lớn Âu Mỹ, trong 2 năm, nếu giáo sư không có một
công trình nghiên cứu hay ấn hành một cuốn sách có giá
trị, thường bị mất ghế giảng dậy.
Cơ
sở trường học Việt Nam ở tất cả các cấp học, bậc
học còn đơn giản, nhiều phòng học chưa đủ tiêu
chuẩn. Hiện nay, tỷ lệ ở các nước tiên tiến là 15 -
20 HS/lớp, còn ở Việt Nam trung bình là trên 30 HS/lớp.
Như vậy, khó
có điều kiện cho việc tổ chức dạy và học để nâng
cao chất lượng.
Nhìn
chung, cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho
giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học còn rất
thiếu và lạc hậu. Về diện tích, trường đại học
vào loại lớn của Việt Nam là khoảng 15 - 20ha, trường
trung bình là 5 - 7ha, có trường chỉ có diện tích chưa
được 2ha, trong khi đó đa số các trường đại học ở
Anh, Pháp, Úc, Thái Lan, Malaysia... đều có diện tích từ
50 - 70ha, có trường diện tích 200ha. Cơ sở giáo dục
thiếu sân vận động, vườn cỏ và cây xanh thoáng mát.
-
Chương trình
Chương
trình học năm 1945, do GS Hoàng Xuân Hãn khởi xướng biên
soạn đã được dùng trong 27 năm. Một chương trình khác,
do một số giáo chức thực hiện trong năm 1955, được
dùng trong 35 năm. Còn chương trình hiện nay chính thức
chưa có, nên sách giáo khoa lại được soạn dựa trên
những chương trình dự thảo.
Nhìn
chung, chương trình giáo dục từ bậc tiểu học đến đại
học, « thiếu cập nhật kiến thức mới và chưa hội
nhập được với trình độ thế giới, giáo trình thiếu
và lạc hậu, tỷ lệ dành cho các môn học chưa hợp
lý »31
lại quá ôm đồm, thiếu cân đối.
Bỏ
qua những môn khoa học và tin học được coi là thiếu
cập nhật, thiếu thực nghiệm so với trình độ quốc
tế, có hai môn học còn nặng giáo điều, đó là môn Sử
và môn Văn.
-
Môn sử học, sau một thời gian « cưỡng chế »,
kể từ năm 1986 đã có phần thay đổi, tuy nhiên còn
nhiều điều bất cập. Thí dụ : Sách
giảng dạy lịch sử cho học sinh phổ thông hiện nay có
hai loại: là « Truyện
kể lịch sử dành
cho cấp I, » và « Giáo
khoa lịch sử dành
cho cấp II và III ».
Giảng
dạy lịch sử là nhằm trang bị cho học sinh hiểu về
quá khứ và thời đại đang sống gồm lịch sử phát
triển của tư tưởng, văn hoá, văn minh, phát triển kinh
tế, xã hội và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
Việt Nam. Trong khi đó
Truyện kể lịch sử
và Giáo
khoa lịch sử hiện
hành chỉ nhằm làm nổi bật lên quy luật chiến tranh,
lấy
sự trình bày về chiến tranh làm động lực phát triển
của lịch sử.
Tiếp theo Truyện
kể lịch sử
là các sách Giáo
khoa lịch sử
của 7 lớp còn lại, định hướng chinh chiến, chiến
tranh, vũ lực vẫn chi phối toàn bộ giáo trình.
-
Môn văn ở trung học chẳng hạn vẫn tập
trung vào chín ông nhà văn. Đó là: Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Hồ Chí Minh, Tố
Hữu, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, và Nam Cao.
Nhiều
bài văn trong chương trình phổ thông còn nặng tính mục
đích, giá trị nghệ thuật chưa được coi trọng, nhiều
học sinh lớp 12 viết không đúng văn phạm, một số học
sinh thi đại học viết toàn những lời ngô nghê trong bài
văn ; học sinh học thuộc lòng, không sáng kiến,
không suy nghĩ độc lập. Ai cũng phải dạy như thế,
không thì học sinh bị trượt.
