Nguyễn Mạnh Trí
CẢNG CAM RANH
|
-
TỔNG QUÁT
Trong vùng Đông Nam Á có 2 vịnh: Vịnh Cam Ranh của
Việt Nam và vịnh Subic của Philippines. Vịnh Cam Ranh của Việt Nam là
một trong 5 vịnh tốt nhất thế giới.
Vịnh Cam Ranh nhìn từ vệ tinh
SO SÁNH VỊNH CAM RANH VÀ VỊNH SUBIC
Hai vịnh có những điểm khác nhau: Trước hết Subic là một vịnh nằm ở đảo quốc chứ
không phải như Cam Ranh nằm ở rìa một lục địa. Với Cam Ranh thì điều
này cho phép việc bố trí lực lượng, tiếp tế, bảo vệ cho căn cứ có thể
kéo sâu trong lục địa. Còn vịnh Subic thì luôn phải đề phòng sự phong
tỏa của lực lượng Hải quân đối phương. Do vậy xung quanh bốn mặt đảo
luôn phải duy trì được một vành đai an toàn. Bên cạnh đó việc bố trí các
lực lượng khác như lục quân, không quân tạo thành một căn cứ liên hoàn
trên đảo cũng gặp nhiều bất lợi hơn so với Cam Ranh. Ngoài ra, cần lưu ý
đến yếu tố thời tiết. Đảo Luzon của Philippines là "rốn bão" của biển
Đông nên điều kiện thủy văn không hoàn toàn thực sự lý tưởng cho hoạt
động của lực lượng tàu chiến trong mọi thời điểm. Đặc biệt hơn là đối
với lực lượng không quân thì yếu tố thời tiết càng ảnh hưởng mạnh. Về
địa hình, Cam Ranh được bán đảo Cam Ranh gần như che kín vịnh, đảm bảo
vùng nước gần như lặng tuyệt đối, cũng như che chắn khỏi sự đe dọa hỏa
lực và các thiết bị trinh sát của đối phương. Vịnh Subic không được che
chắn kín như vịnh Cam Ranh.
Lối đi vào Cam Ranh từ hướng Nam. Hai đảo nối liền nhau là đảo Bình Ba.
Về địa hình, vịnh Cam Ranh có diện tích gần 60 km².
Chỗ hẹp nhất khoảng 10 km, rộng nhất 20 km, độ sâu trung bình từ 18-20
m. Vịnh gần như khép kín bởi bán đảo Cam Ranh từ phía Bắc chạy phủ kín
cả phía Đông, phía Tây, rất kín gió, không bị phù sa bồi đắp, thuận tiện
cho việc phòng thủ. Phía Nam vịnh là đất liền, chỉ mở ra một cửa lớn -
được ví như một cánh tay ôm lấy vịnh, tạo thành một vành đai nên mặt
nước, có khả năng đón nhận nhiều hạm đội một lúc, nhiều tàu chiến, tàu
ngầm và các tàu có trọng tải trên 100,000 tấn có thể ra vào dễ dàng bất
cứ lúc nào trong năm. Ngoài ra, vịnh Cam Ranh chỉ cách tuyến hàng hải
quốc tế chỉ 20-30 hải lý. Những điều đó làm cho cảng Cam Ranh trở thành
một hải cảng chiến lược quan trọng, nhất là nó nằm không xa quần đảo
Trường Sa nơi có nhiều tranh chấp lảnh hải với Trung Quốc.
