Luật
sư Nguyễn Xuân Phước từ Texas viết về bài học Triều Nguyễn và xu hướng
thân Trung Hoa đưa tới chỗ mất nước và so sánh với tình trạng lệ thuộc
tư tưởng ngày nay:
Khi Nguyễn Ánh phát động chiến tranh chống lại nhà
Tây Sơn, ngài đã dựa vào hai thế lực ở nước ngoài. Ðó là lực lượng của
người Tây phương và lực lượng người Trung Hoa.
Đứng đầu lực lượng
Tây phương phò Nguyễn Ánh là đức giám mục Bá Ða Lộc. Nguyễn Ánh gặp giám
mục Bá Ða Lộc khi ngài bôn tẩu ở Vọng Các, kinh đô của Xiêm La, tức
Thái Lan. Từ đó, mối quan hệ của hai nguời trở nên mật thiết. Ðể vận
động sự trợ giúp của Pháp quốc, Nguyễn Ánh đã giao hoàng tử Cảnh lúc mới
lên bốn cho giám mục Bá Ða Lộc. Đồng thời giám mục có toàn quyền ký
hiệp định với hoàng đế Pháp để giúp cho Nguyễn Ánh đánh nhà Tây Sơn. Sau
đó ông trở về Pháp để vận động viện trợ cho Nguyễn Ánh. Ngài đã thay
mặt Nguyễn Ánh ký hiệp ước 1787 dùng các đảo Côn Sơn và các đảo ngoài
khơi Đà Nẵng (là Hoàng Sa) để đổi lấy viện trợ quân sự. Nhưng việc thi
hành hiệp ước 1787 với Pháp thất bại.
Sau đó giám mục Bá Ða Lộc đã
bỏ tiền túi cũng như vận động tài chánh riêng để mua khí giới và đưa sĩ
quan Pháp về huấn luyện cho quân Nguyễn Ánh. Những người Pháp giúp cho
Nguyễn Ánh như Sạc Ne (Charner) và Sai Nhô (Chaigneau) đều được tham dự
triều chính của vua Gia Long khi ngài lên ngôi.
Chúng ta có thể khẳng định rằng vua Gia Long là vị vua Á Châu đầu tiên biết xử dụng nhân tài Tây Phương để phục vụ cho đất nước.
Hai phe đấu đá
Người đầu tiên chịu ảnh hưởng
Tây phương trong triều đình Gia Long là hoàng tử Cảnh. Hoàng tử Cảnh
được vua cha Gia Long cho theo đức giám mục Bá Ða Lộc từ lúc ông mới 4
tuổi. Ở tuổi thơ ấu này, hoàng tử Cảnh rất dễ tiếp thu văn hoá và ngôn
ngữ Tây phương. Có lẽ hoàng tử Cảnh là vị hoàng tử Á Châu đầu tiên được
theo Tây học ở cuối thế kỷ thứ 18. Tuy lịch sử không nói nhiều đến cuộc
đời của hoàng tử Cảnh, ngày nay chúng ta có thể suy luận được rằng hoàng
tử Cảnh là người tiếp cận văn hoá tây phương rất sớm, thông thạo Pháp
ngữ, Latin và có quan hệ rất tốt với Tây phương.
Ngoài ra, cánh
quân sự trong triều đình Gia Long là thành phần chịu ảnh hưởng của Tây
phương. Họ là những người trực tiếp xử dụng vũ khí của Tây phương. Đứng
đầu cánh thân Tây phương này là tả quân Lê Văn Duyệt cùng các tướng lãnh
như tiền quân Nguyễn Thành.
Phe thân Trung Hoa là những người
Minh Hương đã gia nhập lực lượng của Nguyẽn Ánh để chống Tây Sơn. Người
Minh Hương là những người Trung Hoa phục vụ cho nhà Minh xin tỵ nạn
chính trị tại Đại Việt khi nhà Thanh diệt nhà Minh. Những người Minh
Hương thoạt đầu là những người của tổ chức Thiên Địa Hội có ý chí phản
Thanh phục Minh.