-
Trong giáo dục phổ thông suốt mấy chục năm qua chỉ chú
trọng văn, toán, lý, hoá còn các môn khác mặc nhiên coi
như môn phụ. Một học sinh vào đời mà lịch sử địa
lý đều kém thì hiểu biết về xã hội rất hạn chế.
Ở trường học Hoa Kỳ chẳng hạn, môn Văn Hóa Thế Giới
và Khoa Học Xã Hội, đã được giảng dậy từ lớp 8 và
9. Đặc biệt là môn ngoại ngữ, chưa có tầm nhìn xa,
phong trào học tiếng Tàu, tiếng Nhật, tiếng Pháp, tiếng
Đức, tiếng Nga, tiếng Anh cứ sẩy ra theo nhu cầu, theo
khuynh hướng chính trị và hoàn cảnh sống của xã hội;
khi
thân Liên Xô thì học tiếng Nga, khi thân Tầu thì học
tiếng Trung, nay lại quay sang học tiếng Anh, đến nỗi
ngày nay nhiều nhà chính trị, nhà doanh nghiệp và cả
những nhà khoa học ra nước ngoài đều gặp khó khăn về
giao tiếp.
Ở
bậc đại học Việt Nam, chương trình 4 năm gồm 2,184 giờ
so với 1,380 giờ ở đại học Hoa Kỳ. Tất cả các môn
học ở Việt Nam có tính cách bắt buộc, sinh viên không
có quyền lựa chọn vì không có môn nhiệm ý. Trong khi đó
chương trình về chủ nghĩa Mac-Lenin, chủ nghĩa xã hội,
lịch sử đảng chiếm 203 giờ, tức là 9% chương trình..
Trong khi đó 2 năm học chuyên ngành thực sự sơ sài, học
lý thuyết là chủ yếu, sinh viên thiếu tự tin về năng
lực của chính mình. Điều này phản ảnh rất rõ rệt
đối với du học sinh khi đến nước ngoài học tập.
Những
kiến thức học ở trường hoàn toàn xa rời với thực
tế, dựa trên những tiêu chuẩn hoàn toàn lạc hậu và
hầu hết đều được dịch từ tiếng Nga. Nhiều chỗ
trong tiêu chuẩn còn mập mờ, sai sót đến khó hiểu.
Việc
đổi mới chương trình và biên soạn sách giáo khoa, tài
liệu tham khảo ở bậc đại học đã được bắt đầu
cách đây 15 năm nhưng trên thực tế đã diễn ra bốn năm
lần, lần làm sau lại phủ định lần làm trước vì vậy
việc đổi mới giáo dục đại học chưa có một lộ
trình nhất quán, cho nên đã gây nhiều xáo trộn.
Có
hai sự kiện đáng lưu ý là : (1) nhà cầm quyền đã đem
chương trình đào tạo của Đại học Chiềng Mai, Thái
Lan, về áp dụng máy móc vào nước ta. (2) Một tổ chức
nước ngoài từ năm 2000 đến năm 2002 đã tài trợ và
đưa vào Việt Nam 80 ngàn cuốn sách thuộc 25 lãnh vực
khác nhau nhưng đã được đặt trong sự quản lý chặt
chẽ của Nhà nước, giới nghiên cứu chưa được sử
dụng.
-
Giảng dậy và học tập
Đội
ngũ giáo chức lên gần 1 triệu người, ở hầu hết các
địa phương đều thiếu giáo viên các môn mỹ thuật, âm
nhạc, thể dục, thể thao. Một số giáo viên chưa dành
thời gian tự học nên trình độ chuyên môn và phương
pháp sư phạm còn yếu kém. « Đối vối giáo dục
nghề nghiệp và đại học, ngoài việc thiếu cán bộ
giảng dậy khá trầm trọng, nhìn chung phương pháp dậy
học vẫn nặng về thuyết giảng, ít thực nghiệm và hầu
như không đi thực tế, đặc biệt công tác nghiên cứu
khoa học rất hạn chế »32
Lối
học khoa cử vẫn còn nặng nề, giáo dục chỉ truyền
đạt kiến thức nhằm ứng phó với các kỳ thi, chưa chú
trọng đến việc xây dựng tư duy sáng tạo, tự học, tự
nghiên cứu, kiến thức chuyên ngành ít được cập nhật,
trình độ ngoại ngữ, tin học, kỹ năng nghề nghiệp còn
hạn chế. Theo giáo sư Hoàng Tụy thì : «Giáo dục phổ
thông hiện có 3 «khối u» cần phải cắt bỏ, đó là:
Thi cử nặng nề nhưng không thực chất; nạn học thêm,
dạy thêm tràn lan; chất lượng sách giáo khoa không cao
nhưng giá lại quá cao».