Trong khi đó, vịnh Subic ăn sâu vào đường bờ phía Tây
Nam đảo Luzon của Philippines theo trục Bắc-Nam khoảng 8 hải lý (15 km)
và có chiều rộng khoảng 3.5 hải lí (6.5 km). Về phía biển, vịnh được
giới hạn bởi mũi Sampaloc và mũi Mayagao cách nhau gần 6 hải lý (11 km)
theo trục Bắc Đông Bắc-Nam Tây Nam. Đường bờ biển phía Tây của vịnh
tương đối thẳng, định hình rõ với địa hình cao ở phía sau trong khi
đường bờ phía Đông thì thấp. Subic là một cảng nước sâu được nhiều ngọn
núi có rừng nhiệt đới che chở. Độ sâu của vịnh giảm dần từ 60 m (cửa
vịnh) đến 13.7 m (gần đầu vịnh). Ngày 14 tháng 3 năm 1947,
Thỏa ước Căn cứ Quân sự được ký kết cho phép Hoa Kỳ mướn 16 căn cứ và
khu vực dành cho quân sự bao gồm Vịnh Subic cũng như việc quản trị thị
trấn Olongapo một khoảng thời gian là 99 năm. Vịnh Subic đã được Hoa Kỳ
phát triển thành 1 quân cảng hiện đại của thế giới. Năm 1992, Hoa Kỳ trả
lại Subic Bay cho chính phủ Philippines. Sau hơn 20 năm rời khỏi khu
vực, Hải quân Mỹ năm 2015 đã trở lại căn cứ quân sự ở vịnh Subic trong
bối cảnh căng thẳng gia tăng với Trung Quốc. Tổng thống mới đắc cử
Rodrigo Duterte của Philippines đang để lộ khuynh hướng độc lập hơn với
Hoa Kỳ nhưng hy vọng không có thay đổi lớn trong quan hệ chiến lược giữa
hai nước.
Không ảnh Căn cứ Hải quân Hoa Kỳ tại vịnh Subic (phải) và Căn cứ Hải-Không quân, mũi Cubi (trái)
-
VAI TRÒ CỦA HOA KỲ (1965-1972)
Trong khoảng 8 năm đóng quân ở đây, Mỹ đã chi hàng
trăm triệu USD để xây dựng Cam Ranh thành căn cứ quân sự và hậu cần cho
lực lượng Hải-Lục-Không quân Hoa Kỳ tại Việt Nam.
VAI TRÒ CỦA HẢI QUÂN HOA KỲ
Hải quân Hoa Kỳ đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc chiến Việt Nam và có những những hoạt động chỉ mới giải mật trong thời gian gần đây. Khu vực hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ trải
dài từ vịnh Bắc Việt qua đảo Hải Nam, xuống Hoàng Sa và Trường Sa với
Đệ Thất Hạm Đội đặt Bộ chỉ huy tại Subic Bay, Market Time đặt Bộ chỉ huy
tại Cam Ranh và Các cuộc hành quân ngoại lệ với Bộ chỉ huy tại Đà Nẵng.
Đệ Thất Hạm Đội trách nhiệm khu vực ngoài lãnh hải 12 hải lý từ bờ biển
Việt Nam với Yankee Station nằm giữa bờ biển Bắc Việt và đảo Hải Nam.
Đệ Thất Hạm Đội không thể vào sát bờ biển miền Bắc vì trọng pháo phòng
duyên của Bắc Việt rất mạnh. Khu vực phía Nam vĩ tuyến 17 là chiến dịch
Market Time do Hải quân Hoa Kỳ và VNCH chịu trách nhiệm. Phía Bắc vĩ
tuyến 17 dọc theo duyên hải Bắc Việt là những hoạt động ngoại lệ chỉ mới
được giải mật trong thời gian gần đây với hai cơ quan CSS (Coastal
Security Service: Sở Phòng vệ Duyên hải) của HQ/VNCH và NAD (Naval
Advisory Detachment) của Hải quân Hoa Kỳ điều hành. Hoạt động xâm nhập
bờ biển Bắc Việt đầu tiên do CIA điều hành vào đầu 1960 với các ghe
Nautilus, sau đó là các chiến đỉnh Swift (PCF). Đến 1964 thì chiến tranh
