LÊ
MỘNG NGUYÊN
Vọng
về lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa
Tùy Bút
của
Gs
NGUYỄN ĐĂNG TRÚC
Giáo
sư Trần-Văn-Cảnh và nhà văn Đỗ Bình ở Paris đề nghị
tôi viết vài hàng giới thiệu về nhà văn Lê Mộng
Nguyên
để
đưa vào Tuyển
tập Những
Khuôn
Mặt
Văn Hóa
Việt Nam Paris.
Thực
ra viết về Lê
Mộng Nguyên, có quá nhiều để viết. Những dòng chữ
dưới đây chỉ là những chấm phá về những ngày có
duyên được quen biết nhà văn tiền bối nầy.
Rời Việt-Nam
đi du học ở Pháp năm 1950, chàng thanh niên nghệ sĩ nầy
từng dự định ghi danh học ngành âm nhạc tại
Conservatoire
national supérieur de musique ở
Paris,
phản ảnh ước mơ của không ít người thanh niên Huế
lúc bấy giờ1,
nhưng số phận đã đưa du học sinh nầy đến ghế trường
Luật. Xa quê từ dạo ấy cho đến nay trên 65 năm, sáng
tác âm nhạc của Lê Mộng Nguyên là tiếng vọng nhớ
nước, nhớ non, nhớ nhà
như lời của thi sĩ tiền bối đồng hương Sảng Đình
Nguyễn Văn Thích có lần đã nhắn nhủ giới trẻ Việt
Nam :
Lá Thư Cho Mẹ, Sông Seine - Bao giờ Ta Về Nước Nam ?
(1951), Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương (1981), Quê Tôi (1991),
Kiếp Giang Hồ (1992), và
tiếp đó :
Tìm Lại Ngày Xưa, Thề Non Nước, Lời Cuối Của Anh,
Quốc Hận 30 Năm…
Qua vô số
tác phẩm âm nhạc mà danh mục trên chỉ là tượng trưng,
có thể nhận ra rằng cảm hứng âm nhạc của Lê Mộng
Nguyên trào vọt lên từ nguồn thi ca đến từ
bờ bên kia
theo lối nói của nhà Phật. Thật ra, nguồn thi ca đó
đã được gợi lên một cách cô động nơi lời thơ nầy
của chính tác giả trong tuyệt phẩm “Trăng
Mờ Bên Suối” : Lời
hẹn ước từ bờ Suối Xưa.
Nhưng, Lê
Mộng Nguyên được giới thức giả, người trên thế
giới cũng như đồng bào, biết đến nhiều, không phải
vì các học vị bằng cấp hay chức vụ xã hội :
Lê
Mộng Nguyên đã tốt nghiệp tiến sĩ quốc gia về luật
khoa về ban công pháp với luận án “Giai
cấp xã hội và phong trào chính trị tại Việt-nam từ
1919 đến 1939”
( luận án được Giải Thưởng Luận Án Đại Học Paris
1963), đã từng là giám đốc nghiên cứu và giáo sư công
pháp quốc tế tại đại học Paris, luật sư
Tòa
Thượng Thẩm Paris , chuyên gia về các định chế Pháp và
quốc tế, những vấn đề Đông Nam Á và đặc biệt là
Việt-nam…, và là thành
viên Hàn Lâm Viện Khoa học Pháp Quốc Hải Ngoại…
mà là vì
giá trị của những biên khảo hàn lâm, những kiến thức
uyên bác, những nhận định, phê binh về chính trị, về
các định chế điều hành sinh hoạt cộng đồng và xã
hội, về văn hóa… trong nhiều tác phẩm nghiên cứu được
tái bản nhiều lần, tiêu biểu như :
La Constitution de la Ve
République, de Charles De Gaules à François Mitterrand,
STH, 4ème
édition, 515 pages, Paris 1989 ; Les
systèmes politiques démocratiques contemporains,
4ème
édition actualisée, 228 pages, STH Paris 1994, La
constitution de 1958,
L’Hermès, Paris 1996, Initiation
au droit, L’Hermès,
Paris 1996, Finances
publiques, L’Hermès,
Paris 1997, Les
systèmes politiques démocratiques,
Éditions Ledrappier, Paris 1987…
Les agglomérations urbaines dans les Pays du Tiers Monde,
Institut de Sociologie, Bruxelles, 1971. (100) Contes
philosophiques d’Asie,
L’Harmattan, Paris 2005….