Cách
đây mấy năm, Đài BBC có làm một cuộc khảo sát về
giáo dục tiểu học ở Việt Nam đã khám phá ra nhiều
điều ngộ nghĩnh, chẳng hạn, bài luận tả cô giáo của
học sinh Hà Nội và Huế giống hệt nhau. Sở dĩ sẩy ra
như vậy vì cả nước cùng theo một giáo án, một cách
giảng dậy, một khuôn mẫu, nói theo danh từ thời thượng
là cùng một « tư duy ». Học sinh không có óc quan sát,
không có sáng kiến, sáng tạo, trở nên sơ cứng và chỉ
còn biết « lặp lại » những gì sách vở và thầy cô
giáo giảng dậy. Vả chăng, có lẽ tả theo bài mẫu để
khỏi « lạc đề ».
Có
ý kiến cho rằng trong ngành giáo dục có 5 lãnh vực quản
lý : Đó là quản lý chuyên môn, quản lý nhân sự,
quản lý bộ máy, quản lý tài chính, quản lý cơ sở vật
chất. Nhìn chung trong cả 5 lãnh vực này, lãnh vực nào
giáo dục Việt Nam cũng yếu kém, cũng có vấn đề. Dựa
theo những số liệu chính thức của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư thì cuộc khảo sát về trình độ giáo dục tại
12 nước Á Châu là Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Đài
Loan, Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia, Hồng Kông, Philippines,
Thái Lan, Việt Nam, và Indonesia cho thấy «chỉ số chất
lượng giáo dục Việt Nam đạt 3.79 trên thang điểm 10,
áp chót, chỉ hơn Indonêsia.
Muốn
cải tổ việc giảng dạy, người ta cho rằng :
cần tăng số giờ thực hành, dành thời gian hướng dẫn
học sinh tự học, tự đọc sách, tham khảo tài liệu,
tập thuyết trình, thảo luận, tham gia các hoạt động
vui chơi, thể thao, văn nghệ v.v…
-
Thi Cử
Bộ
Đại học tổng kết tuyển sinh công bố có hơn 5,000 thí
sinh có tổng số điểm ba môn thi là 0 điểm, hơn 4 ngàn
thí sinh chỉ được 0.5 điểm và 7,500 thí sinh có bằng
tú tài chỉ có vỏn vẹn 1 điểm. Thành phố Sàigon là
một trong số nhiều nơi khác trong cả nước có số thí
sinh bị 0 điểm/3 môn. Một số trường trung học phổ
thông công lập ở Hải Phòng, Hà Nội cũng nằm trong danh
sách có thí sinh 0 điểm.
Tỷ
lệ tốt nghiệp cấp 2 cấp 3 hằng năm thường được
công bố từ 90 - 95 đến 100%. Nhưng kết quả thi tuyển
sinh vào đại học thì thật thảm hại. Hai kỳ thi tốt
nghiệp trung học phổ thông và đại học đều diễn ra
cách nhau độ 1 tháng, nhưng kết quả thì lại khác nhau
«một trời một vực». Lý do vì thi tốt nghiệp phổ
thông cấp 2, cấp 3 ngành giáo dục chạy theo thành tích,
theo sự chỉ đạo của cấp trên.