mở rộng, CIA không còn khả năng điều hành nên giao lại cho Bộ Tư lệnh
Quân lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương nhưng quyền điều hành thực sự vẫn
còn thuộc Section 302 của tòa Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài cho đến 1965 mới
chính thức bàn giao. Điều cần để ý là Bộ Tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ tại
Thái Bình Dương (Pacific Command) và Bộ Tư lệnh Hải Quân Hoa Kỳ tại
Thái Bình Dương (Pacific Fleet) đều do 2 đô đốc 4 sao của hải quân Hoa
Kỳ chỉ huy. CSS/NAD là một tổ chức hỗn hợp giữa Hải quân Hoa Kỳ và Việt
Nam Cộng Hòa. Hải quân Việt Nam cung cấp thủy thủ đoàn và điều hành các
PTF còn NAD trách nhiệm về thiết kế hành quân và yểm trợ. Về giấy tờ thì
Sở Phòng vệ Duyên hải trực thuộc Nha Kỹ Thuật - BTTM nhưng trên thực tế
thì CSS/NAD chẳng liên lạc gì với BTTM và ngay cả MACV. Các hoạt động
và ngay cả huy chương Hoa Kỳ của họ đều do Bộ Tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ
tại Thái Bình Dương cấp. Các nhân viên QL/VNCH tăng phái ra CSS đều mang
căn cước mới và không được liệt vào hồ sơ quân bạ trong giai đoạn tăng
phái. Trong thập niên 1960 thì hải quân Hoa Kỳ không còn các khinh tốc
đỉnh nên phải mua của hải quân Na Uy. Hải quân Na Uy đóng 48 chiếc, bàn
giao cho hải quân Hoa Kỳ 24 chiếc chuyển cho thủy thủ đoàn Việt Nam sử
dụng. Các khinh tốc đỉnh PTF là các chiến đỉnh tối tân nhất thế giới vào
thời đó với vận tốc tối đa 55 gút và là các chiến đỉnh đầu tiên thiết
kế trên máy vi tính. Các chiến đỉnh của Bắc Việt trong thời gian này chỉ
có tốc độ tối đa khoảng 35 gút.
PTF trong vị trí chiến đấu
CSS/NAD chấm dứt hoạt động khi Hoa Kỳ quyết định
ngưng oanh tạc Bắc Việt năm 1969 nhưng thỉnh thoảng vẫn còn vài chuyến
xâm nhập cho đến 1972, Hoa Kỳ mới chuyển các PTF về lại Subic Bay.
KHÔNG QUÂN HOA KỲ TẠI CAM RANH
Từ đầu năm 1965, đoàn Công binh Hải quân Hoa Kỳ bắt
đầu xây sân bay Cam Ranh cùng với các nhà thầu dân sự và chuyển giao
cho Không quân Hoa Kỳ vào cuối năm. Sân bay Cam Ranh do quân đội Hoa Kỳ
xây dựng là căn cứ không quân lớn nhất, cung
cấp tiếp liệu cho Hải-Lục-Không quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ. Lúc
đó, căn cứ không quân của Mỹ ở vịnh Cam Ranh bao gồm hai sân bay cho
máy bay phản lực và một sân bay cho máy bay trực thăng, mỗi sân bay có
sức chứa hơn 100 máy bay. Người Mỹ còn tiến hành khoét núi Cam Ranh, xây
dựng kho chứa máy bay trong lòng núi, nâng cấp đường băng lớn có thể
cho máy bay ném bom chiến lược B-52 cất và hạ cánh. Vào lúc cao điểm của
cuộc chiến, sân bay quân sự Cam Ranh có tần suất hạ cánh và cất cánh
cao nhất thế giới.
Ảnh chụp phi trường Cam Ranh do Hoa Kỳ xây trong
khoảng 1965-1970 nhìn từ Biển Đông. Hai đừng băng 3,000 thước nằm giữa
bức hình. Đường băng phía Tây được đổ bê tông trong khi đường băng phía
Đông được lót bằng vỹ nhôm.