Ngoài những tác phẩm viết
bằng pháp ngữ về luật pháp, xã hội, thi ca, văn hóa,
Lê Mộng Nguyên đã viết bằng việt ngữ nhiều bình
luận văn chương (đặc biệt là thơ và tiểu thuyết), âm
nhạc, về các sáng tác của các tác giả người Việt
trong và ngoài nước. Chưa kể đến những biên khảo về
chính trị, những nhận định về tình hình Việt Nam được
phổ biến trong các tạp chí, tuyển tập phát hành trong
cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại. Đây không chỉ là những
kiến thức uyên bác khách quan, nhưng còn phản ảnh những
nỗi thao thúc, những tình tự của người con xa xứ, khao
khát muốn sớm thấy tổ quốc Việt Nam sớm được dân
chủ và tự do.
Nhưng
bên trên, bên ngoài một Lê Mộng Nguyên tài ba và thành
đạt đó, điều đáng cho những người tiếp cận ghi nhớ
chính là con người
và cung cách « kẻ sĩ »
của anh.
Người
xa khi nghe đến tên tuổi và sự nghiệp của Lê Mộng
Nguyên hẳn sẽ ngạc nhiên khi trực tiếp tiếp cận qua
liên lạc thư từ, trò chuyện, tâm sự hay sinh hoạt văn
hóa, nghệ thuật với anh. Có duyên gặp anh rất trễ từ
sau năm 2000, nhưng qua cách nói, nơi thái độ niềm nở ân
cần, và nhất là với nụ cười và cái nhìn thiết thân
của anh, ngay trong lần đầu tiếp xúc tôi giật mình đối
diện với một « kẻ sĩ »2
mà tôi tưởng chỉ có thể hình dung trong ước lệ văn
chương. Thái độ khoan thai, cách ăn mặc nghiêm túc nhưng
dung dị, lời nói cẩn trọng nhưng hết sức chân thành
ấm áp, vẽ ra trước mắt tôi chân dung một nhà nho trong
văn hóa truyền thống. Nụ cười dễ dàng và cái nhìn
rất hồn nhiên của anh như sao chép hình ảnh một chân
nhân của đạo học hoàn đồng. Phải, nơi anh, có vết
tích nét thanh cao, bình dị của văn hóa Á Châu, có tác
phong lắng nghe, lối tiếp cận tự nhiên, thẩng thắn,
tinh thần bình đẳng và sẳn sàng phục vụ của tinh hoa
văn hóa Tây Phương. Nói theo kiểu nói của người Pháp,
anh là « sinh loại họa hiếm » trong một xã hội
thích tôn vinh những con người phô trương, cao ngạo và
hời hợt nhất thời.
Có
một điểm làm cho người tiếp cận ngạc nhiên nữa đó
là sự tha thiết gần như quá mức của anh về những
sáng tác thơ văn và âm nhạc, những tiểu thuyết, truyện,
tùy bút, hồi ký, luận văn … của người Việt sống
kiếp lưu vong. Trong
lời nói đầu cuốn sách của anh tựa đề Nhà
Văn Hải Ngoại do
nxb
Nắng Mới, Đức Quốc, xuất bản năm 2006, anh từng thổ
lộ :
« Tôi
đã viết với quả tim, hơn là theo lý trí, và với nhiều
cảm xúc, rung động của tâm hồn, tôi muốn quí độc
giả chia xẻ nhũng giây phút hạnh phúc hay nhớ nhung mà
thơ văn, nhạc viễn xứ đã đem lại cho tôi. »
(trang 7)
Mối
thâm tình thân thuộc đối với đồng hương xa quê, nỗi
nhớ nhung kỳ lạ
đã chi phối chính con người anh, văn phong trong các sáng
tác, tất cả như cũng chỉ là những biểu hiện phát
xuất từ nguồn suối thi ca mà chúng ta đã ghi nhận qua
nhạc của Lê Mộng Nguyên : Lời
hẹn ước từ bờ Suối Xưa.
Văn
hóa Hy-lạp gọi Suối
Xưa
(ẩn
kín)
nơi bản nhạc Trăng
Mờ Bên Suối
là Đại
Ký Ức
(Μνήμη),
là Nguồn
hứng của
thi ca đến từ bên kia bờ, là nơi mà Lão Tử trong Đạo
Đức Kinh gọi là Huyền
Môn3.
Suối
Xưa
đó chính là tên gọi của Lời
sâu kín cư ngụ nơi tâm hồn của mỗi người.