Tuy nhiên từ thời Khang Hy trở đi, nhà Thanh đã
bắt đầu bị đồng hoá vào Trung Hoa và Khang Hy bắt đầu những chính sách
kinh tế, chính trị làm cho Trung Hoa càng ngày càng phồn thịnh và phát
huy văn hoá Trung Hoa lên cao độ. Do đó, ý chí phục Minh của những người
Minh Hương không còn nữa. Sau hơn 100 năm sống ở Đại Việt, những người
Hoa kiều nầy trở thành một bộ phận của dân tộc nhưng họ vẫn có những mối
quan hệ chặt chẽ với mẫu quốc Trung Hoa. Tại Việt Nam lúc bấy giờ người
Minh Hương trở thành một lực lượng có xu huớng thân Trung Hoa trong
triều Gia Long.
Ðứng đầu lực lượng nầy là Trịnh Hoài Ðức, Lê Quang
Ðịnh và Ngô Nhơn Tịnh. Ba ngưòi nầy là học trò xuất sắc của một nhà
thâm nho gốc Minh Hương là Võ Trường Toản và cả ba được người đương thời
gọi là Gia Định Tam Hùng. Cả ba đều tham gia hoạt động phò Nguyễn Ánh
từ năm 1788.
Khi Gia Long lên ngôi, Trịnh Hoài Ðức được bổ nhiệm
làm thượng thư bộ lại kiêm bộ hình và phó tổng tài Quốc Sử Quán. Lê
Quang Ðịnh được làm Binh Bộ thượng thư, tương đương với bộ trưởng quốc
phòng ngày nay. Ngô Nhơn Tịnh sau được thăng Công Bộ thượng thư. Cả ba
ông đều dóng những vai trò quan trọng trong mối quan hệ ngoại giao với
Trung Hoa.
Nhưng vai trò quan trọng nhất của Trịnh Hoài Ðức là
được vua Gia Long ủy thác để dạy dỗ cho hoàng tử Ðảm. Hoàng tử Ðảm sau
lên ngôi lấy hiệu là Minh Mạng.
Hai xu hướng thân Tây phương và
thân Trung Hoa trong triều Gia Long xung đột gay gắt về vấn đề kế vị
hoàng tử Cảnh sau khi hoàng tử qua đời. Khi Trịnh Hoài Đức thuyết phục
được Gia Long phế dòng trưởng lập dòng thứ, vua Gia Long đã chọn Minh
Mạng làm người kế vị. Khi Minh Mạng lên ngôi, dưới ảnh hưởng của Trịnh
Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tịnh, Việt Nam đã nghiêng hẳn theo
mô hình Nho giáo của Thanh triều (Thanh Nho) để phát triển đất nước.
Sau
khi phe thân Trung Hoa tạo được ưu thế trong triều đình thì thanh trừng
bắt đầu xuất hiện. Tiền quân Nguyễn Thành, tổng trấn Bắc Thành, đã bị
gièm pha đến phải uống thuốc độc tự vẫn thời Gia Long. Sau khi lên ngôi,
Minh Mạng (1820-1840) triệt hạ dòng dõi của hoàng tử Cảnh bằng cách xử
tử vợ và người con trưởng của hoàng tử Cảnh, giáng ngưòi con thứ làm
thường dân.
Đối với Lê Văn Duyệt, Minh Mạng chưa dám làm gì và vẫn
cho làm tổng trấn Gia Định Thành. Khi Minh Mạng ban hành lệnh cấm đạo
thì Lê Văn Duyệt tại Gia Định vẫn chủ trương thân Tây phương và không
thực hiện lệnh cấm đạo. Khi Lê Văn Duyệt qua đời, con nuôi là Lê Văn
Khôi nổi dậy chống triều đình với sự giúp đỡ của một số người Tây phương
trong đó có một linh mục Công giáo. Khi cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi
bị dẹp tan thì Minh Mạng mới kết án Lê Văn Duyệt, tước hết các chức vụ
và cho xiềng lăng của ông bằng xích sắt.