Sân bay Cam Ranh được sử dụng như căn cứ chính được các đơn vị chuyển vận chiến lược Military Air Transport Service/Military Airlift Command từ Hoa Kỳ chuyển đến Nam Việt Nam rồi từ đó được Không đoàn chuyển vận chiến thuật số 483 th dùng các phi cơ chuyển vận loại C-7 Caribou và C-130 Hercules
đưa đến các phi trường khác khắp miền Nam. Đơn vị Không quân trú đóng
tại Cam Ranh đầu tiên là Không đoàn Chiến thuật số 12 trang bị với các
chiến đấu cơ F-4C Phantom II được di chuyển từ căn cứ không quân
MacDill, Florida. Không đoàn này tham dự các cuộc oanh tạc ở miền Bắc,
Lào cũng như miền Nam với 4 phi đoàn 557th, 558th, 43th và 391st.
Từ năm 1970, trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, không đoàn này
được chuyển về lại Hoa Kỳ. Hai sư đoàn chuyển vận không quân số 315 th và 834 th
trang bị C-130 và C-123 thường xuyên bay từ Nhật Bản và Okinawa bay đến
Cam Ranh cũng như tham gia các chiến dịch tại Khe Sanh, A Lưới, A Shau
và Khâm Đức v.v.. Trực thuộc sư đoàn 834 th là không đoàn 483 th
trang bị phi cơ vận tải Caribou C-7A rất hữu hiệu trong việc yễm trợ
các đơn vị của lực lượng đặc biệt tại Tây Nguyên. Trong chiến tranh Việt
Nam, phi trường tại Cam Ranh cùng với các phi trường tại Okinawa, Nhật
Bản và phi trường Clark Field tại Philippines lập thành một mạng lưới
tiếp vận hữu hiệu cho quân lực Hoa Kỳ.
HẢI QUÂN HOA KỲ TẠI CAM RANH
Quân cảng Cam Ranh là một cảng quân sự lớn nằm ở phía Nam bán đảo Cam Ranh. Đây từng căn cứ phức hợp quan trọng của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam.
Năm 1964, các phi cơ thám thính, tàu yểm trợ thủy phi cơ Currituck AV-7
và đơn vị dò mìn Mine Flotilla 1 bắt đầu các công tác thủy văn và giám
sát bờ biển để bắt đầu việc xây dựng các cơ sở bờ. Năm 1965, sau khi một
tàu tiếp liệu của Bắc Việt bị khám phá tại Vũng Rô thì cảng Cam Ranh
bắt đầu được xây dựng cho Lực lượng Thám sát Bờ biển (Coastal
Surveillance Force). Trong những năm sau đó, Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu
điều động các tàu tuần tra loại nhỏ PG và PCF đến Cam Ranh. Tháng
4/1967, căn cứ Hải-Không quân Cam Ranh (U.S. Naval Air Facility, Cam
Ranh Bay) được thành lập với các phi cơ P-2 Neptune và P-3 Orion. Mùa Hè
67, Bộ chỉ huy Lực lượng Thám sát Bờ biển dời từ Sài Gòn ra Cam Ranh
để chỉ huy chiến dịch Market Time. Trung tâm Truyền tin Hải quân (Naval
Communications Station) cũng được thành lập. Trong lúc các căn cứ bờ
được thành lập, 2 tàu tiếp liệu Mark (AKL-12) và Brule (AKL-28) vẫn chở
đồ tiếp liệu từ Subic Bay, Philippines và tàu APL-15 vẫ đảm trách vấn đề
trú ngụ cho nhân viên. Các cầu ponton được hoàn tất cho các tàu tuần
tiểu. Căn cứ Yểm trợ Hải quân Cam Ranh được thành lập năm 1967 để yểm
trợ cho chiến dịch Market Time cũng như các hoạt động trong vùng sông
Cửu Long. Bắt đầu năm 1972, trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, một
số cơ sở chuywển giao lại cho VNCH hay chuyển về Sài Gòn, chấm dứt 7
năm hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ tại Cam Ranh.