Muốn
vào cao học, thí sinh phải qua một kỳ thi 3 môn là môn
cơ sở, triết học và ngoại ngữ, riêng bậc tiến sĩ
thi thêm môn chuyên ngành. Thực tế tại các hội đồng
thi, chỉ có môn ngoại ngữ là khó khăn. Ai không biết
một ngoại ngữ nào mà muốn vào hậu đại học thì thi
tiếng Nga. Kết quả thi vào cao học tại trường Đại
Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn môn tiếng Anh là 49% và
môn tiếng Nga đạt 88%.
-
Sự sa đọa về đạo đức
Xã
hội nói chung và nền giáo dục nói riêng, lúc nào và ở
đâu cũng có mặt tiêu cực. Tuy nhiên, nền giáo dục Việt
Nam hiện nay đang có khuynh hướng « phá sản »
về mặt đạo đức. Trong năm 2002 và 2003, gần 300 giáo
viên nam nữ trong nước nghiện hút hoặc buôn bán ma túy,
và tình trạng thầy cô giáo dính líu đến ma túy đã lên
đến mức báo động, theo đánh giá của các cơ quan chức
năng như Bộ Công an, Giáo dục và Đào tạo.
1.
Gian dối :
Trong những năm gần đây, sự gian dối trong học tập
ngày càng gia tăng, nhất là ở cấp lớp trên và ở người
lớn. Sự gian dối có tính phổ biến ở mọi nơi, từ
giáo dục chính quy, tại chức đến giáo dục thường
xuyên. Các hiện tượng chạy điểm, chạy thầy, quay cóp,
mua bán và sử dụng phao thi... trước đây được coi là
xấu hổ thì nay được coi là chuyện bình thường. Hậu
quả là làm cho các học sinh nhận ra sự bất công và
niềm tin vào cha mẹ, thầy cô bị tổn thương và ảnh
hưởng xấu đến nhân cách.
Nhiều
người trẻ phàn nàn là họ đã lớn lên trong một nền
giáo dục thiếu vắng những nguyên tắc căn bản như
trung thực và sáng tạo. Hệ thống giáo dục hiện nay dạy
họ thỏa hiệp với cái giả dối. Miệng nói một đàng
theo chủ trương từ trên đưa xuống cho yên thân, đầu
óc thì lại nghĩ khác.
Việc
tiêu chuẩn hoá cán bộ, công chức, đã dấy lên một
phong trào học tập trong cán bộ, công chức. Nhưng có một
số người lớn đi học thiếu đúng đắn, và thiếu
nghiêm túc, tìm mọi mánh lới để có mảnh bằng bất kể
kiến thức, dẫn đến học giả bằng thật, kể cả hiện
tượng sao chép luận văn thạc sĩ, tiến sĩ. Khi vấn đề
bị phát giác hàng loạt, lại có hiện tượng « bao
che » khá đặc biệt như trường hợp Bộ
Công an có văn bản số 771, cho nhân viên trong ngành đã
sử dụng văn bằng giả để đưa vào hồ sơ dự thi và
học, tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung cấp, chỉ
sau 1-2 năm mà không có bằng trung học phổ thông mới thu
hồi văn bằng cao hơn. Bộ Công an còn cho biết đã «căn
cứ tình hình chung của các bộ ngành khác»... là thực
tế số cán bộ ăn gian nói dối quá đông.
2.
Dạy thêm, học thêm :
Việc
dạy thêm, học thêm hiện nay không phải là một giải
pháp áp dụng đặc biệt cho một số nhỏ học sinh yếu
kén, mà tràn lan, cả lớp phải học, buộc cha mẹ phải
chấp nhận, vì có học thêm mới làm tốt được bài
kiểm tra, mới được thầy, cô giáo quan tâm nâng đỡ ;
nói đúng hơn đó là một « nhu cầu giả » nhằm
bắt học sinh học thêm để kiếm lợi. Việc này tác
động rất xấu đến chất lượng giáo dục, nhất là
mặt đạo đức. Cho con học thêm rất tốn kém, 4 môn
chính chuẩn bị thi tốt nghiệp hơn 400 ngàn đồng một
tháng.
3.