Về phương diện ngoại
giao, Minh Mạng cho giảm dần quan hệ với Tây phương. Những ngườì Pháp
làm việc với Gia Long chán nản bỏ về nước. Với những người Minh Hương
thân Trung Hoa cầm nắm vận mạng của triều đình, Minh Mạng đã thi hành
một loạt các chính sách ngoại giao đi ngược với đưòng lối của Gia Long.
Từ một nền chính trị ngoại giao khai phóng của Gia Long với những quan
hệ rộng rãi với các quốc gia trên thế giới, Minh Mạng và các vua kế vị
Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883) cùng triều đình thân Trung
Hoa đã bắt đầu một nền chính trị cục bộ, thiển cận với chính sách bế môn
toả cảng, đoạn tuyệt với Tây phương, ban hành lệnh cấm đạo.
Mê văn chương xao nhãng quân sự
Do ảnh hưởng của Thanh Nho,
triều đình nhà Nguyễn từ Minh Mạng trở đi chỉ chú trọng đến văn chương
thi phú biền ngẫu, đi theo con đường trọng văn và xao lãng vấn đề quân
sự và quốc phòng.
Ðây là lý do, sau khi Gia Long băng hà, sức
mạnh quân sự của triều Nguyễn suy giảm hẳn. Khi các tướng lãnh thuộc thế
hệ Gia Long qua đời, các tướng lãnh thế hệ kế thừa không đủ tài thao
lược để thực hiện chính sách quốc phòng hữu hiệu.
Lực lượng quân
sự của Trương Minh Giảng không đủ khả năng duy trì guồng máy cai trị ở
Nam Vang. Và Trương Minh Giảng đã bị người Miên đánh đuổi về nước dưới
triều Thiệu Trị.
Đến thời kỳ Tự Đức, xu hướng thân Trung Hoa hoàn
toàn nắm trọn quyền trong triều đình. Sự kiện này được xác định khi
triều đình họp nhau bác bỏ bản điều trần canh tân đất nước của Nguyẽn
Trường Tộ. Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) là một nho sĩ theo đạo Thiên
Chúa. Ông nổi tiếng thông minh và hay chữ, được người đời gọi là Trạng
Tộ. Ông cũng thông thạo nhiều ngôn ngữ Tây phương.
Ông làm thông
ngôn cho các giáo sĩ Thiên Chuá trong việc truyền đạo tại Việt Nam. Sau
một thời gian đi chu du thế giới, đặc biệt là Pháp và Ý, ông trở về Việt
Nam dành mấy năm trời đem tâm huyết của một người yêu nước viết nhiều
bản điều trần cải cách và canh tân đất nước dâng lên Tự Đức. Nhưng triều
đình Tự Đức với đầu óc cổ hủ của Thanh Nho không đủ tầm nhìn để hiểu
được những thế lớn đang bùng ra trong thiên hạ thời bấy giờ. Sau hoàng
tử Cảnh năm mươi năm, Việt Nam đã mất đi cơ hội phát triển một lần nữa
khi triều đình nhà Nguyễn quay mặt trưóc những yêu cầu canh tân của
Nguyễn Trường Tộ.
Điều bất hạnh hơn cho dân tộc
là lúc ấy giáo điều Thanh Nho đã bắt đầu rã mục. Triều đình nhà Thanh
đang trên đà phá sản. Năm 1839 chiến tranh Nha Phiến bùng nổ, nhà Thanh
phải ký các hiệp ước biên giới nhượng đất cho Anh và Pháp. Với hiệp ước
Nam Kinh, Anh chính thức chiếm đóng Hương Cảng năm 1842.