Quân cảng Cam Ranh trong cuộc chiến Việt Nam
Nếu phân tích kỹ thì sự hiện diện của
Hoa Kỳ tại Cam Ranh chỉ có tính cách ngắn hạn khi xây phi trường, hải
cảng, doanh trại của Hoa Kỳ trong giai đoạn này: một đường bay của phi
trường Cam Ranh lót bằng vĩ nhôm, các cầu tàu bằng ponton, doanh trại
hoàn toàn xây bằng gổ. Vấn đề xây dựng tạm thời một phần vì nhu cầu khẩn
cấp của chiến tranh và có lẻ các chiến lược gia tiên đoán trước Hoa Kỳ
sẽ không ở lâu tại Việt Nam. Năm 1973, sau Hiệp Định Paris, Hoa Kỳ trao các căn cứ này lại cho Hải - Không Quân Việt Nam Cộng Hòa trước khi Việt Nam được thống nhất năm 1975.
-
VAI TRÒ CỦA NGA SÔ (1978-2002)
Sau khi hai miền Bắc Nam thống nhất thì cảng Cam Ranh được dùng làm căn cứ hải quân quan trọng của Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô trong bối cảnh Chiến tranh lạnh giữa khối Liên Xô và Hoa Kỳ và tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nga Sô là chổ dựa của Việt Nam trong giai đoạn này. Chính phủ Xô viết chính thức ký năm 1978 một thỏa thuận với Việt Nam để thuê hải cảng này trong thời gian 25 năm. Cuối thập niên 1980, Liên Xô tan vỡ; chính phủ Nga nhận kế thừa hợp đồng đó cho tới năm 1993.
Một hiệp định mới cho phép Nga tiếp tục có mặt tại Cam Ranh nhưng chủ
đích căn cứ này chuyển sang làm nơi thám thính, theo dõi hoạt động của Trung Quốc còn các chiến cụ và quân nhân được rút về Nga. Còn lại là nhân viên kỹ thuật tình báo.
Tháng 2/1984, theo đề nghị của phía Việt Nam, Chính phủ Sô Viết đã
quyết định khôi phục và xây dựng thêm một loạt công trình tại căn cứ Cam
Ranh. Việc xây dựng Cam Ranh bước sang một giai đoạn mới, chuyển từ
hình thức tự hạch toán kinh tế sang hình thức đấu thầu khoán gọn, bắt
đầu giai đoạn xây dựng kiên cố thay cho các kết cấu lắp ghép tạm thời.
Trong cuộc điều đình kéo dài thời hạn thuê quân cảng Cam Ranh thì Việt
Nam đòi Nga phải trả tiền thuê hằng năm là 200 triệu Mỹ kim. Chính phủ Nga không chịu điều khoản này nên ngày 2 tháng 5 năm 2002, lá cờ Nga được hạ xuống lần cuối cùng tại căn cứ Cam Ranh.
Cuối năm 1978, Liên Xô đã ký thỏa thuận với Việt Nam
về việc xây dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật tại Cam
Ranh. Theo đó, quân cảng này là nơi tiếp nhận tàu chiến, tàu ngầm, tàu
hộ tống cùng nhiều máy bay trinh sát, vận tải và máy bay mang tên lửa
của Hải đoàn tác chiến cơ động số 17 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương.
Ngày 4/5/2002 - ngày cuối cho sự hiện diện quân sự
của Nga tại Việt Nam - các quân nhân, chuyên gia Nga rời PMTO 922 trên
ôtô trong tiếng nhạc bài "Các sĩ quan". Còn các chiến sĩ Vùng 4 Hải quân
Việt Nam đứng nghiêm trên cầu cảng để tiễn những người bạn Nga. Trên
boong "Sakhalin-09", Chuẩn đô đốc Eryomin, chỉ huy trưởng cuối cùng của
căn cứ giơ tay chào những người đồng đội Hải quân Việt Nam.