Theo
như lối định nghĩa thi ca của Socrate4,
từ Nguồn
Suối
Xưa,
Lời Người
hẹn từ
muôn thủa làm tan biến những hiểu biết của trí khôn
tính toán so đo, và đồng thời thổi vào « người
thi sĩ » một hồn thơ, một linh khí giúp « kẻ
ngộ duyên » ấy có thể nói lên chiều kích thần
thiêng của nhân tính. Lời Người
hẹn đó
cũng là « Thi »
hay Lời
Thơ
giúp « kẻ sĩ » nói lên được lời nhân nghĩa
như trăn trối của Khổng Tử cho con của Ngài là Bá
Ngư5.
Và cũng do tác động của Nguồn
Suối Xưa,
Nguồn suối bên bóng
trăng mờ, mà
trong
đại tác phẩm Prométhée
bị trói,
thi hào Eschyle hứng khởi loan tin về nét cao cả của nhân
tính nơi mối tương giao kỳ bí (relation
nocturne, mystérieuse)
với Đấng
Tối Cao
hay Thần giấu mặt :
Iô :
Những giấc mơ đêm
đêm ghé giường trinh nữ của tôi, và thì thầm bên
tai : « Hởi nhi nữ đầy ơn phúc, tại sao
phải ở không như thế, khi nàng có thể có được phu
quân là Đấng Tối Cao ? Nàng có biết Thần Zeus, vì
nguồn tình yêu nồng cháy của Ngài, đã say đắm
nàng : xin nàng chớ từ chối thần duyên nầy (γάμου…
μεγίστου)!
(Eschyle,
Prométhée
bị trói, cc.
645-651).
Chính
vì cảm hứng từ Lời
hẹn ước từ bờ Suối Xưa mà
ca khúc Trăng
Mờ Bên Suối đã
làm làm sống lại Đại
Ký Ức
hay Nguồn
Suối
thần thiêng nơi tâm hồn của người Việt chúng ta. Cảm
hứng kỳ lạ, hẳn không phải do tài gì của chàng thanh
niên Lê Mộng Nguyên mà phát sinh, nhưng là Duyên thi ca đến
với anh. Cảm hứng đó là hồn thơ người Việt lên
tiếng nói, một hồn thơ đã đến với Vũ-Quỳnh (trong
Lĩnh
Nam chích quái,
1492), Nguyễn-Du (trong Kiều,
đầu thế kỷ XIX), Tản Đà Nguyễn-Khắc-Hiếu (trong Thề
Non Nước
,1922) … trước đây. Hồn thơ đó làm rung động người
dân Việt, làm nên nét tinh hoa văn hóa Việt, và đủ sức
đưa văn hóa đó vào gia sản chung của văn hóa nhân loại.
Thực
thế, trong truyện huyền thoại dựng nước Họ Hồng Bàng
của cuốn Lĩnh
Nam chích quái do
Vũ Quỳnh hiệu chính, Âu Cơ là Mẹ muôn người, là Nguồn
của người « linh ư vạn vật », khi
người nữ nầy là hiện thân của Nổi
Nhớ Lạc Long Quân
và là người gặp « Người
hẹn cùng ta » ấy
ở Tương Dạ (Tương
Dạ đúng là
« Đêm
gặp gỡ » hay Tâm sâu kín nối kết Trời Người và
mọi người với nhau) :
Bố
ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân (…) Bố ở
phương nào,làm cho mẹ con ta thương nhớ. Long Quân hốt
nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở Tương Dạ.6
Lời
hẹn ước từ bờ Suối Xưa cũng
là lời Đạm Tiên - Người mà thủa
xưa ai cũng khao
khát mến chuộng, nhưng nay
vì « má đào,
tài sắc » của thân phận con người « vốn lãng
quên mệnh thanh cao của mình », nên đã bị vất bỏ
bên lề cuộc sống -. Lời
hẹn ước từ bờ Suối Xưa là
Lời đến từ bên kia bờ đến với Kiều trong « giấc
mộng ban đêm » tiên đoán cơn đau của cuộc chiến
Tài-Mệnh, cuộc chiến làm người hướng đến Duyên cứu
độ (Giác Duyên)
trên sông Tiền Đường.
Lời
hẹn ước từ bờ Suối Xưa là
Lời
Thề Non-Nước lời
thề
của
nhân tính linh thiêng phát sinh từ cội nguồn cao cả đến
với con người bị cuốn trôi bởi lo toan thế sự. Non
ấy của thi sĩ Tản Đà không phải là Người
hẹn cùng ta của
nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên hay sao ?