Chửi thề :
Có
một vấn đề, xem ra có vẻ bình thường vì nó đã ăn
sâu vào xã hội, đặc biệt ở miền Bắc từ sau 1945,
nhưng trên bình diện đạo đức và văn hóa lại là một
hiện tượng rất đáng quan tâm, là việc « văng tục,
chửi thề «. Người lớn và trẻ em ở một số địa
phương, trong lúc nói truyện, phải chen vào nhiều câu
chửi thề mà người xa lạ, khi nghe, phải coi là một
hiện tượng dị thường. Người ta nói dân
Nga có câu “Nói
chuyện mà không văng tục khác nào ăn xúp củ cải
đỏ thiếu cà chua”.
Cũng vì vậy, có bản tin cho rằng thành
phố Belgorod, nằm cách thủ đô Matxcơva 700 km về
phía Tây Nam đang có chiến dịch 'bài trừ văng tục
chửi thề' nơi công công.
Cảnh sát Belgorod còn nhận được chỉ thị từ
chính quyền là nếu thấy ai văng tục, họ có quyền
phạt tiền tới một khoản tương đương 50 đôla
Mỹ.33Không
biết Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam nghĩ sao.
4.
Vai trò của tôn giáo:
trong sinh hoạt của một xã hội, văn hóa, đạo đức và
nhất là tôn giáo giữ một vai trò quan trọng. Tôn giáo
hướng dẫn tâm linh con người hướng về chân, thiện,
mỹ và giúp con người biết « làm lành, lánh dữ ».
Tôn giáo vừa là kim chỉ nam, vừa là cái thắng, giúp cho
con người tránh được sự sa đọa, tha hóa. Xã hội tây
phương chẳng hạn, trước sức cám dỗ của vật chất
và hưởng thụ, nếu không có tôn giáo, xã hội tây
phương đã rơi vào hố thẳm từ lâu. Ở Việt Nam, tôn
giáo bị chèn ép hoặc đánh giá thấp, nhiều khi bị
khinh chê, chế diễu. Đó là nguyên nhân dẫn tới đạo
đức suy đồi. Không ai nghĩ rằng phải đem tôn giáo vào
học đường, nhưng học đường phải nhìn tôn giáo bằng
con mắt thiện cảm và trân trọng vì tôn giáo là « cái
phao » giúp học đường duy trì đạo đức. Khích bác
tôn giáo trong khi giảng dậy, gián tiếp cấm đoán học
sinh, sinh viên tham dự sinh hoạt tôn giáo bằng việc tổ
chức sinh hoạt học đường hay thi cử vào ngày chủ nhật
chẳng hạn, là góp phần vào việc sa đọa đạo đức.
-
Nguyên nhân sâu xa
1.
Nếu chúng ta nhìn lại hoàn cảnh xã hội Việt Nam từ 50
năm trước trong đó vấn đề « tuyên truyền »
được quan niệm là chủ đạo cho xã hội, kể cả giáo
dục.
« Tại một cuộc họp của hãng phim truyền hình Việt
Nam vào cuối tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội, giáo sư Phan
Huy Lê đã tiết lộ: “Nhân vật lịch sử ‘anh hùng Lê
Văn Tám’, tự tẩm xăng, mồi lửa, rồi chạy vào phá
kho xăng Thị Nghè, hoàn toàn không có thật!” Ông cũng
khẳng định lại điều này trong cuộc phỏng vấn dành
cho báo Người Việt.»34
Hiện nay, nhân vật Lê Văn Tám vẫn còn trong sách Giáo
khoa.
Từ
tuyên truyền, người ta có thể « ăn không, nói có »
tác động trên mỗi công dân, một con người hai mặt :
trong thâm tâm, biết là việc đó không có thực nhưng
ngoài mặt phải nói như chỉ đạo đã dậy. Dần dần,
nói dối trở thành « bản ngã công dân » thể
hiện trong « bệnh thành tích và các tiêu cực ».
Cũng vì thành tích mà việc tốt nghiệp trung học thường
đạt trên 90% có điểm cao, trong khi kết quả thi tuyển
đại học, có nhiều thí sinh không đạt được 2/30 điểm.