Trong thời gian gần đây, báo chí Nga-Việt nói nhiều
về sự trở lại Cam Ranh của Nga Sô. Năm 2014, Bộ Quốc phòng Nga còn đưa
ra thông báo cho biết các máy bay ném bom tầm xa và máy bay tiếp dầu Nga
bắt đầu thường xuyên hạ cánh tại các sân bay nước ngoài; trong đó, lần
đầu tiên máy bay tiếp dầu của nước này sử dụng sân bay Cam Ranh của Việt
Nam. Vào tháng 3/2015, Mỹ mạnh mẽ yêu cầu Việt Nam “không cho Nga sử
dụng căn cứ tại vịnh Cam Ranh”. Tình trạng kinh tế của Nga cũng là một
yếu tố. Với thế chiến lược giữa Việt Nam và Trung Quốc-Hoa Kỳ-Nga Sô,
việc sử dụng phi trường và cảng Quốc tế Cam Ranh sẽ là một sự cân bằng
chiến lược.
-
VAI TRÒ CỦA VIỆT NAM (2004-HIỆN NAY)
Sau 2002, Việt Nam có dự định phát triển Cam Ranh này với mục đích lưỡng dụng quân-dân sự, tương tự như chính phủ Philippines đã làm với căn cứ hải quân Subic Bay và căn cứ không quân Clark
Field do Mỹ bàn giao. Cách đây khá lâu, đã có nguồn tin loan báo chính
phủ Nhật Bản đã có đề nghị Việt Nam biến Cam Ranh thành 1 thành phố 3-4
triệu dân và cảng Cam Ranh thành một hải cảng lớn nhất Đông Nam Á.
PHI TRƯỜNG QUỐC TẾ CAM RANH
Ngày 19 tháng 5 năm 2004, sân bay Cam Ranh trở thành phi trường dân sự đầu tiên thay thế cho sân bay Nha Trang
nằm trong nội thị thành phố bị hạn chế về diện tích và vì lý do an
toàn. Ngày 16 tháng 8 năm 2007, Văn phòng chính phủ ra quyết định nâng
cấp cảng hàng không Cam Ranh trở thành cảng hàng không Quốc tế. Tháng 12
năm 2009, bằng việc đưa vào sử dụng nhà ga hàng không mới, hiện đại,
quy mô lớn bậc nhất miền Trung, sân bay Cam Ranh chính thức trở thành
Cảng hàng không quốc tế thứ 3 của khu vực này. Năm 2015, UBND tỉnh Khánh
Hòa tổ chức lễ khởi công xây dựng đường băng số 2, sân bay quốc tế Cam
Ranh. Đường băng dài 3,048 m, rộng 45 m, đạt tiêu chuẩn Cảng hàng không
cấp 4E, tức là có thể tiếp nhận các loại máy bay chở khách cỡ lớn trên
thế giới. Dự kiến đường băng số 2 sẽ được đưa vào sử dụng vào năm 2018.
Nhà ga quốc tế sân bay Cam Ranh được xây dựng mới sẽ là một sân bay
lưỡng dụng có công suất 4 triệu khách đến năm 2025.
Vị trí cảng hàng không Cam Ranh
.
.
CĂN CỨ HẢI QUÂN CAM RANH
Hiện nay, Căn cứ Hải quân Cam Ranh đặt bộ chỉ huy của
Vùng 4 Hải quân là vùng trách nhiệm quan trọng nhất của Hải quân Việt
Nam, quản lý quần đảo Trường Sa, đảo Phú Quý và vùng biển phía nam miền Trung từ Phú Yên đến Bắc Bình Thuận gồm các tỉnh: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận
và phía Bắc của Bình Thuận. Yễm trợ cho Vùng 4 Hải Quân gồm có: Lữ đoàn
147 (Hải quân đánh bộ), Lữ đoàn 146 (Công Binh Hải quân), Lữ đoàn 162
(Tàu hộ vệ tên lửa: HQ 375 - HQ 376 - HQ 011 - HQ 012), Lữ đoàn 189 (Tàu
ngầm: HQ 182 - HQ 183 - HQ 184 - HQ
185 - HQ 186 - HQ 187), Lữ đoàn 954 (Hải-Không quân), Lữ đoàn 681 (Tên
lửa bờ) và Trung đoàn Radar 451. Lữ đoàn 125 (Vận tải biển) đồn trú tại
Cát Lái. Lữ đoàn 682 (Tên lửa bờ mới nhất) đồn trú tại Phú Yên. Ngoài
ra, tại phi trường Biên Hòa có Trung đoàn Tiêm kích 935 Su-30MK2V, Trung
đoàn trực thăng 917 trực thuộc Sư đoàn 370 cũng có trách nhiệm bảo vệ
Trường Sa. Lực lượng Hải quân tại Vùng 4 Hải Quân đang được tăng cường
trong các năm vừa qua nhưng để có thể hoàn tất nhiệm vụ của mình thì
phải cần có thêm 6-8 tàu hộ vệ tên lửa cỡ 3,000 tấn, khoảng 4-6 máy bay
săn ngầm loại P3C Orion hay tốt hơn cũng như các máy bay chỉ huy, tác
chiến điện tử và yểm trợ khác.