Với hiệp
ước Hoàng Phố 1844, Pháp chính thức đặt chân lên lãnh địa Trung Hoa. Ở
mạn bắc, năm 1850 quân đội của Nga Hoàng tràn xuống Hắc Long Giang chiếm
đóng Mãn Châu, quê hương của nhà Thanh. Từ 1854 đến 1860, Hồng Tú Toàn
và phong trào Thái Bình Thiên Quốc đã chiếm gần một nửa Trung Hoa. Cuối
cùng, cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 của phong trào cách mạng Quốc Dân Đảng
dưới sự lãnh đạo của Tôn Văn đã lật đổ triều đình phong kiến Mãn Thanh
để xây dựng chế độ Cộng Hoà.
Trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn
vẫn còn như mơ ngủ. Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ năm 1860, tức là 20 năm
sau khi nhà Thanh bị liệt cường xâu xé và đang dãy chết, triều đình Tự
Đức vẫn còn cho người sang Trung Hoa cầu viện. Những tiếng nói đòi cải
cách của các sĩ phu yêu nước như Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ
Trạch trở thành nổi trăn trở kéo dài hàng thế kỷ của nhiều thế hệ.
Ý
hệ Thanh Nho làm triều đình nhà Nguyễn u mê đến nổi không thấy được một
thế giới mới đang ra đời với cuộc cách mạng kỹ nghệ đang đẩy xã hội Tây
phương lên đỉnh cao của sự phát triển. Và cuộc cách mạng kỹ nghệ đó làm
thay đổi cục diện thế giới, cùng lúc làm thay đổi lịch sử nước Việt.
Khi
Pháp tấn công Nam Kỳ thì triều đình hoàn toàn không có đủ năng lực quân
sự và chiến lược quốc phòng để đối phó. Những võ tướng uy tín trong
triều như Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản (cũng gốc người Minh Hương)
dù thừa khí phách của nho gia nhưng không đủ tài thao lược quân sự để
lãnh đạo cuộc chiến tranh chống xâm lược. Khi Pháp chiếm Sài Gòn thì
súng ống và đạn dược của quan quân Triều đình có rất nhiều nhưng quân
đội ô hợp không có khả năng chống trả quân xâm lăng. Hậu quả tất nhiên
là đất nước đã mất vào tay thực dân.
Với Hoà Ước Nhâm Tuất 1862 và
hoà ước Patenôtre 1884, công cuộc thống nhất đất nước của Gia Long được
coi như cáo chung. Việt Nam bước qua trang sử mới, đó là trang sử nô lệ.
Và sau 1000 năm giành được độc lập từ Trung Hoa thời Ngô Quyền, nước
Đại Việt lại một lần nữa mất quyền tự chủ.
Cái nhục mất nước, tụt hậu của dân tộc Đại Việt ở thế kỷ 19 phát xuất từ nhiều yếu tố lịch sử khác nhau.
Thế
nhưng sự chọn lựa mô hình phát triển đất nước, sự ỷ dốc vào Thanh triều
trên mặt trận ngoại giao và văn hoá thời kỳ hậu Gia Long, chính sách
giao thương phụ thuộc kinh tế Trung Hoa và sự tin tưởng mù quáng vào
giáo điều Thanh Nho bất chấp các bản điều trần yêu cầu canh tân của các
sĩ phu tiến bộ, là những yếu tố quyết định đưa đất nước vào giai đoạn nô
lệ.
Ngày nay, nếu thay giao điều Thanh Nho bằng giáo điều Cộng sản, thì tình trạng Việt Nam gần như tương tự.
Bài
thể hiện quan điểm riêng của Luật sư Nguyễn Xuân Phước và đã được đăng
trên Tuần san Trẻ Dallas, Texas, Hoa Kỳ. Tác giả qua thân hữu gửi đến
Diễn đàn BBC Tiếng Việt. Quý vị có ý kiến phản biện hoặc đồng ý với
tác giả, xin gửi về vietnamese@bbc.co.uk.
Đọc thêm: 'Việt Nam đang thiếu thảo luận quân sự'