Trong
giáo dục, việc chủ yếu là khoa học, nhân bản và khai
phóng, trong khi tuyên truyền là phải nói theo nhu cầu, làm
cho người thầy và học sinh tự gian lận trong tư duy, và
từ gian lận trong tư duy dẫn đến gian lận trong hành
động dường như là một hậu quả tất yếu. Một nền
giáo dục trong tương lai, nếu muốn đạt đến chân,
thiện, mỹ thì việc đầu tiên là tái tạo lớp công dân
đứng đắn, thẳng thắn qua việc « giáo dục công
dân » để có những con người lương thiện mà ở
đó từ người cầm quyền đến người lớn và nhất là
người thầy phải có tấm gương lương thiện.
2.
Chúng ta đều biết thầy giáo, học sinh và trường học
thật ra cũng chỉ là những thành tố rất nhỏ của xã
hội, nó không thể nào tự thay đổi được. Muốn thay
đổi giáo dục phải tùy thuộc vào cái không khí, sinh
hoạt của xã hội ; nói khác đi là cơ chế và cấu
trúc xã hội. Vấn đề tham nhũng và gian dối trong học
đường chẳng hạn, sẽ không thể thay đổi khi mà toàn
xã hội, ở mọi sinh hoạt, từ trên xuống dưới đều
gian dối và tham nhũng. Điều quan trọng là phải phá bỏ
được những rào cản về măt xã hội mới có thể phát
triển về mặt giáo dục được. Nguyên nhân trì trệ
không phải chỉ do những sai lầm cục bộ về điều hành
quản lý mà chủ yếu là sai lầm từ gốc, từ nhận
thức, quan niệm, tư duy cơ bản. Nói
vắn tắt là sai lầm có tính chất hệ thống, sai lầm
thiết kế, không thể khắc phục bằng những biện pháp
điều chỉnh chắp vá mà phải xây dựng lại từ gốc.
Nói khác, nếu không thay đổi cơ cấu xã hội tự gốc
rễ, không có cách gì thay đổi hay cải tiến giáo dục
được.
Mục
đích của giáo dục là đào tạo những thanh thiếu niên
để trở nên công dân tốt, có nhân cách, có tự do, có
khả năng kiến tạo một xã hội tiến bộ và thịnh
vượng. Việc này đòi hỏi một chính quyền có nhân
cách, biết tôn trọng tự do, dân chủ và công bằng xã
hội. Một xã hội áp chế, một học đường áp chế,
không thể đào tạo ra những con người tự do và có nhân
cách. Xã hội đòi hỏi ở lớp người lớn, nhất là
người thầy, tấm gương trong sáng, lời nói phải luôn
luôn đi đôi với việc làm. Một xã hội mà người lớn
phải sống “mánh mung”, “hai mặt” làm sao có được
lớp người trẻ “trong sáng”. Thêm vào đó, xã hội
cần một cơ cấu pháp luật nghiêm minh và trong sạch để
cầm cương nẩy mực, giữ cho xã hội có kỷ cương, mà
kỷ cương trước hết là trong lãnh vực giáo dục và học
đường.
Nếu
có can đảm cắt bỏ tổ chức chi bộ Đảng và các tổ
chức gọi là chính trị-xã hội trong hệ thống học
đường sẽ giảm cho ngân sách giáo dục từ 7% đến 10%,
đàng khác giúp vào việc “cởi trói” giáo dục.
3.
Người ta thường đề cập tới việc “đổi mới tư
duy” sao cho phù hợp với hoàn cảnh mới và thời đại
mới. Hoàn cảnh mới thiết nghĩ là tự do, tiến bộ,
công bằng, dân chủ và đa nguyên. Thời đại mới là
thời đại toàn cầu hóa, hội nhập, và sự bùng nổ của
tin học. Như vậy, cần cải tổ “toàn bộ hệ thống
giáo dục”, dám vứt bỏ những gì là giáo điều, trì
trệ để xây dựng “con người mới” – con người có
nhân cách, có tự do - cho Việt Nam.