Hình ảnh mới nhất của căn cứ Hải quân tại Cam Ranh 2016
CẢNG QUỐC TẾ CAM RANH
Cảng Quốc tế Cam Ranh, nằm về phía Nam của khu vực
quân sự của cảng Cam Ranh, là cảng dịch vụ tổng hợp, đảm bảo phục vụ các
lực lượng và cung cấp các dịch vụ hàng hải cho các tàu dân sự, quân sự
của các quốc gia trên thế giới... Cảng Quốc tế Cam Ranh khánh thành và
đi vào hoạt động sẽ góp phần quan trọng trong việc khai thác có hiệu quả
những tiềm năng và lợi thế của Vịnh Cam Ranh; không chỉ có vai trò quan
trọng với quốc phòng - an ninh, mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội, du lịch của khu vực nam Trung bộ ... Theo
thông tin từ báo chí Việt Nam thì cảng biển Cam Ranh sẽ là một trong
nhũng hải cảng lớn nhất Việt Nam có thể cho phép hàng không mẫu hạm
trọng tải 100,000 tấn cập bến trong mọi điều kiện. Bằng việc cho tàu của
tất cả các nước cập Cảng Quốc tế Cam Ranh, Việt Nam một mặt đã khẳng
định chủ quyền của mình mặt khác đã đổi mới cách tiếp cận đa phương hóa
trong việc sử dụng cảng Quốc tế Cam Ranh và bảo vệ quyền tự do hàng hải
trên Biển Đông. Tương lai cảng Quốc tế Cam Ranh sẽ trở thành trung tâm
cảng dịch vụ hàng hải, nghỉ dưỡng, hậu cần, kỹ thuật chất lượng cao
trong khu vực.
Giai đoạn I của dự án Cảng Quốc tế Cam Ranh được phê
chuẩn từ tháng 9/2014, khởi công ngày 23/2/2015. Đây là dự án do Công ty
Trách nhiệm Hữu hạn Tân Cảng-Petro Cam Ranh (TCP Cam Ranh) thực hiện.
Công ty này có tổng vốn đầu tư là 2,000 tỷ đồng (khoảng 90 triệu USD),
trong đó Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn (SNP) góp 1,500 tỷ (chiếm 75%) và
Tập đoàn dầu khí Việt Nam góp 500 tỷ (chiếm 25%). Cơ sở tàu ngầm của
Việt Nam cũng được đặt bên cạnh cảng này. Hơn 1 năm thi công, toàn bộ
các hạng mục công trình thủy cùng các công trình bờ của Cảng Quốc tế Cam
Ranh đã được khánh thành ngày 8/3/2016. Cảng có chiều dài cầu giai đoạn
I là 640 m, độ sâu 20 m; bãi tập kết hàng hóa 26,000 m² … nằm trong dự
án 130 ha, gồm 3 khu: dịch vụ hàng hải và cung ứng tàu biển; khu đóng và
sửa chữa tàu biển; khu đóng và sửa chữa công trình dầu khí ... với số
vốn lên đến 2,000 tỉ đồng. Báo chí trong nước có những tường thuật không
rỏ ràng về chiều dài cầu tàu trong giai đoạn I. Các hình ảnh ở dưới hy
vọng phản ảnh chính xác chiều dài thật sự của cầu tàu.