Nước
Non
nặng một nhời thề,
Nước đi đi mãi không về
cùng Non
Nhớ nhời nguyện nước
thề Non
Nước
đi chưa lại Non còn đứng không (trích
Tản Đà, Thề
Non Nước)
Người
hẹn cùng ta đến bên bờ suối
Rừng
chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu
Một
đêm thiết tha rồi đây xa cách
Rồi
đây hai ngả biết tới phương nào?
(…)
Một
ngày xa nhau xoá bao hình bóng
Trời bày chia ly chi cho lòng héo
Giờ đây cách xa người quên hay nhớ
Ngày xưa còn đó trăng nước mong chờ. ( trích Lê-Mộng-Nguyên, Trăng Mờ Bên Suối)
Trời bày chia ly chi cho lòng héo
Giờ đây cách xa người quên hay nhớ
Ngày xưa còn đó trăng nước mong chờ. ( trích Lê-Mộng-Nguyên, Trăng Mờ Bên Suối)
Không
thể không thấy rằng các sáng tác của Lê Mộng Nguyên
thể hiện lối văn chương và thi ca tiếp liền các trào
lưu thời tiền chiến, nhưng nguồn thi hứng và văn phong
của tác giả không chìm vào những giấc mộng « ru
với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây »
của các tác phẩm tác chịu ảnh hưởng phái lãng mạng
Pháp. Con người và văn phong của Lê Mộng Nguyên, đặc
biệt trong kiệt phẩm Trăng
mờ bên suối
có một nét độc đáo vượt lên trên các trào lưu.
Một
Âm hưởng, một Lời thơ nào đó lạc bước đi vào văn
chương và con người của anh. Phải chăng Âm hưởng và
Lời thơ đó tiếp cận được điều mà triết gia Karl
Jaspers nói là dư âm tiếng gọi con người thời đại
vượt cảnh vực thế sự để suy tư về cõi linh thiêng
muôn thủa của tâm hồn mình.7
1
Điều đáng lưu ý
là đa số các đạo diễn điện ảnh Việt-Nam vào các
thập niên 50, 60,70 là gốc người Huế, trong đó có đạo
diễn Lê Mộng Hoàng là anh ruột của Lê Mộng Nguyên.
2
Nhận
xét nầy của người viết chỉ là phản ảnh những cảm
tưởng của các giáo sư, các nhân sĩ, các sinh viên…,
tóm lại là các tham dự viên các khóa Đại
Học Hè VNHN
(khóa 6
- tháng 07/ 2002 tại Oslo, Na-Uy, khóa 7, tháng 08/2003 tại
Violau, Đức), Ngày
gặp gỡ các tôn giáo Viễn Đông,
tháng 03/2004, tại Centre St. Thomas, Strasbourg, Pháp),
Ngày gặp gỡ văn hóa thường niên VNHN (tháng
08/2008, tháng 08/2009 ở Bruxelles) do Trung Tâm Văn Hóa
Nguyễn-Trường-Tộ tổ chức.
4
PLATON,
Ion.
534 c-d;
534 e :.Socrate.-
Không
phải do tài năng nào của mình mà các thi sĩ làm thơ,
nhưng là do cảm hứng từ một quyền năng của Thần. Vì
nếu dựa vào một tài năng trình bày lưu loát như người
ta thường làm được trong các bộ môn nào đó, thì phải
chăng thi ca cũng chỉ là một bộ môn nào bất kỳ hay
sao! Bởi vậy, Thần đã xóa hết tài năng lý trí con
người để dùng họ làm thi sĩ, cho họ nhập Thần và
trở nên những tiên tri của Trời. Nhờ thế khi nghe lời
thơ của các thi sĩ, thì chúng ta hiểu được rằng không
phải do chính tài năng họ mà họ có được những giá
trị cao cả, bởi lẽ lúc ấy họ đã bị tước hết
tài trí của mình rồi; nhưng chính Thần nói, Thần
chuyển lời của Thần đến với chúng ta qua trung gian
các thi sĩ !
7
Khi
mô tả sứ điệp văn hóa của các thánh nhân, Karl
Jaspers viết : Vĩ
nhân không chỉ là người nắm bắt thời đại bằng tư
duy của mình, mà còn giúp con ngời nơi cõi nầy đụng
chạm đến vô tận. Vì thế tự căn nét siêu việt
trong tác phẩm và nơi cuộc sống người ấy cống hiến
một tấm gương soi dẫn mọi thời đại, mỗi một người
trong toàn thể nhân loại.
(Les
grands philosophes,
tome 1, trad. C. Floquet et autres, Plon, Paris, 1989, tr. 36)