Trong
những năm qua, có nhiều cá nhân và nhiều nhóm rất ưu
tư về tình trạng giáo dục, đã bỏ nhiều công sức vào
việc nghiên cứu cải tổ giáo dục, như nhóm
Nghiên cứu Cải cách Giáo dục, của giáo sư Hoàng Tụy ở
Hà Nội.
Người ta cho rằng, những cố gắng đó rất đáng trân
trọng, nhưng không có cách nào giải quyết được vấn
đề tự gốc rễ. Lý do nằm ở bình diện sâu hơn: chính
ý thức hệ, mô hình chính trị và nhân sinh quan đã dẩn
đưa đến tình trạng khủng hoảng ngày nay.
Có
người nghĩ rằng việc Nhà nước tự phê bình về nền
giáo dục trên diễn đàn Quốc hội như đã nói tới ở
trên và cho phép báo chí phê bình về khủng hoảng giáo
dục như hiện nay, phải chăng là chuẩn bị cho một thay
đổi về giáo dục trong những ngày sắp tới, hay chỉ là
một cách “xì hơi” để thoa dịu nỗi bất mãn của
quần chúng rồi đâu vẫn vào đấy?
Làm
công việc khảo sát này, vì phải đối diện với hoàn
cảnh thực tế phũ phàng, chúng tôi phải đề cập đến
hàng ngũ giáo chức một cách thẳng thắn. Trong thâm tâm
chúng tôi vẫn hằng trân trọng sự hy sinh, trăn trở của
nhiều nhà giáo dục rất đáng kính, đã hiến dâng cả
cuộc đời cho giáo dục, vẫn hằng ưu tư cho tuổi trẻ
và tiền đồ dân tộc.
Chúng
tôi thật đau lòng khi nghĩ tới đại đa số những gia
đình nghèo, nhất là ở nông thôn, đang sống trong nền
giáo dục“định hướng xã hội chủ nghĩa”, lại không
đủ tiền để “đóng học phí trường công” do nhà
trường đặt ra quá nhiều khoản thu, gây bức xúc trong
xã hội, để
con em có cơ hội đồng đều như học sinh ở các nước
tư bản.
Giải
pháp cho nan đề giáo dục Việt Nam trong tương lai, phải
trông chờ vào một tương lai sáng sủa khác và hiện nay
mọi người phải nỗ lực chuẩn bị một cách thận
trọng cho tương lai đó khi hoàn cảnh cho phép.
______________________________
Tài
Liệu Tham Khảo :
-
Đại Học Quốc Gia Hà Nội Web, 144 Đường Xuân Thủy,
Quận Cầu Giấy, Hà Nội.
-
Giáo Dục và Thời Đại Web, Cơ quan của Bộ Giáo dục và
Đào tạo
-
Hướng Về Giáo Dục, Trang Web chính thức của Nhóm Nghiên
Cứu Cải Cách Giáo Dục, Hà Nội
-
Talawas Forum Web, Tổng Biên Tập : Phạm Thị Hoài
-
Thanh Niên Online, Diễn Đàn của Hội Liên Hiệp Thanh Niên
Việt Nam, 248 Cống Quỳnh, Quận 1, Saigon
-
Tuổi Trẻ Online, Cơ Quan của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản
Hồ Chí Minh, 60A Hoàng Văn Thụ, Phường 9, Quận Phú
Nhuận, Saigon
-
Việt Nam Net, (VNN.VN) Công ty phần mềm và truyền thông
VASC. Cơ quan chủ quản : Tổng Công ty Bưu điện Việt
Nam.
-
Việt Nam News Network (VNN), 15568 Brookhurst St., # 247,
Westminster, CA 92683, USA
-
Vụ Đại Học Web
-
BBC
-
RFA
-
RFI
-
VOA
1
Tổ chức Đảng còn được nói tới trong các Điều 18,
19, 29e, 36.4.