Phóng đồ chiều dài cầu tàu cảng Quốc tế giai đoạn I
Chiến hạm Pháp Tonnerre, trọng tải 21,500 tấn, chiều dài 199 m, cặp cầu cảng giai đoạn I tại Cam Ranh
3 chiến hạm Việt Nam cặp cầu cảng giai đoạn I tại Cam Ranh
Dù rằng chi tiết về Giai đoạn II khi hoàn thành chưa
được tiết lộ nhưng báo chí ngoại quốc cho biết sẽ có cầu cảng dài khoảng
2,000 m, có thể tiếp nhận 18 tàu dân sự và quân sự cùng lúc và 185 tàu
mỗi năm kể cả Hàng không mẫu hạm và tàu ngầm, tải trọng tàu có thể tới
110, 000 DWT. Các cơ sở sửa chửa, nhà kho, trung tâm triển lãm cũng được
dự trù. Không hiểu đây là cầu cảng mới hay là cầu cảng giai đoạn I nối
dài. Mặc dù không có xác nhận chính thức về ngày hoàn tất nhưng chính
quyền Việt Nam luôn luôn nhấn mạnh khía cạnh thương mãi của dự án để trở
thành khuôn mẫu của một cảng lớn trong tương lai. Ngân khoản $89.7
triệu USD như báo chí Việt Nam loan báo có thể không phản ảnh đúng nhu
cầu thực sự của dự án.
-
KỀT LUẬN
Việt Nam cố gắng giữ quan hệ cân bằng đối với mọi
cường quốc trong vùng. Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất và
cũng là nước gây nhiều hệ lụy cho Việt Nam từ vấn đề Biển Đông, quân sự,
nguồn nước, ô nhiễm môi trường, chiến tranh mạng v.v.. Nga là nước cung
cấp vũ khí lớn nhất. Hoa Kỳ là nước quan trọng nhất về liên hệ kinh tế
và có thể cung cấp một số vũ khí mà Nga không có. Nhật Bản là nước đầu
tư lớn nhất và trong tương lai sẽ giúp cho Việt Nam trong lãnh vực quân
sự. Ấn Độ lại là “nước ủng hộ về chính trị, quân sự” kiên định của Việt
Nam. Ngoài ra còn phải kể Liên Âu do Pháp dẫn đầu và Úc Đại Lợi trong nỗ
lực tuần tiểu tại Biển Đông. Do Thái đã cung cấp khá nhiều hệ thống
phòng thủ cho Việt Nam. Yếu tố quan trọng nhất là giá cả trong một giới
hạn mà các nước Đông Nam Á có thể chịu đựng được. Dù sao, các vũ khí của
Nga tiên tiến ngang hàng với Tây phương mà giá cả chỉ bằng 2/3.
Không nên đòi hỏi Việt Nam nghiêng về một bên nào quá
nhiều trong nỗ lực bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải của mình.
Chiến lược của Việt Nam là muốn có càng nhiều lực lượng ngoài khu vực
can dự vào để tạo một thế cân bằng với Trung Quốc. Trục Changi của
Singapore-Cam Ranh của Việt Nam-Subic Bay của Philippines sẽ là tam giác
chiến lược bảo đảm sự tự do hàng hải của tuyến đường vận chuyển thương
mại quốc tế có trị giá đến 5,000 tỷ USD từ eo biển Malacca lên Đài Loan
đến các quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và ngay cả Nga Sô.
THAM KHẢO
-
Cam Ranh Base - From Wikipedia, the free encyclopedia
-
Vietnam Unveils New Port Facility For Foreign Warships in Cam Ranh Bay – The Displomat - March 10, 2016.
*****
Đọc các bài viết của tác giả, quý vị có thể vào Google, đánh “Nguyễn Mạnh Trí”, rồi vào:
và lựa chọn bài viết muốn đọc - Hiện đã có 68 bài.
Nguyễn Mạnh Trí
E-Mail: prototri@yahoo.com
Tu chỉnh: 1 tháng 9 năm 2016