2
Theo bản văn năm 1994 viết rõ hơn :” Chi bộ Đảng
trường học lãnh đạo nhà trường theo điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam.” Ngoài ra, tổ
chức Đảng còn được đề cập tới trong các Điều
21.1, 22.1, 32e, 39.4
3
Về Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày
23.2.2004, Talawas Forum, 2.3.2004
4
như trên
5
Trần Ngọc Vượng,
“Lý
luận phê bình văn học”, Talawas Forum, 29.11.2004
6
TS
Lê Ngọc Trà,
“Nâng
cao chất lượng đào tạo đại học: Khó
hay dễ?” Tuổi Trẻ Online
7
Vũ Quang Việt,
Nhóm Nghiên Cứu Giáo Dục, Hà Nội, 25.11.2004
8
Kiến Nghị của 23 trí thức trong Nhóm Nghiên Cứu Giáo
Dục, Hà Nội, tháng 9 năm 2004
9
trả lời cuộc phóng vấn của Talawas Forum, 2.7.2004
10
Ghi chú : một số tù nhân ở trại cải tạo Thanh
Cẩm có kể lại trên báo ở hải ngoại rằng : khi ông
Hoài Thanh đến trại trình bầy về thơ Hồ Chí Minh có
phát biểu đại ý : thơ Hồ Chủ Tịch hay vì là thơ của
Hồ Chủ Tịch (!)
11
trả lời cuộc phóng vấn của Talawas, 2.7.2004
12
Hà Thư Sinh, “Tôn trọng sự thật”, Talawas Forum,
6.1.2005
13
Tóm lược 2 bài viết của Nguyễn Thuý Hằng, năm 2003 và
2004, Talawas Forum
14
PGS Nguyễn Ngọc Thoa, “Sinh viên y khoa nếu vẫn còn học
“vẹt”.Tuổi Trẻ 28.11.2004
15
Vũ Quang Việt, “So sánh
chương trình giáo dục đại học ở Mỹ và Việt Nam”,
27.10.
2004
16
“Góp
tiếng nói về thực trạng giáo dục hiện nay!: Tuổi Trẻ
25.9.2004
17
Trần Mạnh Hảo,
“Thư ngỏ gửi ông Bộ Trưởng Bộ GD và ĐT”,
29.8.2002
18
Nguyễn Thế “Cái
danh và cái thực của giáo sư, phó giáo sư Việt Nam”,
Talawas Forum,
16.11.2004
19
Báo Tuổi Trẻ, ngày 6-5-04
20
Trần An Hòa, “Việc học ở Việt Nam ngày nay” VNN
21
Thạc Sỹ Phạm Xuân Phụng, “Trồng người thời đại
mới,” Tuổi Trẻ
22
ViệtNamNet, 22.11.2004
23
Hồ
Ngọc Nhuận, “Vài hàng đóng góp nhỏ với Hội thảo
tại UBMTTQVN về Tinh hình giáo dục hiện nay”, 21-10-2004
24
Bao Cấp Tư Duy, VNN, 31.3.2004
25
Luật sư Nguyễn
Ngọc Bích, Saigon,
“Bản phân tích về việc giáo dục: Nguyên do tạo nên
tình trạng hiện nay”,
tháng 11.2004
26
RFA-Việt Long,
Giới trẻ nghĩ gì về
nền giáo dục Việt Nam hiện nay? 15.11.2004
27
Bàn thêm về chất lượng giáo dục, Nhóm Nghiên cứu Cải
cách Giáo dục, Hà Nội, Việt Nam
28
Trích từ Niệm Phước, Minh Hằng, “Chất lượng giáo
dục thấp vì sao?” Talawas Forum, 1.11.2003
29
“Giáo dục đại học VN - một vài suy nghĩ”, TTOnline,
16.10.2004,
30
Cuộc nói chuyện của ông Lê Đăng Doanh với bộ chính
trị vào tháng 11 năm 2004. Tài liệu mới được phổ
biến
31
Trần thị Tâm Đan, Ban Văn hóa, Thanh niên, Thiếu niên và
Nhi đồng Quốc Hội.
32
Trần thị Tâm Đan , như trên
33
tin BBC,
34
Nhật Báo Người Việt, California, 20.3.05