Truyện ngắn Người Tiều Phu
Nguyễn Quang
Biển và rừng Cà ná,
rừng thoa thỏa dọc theo ven biển nơi đây, biển cách rừng qua con lộ chạy xuyên
cả nước, rừng với biển như quyện vào nhau tạo nên một vùng sinh thái có khí hậu
nhiệt đới, gió rừng mang theo hơi nước của biển thuộc duyên hải miền
Trung nầy.
Xa xa, những cánh đồng
ruộng muối bát ngát với hương vị riêng Cà ná, mà mỗi người Việt Nam khi nghe
đến đều nhớ tới hương vị thật mặn của nó.
Sự xuất hiện đột ngột
của lão Chu tại vùng biển nầy, không ai nghĩ
ông lão đi săn hay sẽ chài lưới, chính ông cũng không biết. Ông đến thăm một
người bạn cũ dưới mái trường xưa, song cũng là người được ông cứu mạng nhiều
lần lúc đương quyền dưới chế độ miền Nam Tự do…Vì người bạn nầy hoạt động bí
mật cho phe bên kia và từng là một nhà tình báo chiến lược.
Khi bếp lửa được thổi
lên để chuẩn bị pha trà, những thanh trúc khô nổ lách tách. Họ cười nói với
nhau, ông lão cách mạng mở lời trước: -Tôi đã từng ở rừng và nay trở lại với
rừng, nhưng bây giờ biết bó củi thật chặt hơn. Ông tiếp: đêm nay chúng ta sẽ đi
săn và trở về uống rượu nếp than với thú rừng.
Cả hai uống trà và dùng
các món ăn nhẹ, khi chiều xuống họ lên đường. Lão Chu hỏi người bạn già: Bác đã
chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ hành trang chưa… Ông lão trả lời một cách sảng khoái:
kẻ đi săn chuyên nghiệp là kẻ không phải mang gì hết… Tôi chỉ có một túi xách
để nhốt chúng, và cái ống tiêu để thổi lên thứ ngôn ngữ riêng của mỗi loài thú
mà ta muốn đánh chúng vào mẻ lưới của mình... à... một cái đèn pin nữa để phân
biệt tối sáng và anh sẽ không lạ ở đây họ hay gọi tôi là ông lão tiều phu… Lão
Chu cười: à tôi hiểu, người giỏi thắng không cần phải đánh, chỉ cần bày binh bố
trận là đã thắng.
Khi đến mé rừng, ông
bắt đầu chỉ chỗ cho lão Chu gỡ những con thú
rừng như thỏ, sóc, chuột, chồn… đã bị dính bẫy và người tiều phu nhẹ nhàng, âm
thầm đặt tiếp các bẫy khác. Lão Chu để ý các thứ mồi đều có mùi thơm của hương
vị bột đặc biệt.
Sau khi đã nhặt nhiều
thú rừng bị bẫy, Lão Chu đề nghị: thôi thế là đủ cho chúng ta trở về. Nhưng
người tiều phu cười bảo: chúng ta chỉ được hưởng chưa đầy phân nửa của những gì
mình đã thu hoạch, nó là thế và đó cũng là niềm vui trong sự chia sẻ với mọi
người. Nhưng niềm vui đích thực của chúng ta không phải là các thứ mồi ngon ấy,
song là… đã có bao nhiêu những con thú vì nghe nhầm mà sụp bẫy…
Họ lại tiếp tục đi sâu
vào rừng, bước chân người tiều phu như đã quá quen trên các lối mòn nầy dù là
vào ban đêm. Còn lão Chu sau những năm lao cải ở các trại tập trung, nay cũng
trở nên biết chịu đựng với gió sương, nhất là lão đang có một kế họach muốn đề
nghị để thoát thân tại vùng biển nầy, nên càng không thấy mệt mỏi khi phải leo
dốc nhiều.
Bác tiều phu luôn vui
vẻ, trông ông thật thanh thoát, trong nhịp thở như luôn có tiếng hát trên bước
chân không mệt mỏi của ông:... Khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm
phải sang cho phẳng… và ông nhớ lại ký ức của một thời: Từ nay ta sẽ lưới người
như bắt cá bắt chim.
Cả hai cùng ngồi nghỉ
trên một bãi rộng giữa khu rừng, họ uống rượu nếp than cho người ấm lên khi đêm
về khuya dưới thời tiết trở lạnh giữa rừng. Người tiều phu lại đứng lên và
giăng tiếp những mẻ lưới để đánh bắt chim, lão Chu
đặc biệt theo dõi và làm theo sự chỉ dẫn của người bạn già… Ông chăm chú
cẩn thận các góc lưới rồi cắm chúng thật chặt... Và từ tâm hồn như muốn thoát
ra thứ tiếng lòng: Ta thổi cho các ngươi nghe và các ngươi sẽ nhảy múa... tiếng
sáo của ta là tiếng lòng yêu nước và đặc biệt là âm điệu giành cho loài chim
quốc quốc.
Quả thật khi người tiều
phu thổi lên thứ âm điệu phỏng theo tự nhiên nầy, đó là tiếng kêu của loài chim
quốc quốc gọi nhau, tiếng kêu tập họp kết đoàn, khiến chúng qui tụ lại bên nhau
trong mẻ lưới của ông.
Những con quốc lần
lượt, một con, vài con và rồi từng đàn bay về bên tiếng gọi đàn, có con tung dính
vào lưới trước khi cả đàn bị sập bẫy. Thế rồi những đàn chim càng lúc đổ về
nhiều hơn, người tiều phu nói: -Thôi ta dừng. Lão Chu thầm nghĩ: Nó nhiều quá,
làm cách nào để kham cho nỗi, đàng khác lại thấy tiếc những con mồi được tha,
từ khi ở các trại tập trung trở về, ông thấy cái gì bỏ đi cũng tiếc, ông từng
bị giam giữ ở tận các vùng sâu núi cao và vào giữa tiết đông một miếng giẻ rách
cũng quí biết bao.
- Thôi ta dừng - Bác
tiều phu nói với người bạn, nhưng thật sự là một thái độ với chính mình: Ta nên
kiềm chế và phải vượt qua, phải chiến thắng được lòng tham vô đáy của con người
nơi chính mình… Ta phải biết dừng lại đúng lúc, chính yếu tố đó đã làm cho ta
tồn tại đến hôm nay. Ta đã đi trên mọi nẻo đường với nhiều bạn hữu, nhưng phần
lớn đã mãi mãi sớm đi xa vì hầu như không ai muốn dừng lại, hay có muốn dừng
lại cũng bị cái không chịu dừng, gọi là bánh xe lịch sử kéo lê đi… Nào ! Kẻ
chiến thắng thật sự phải là người tự thắng chính mình.
Người tiều phu đã
cười thích chí trong ý nghĩ của mình và không buồn gỡ hết những con mồi, ông
nhặt lên từng con và bỏ vào giỏ, những con càng vùng vẫy lại càng luống sâu vào
bẫy của ông, mỗi một con được cầm trong tay như mang lại niềm phấn chấn hơn
nữa: có một điều gì đó mà ông muốn nói với chúng, từ miệng người tiều phu thỉnh
thoảng lão Chu nghe rất rõ:... vùng vẫy, vùng vẫy... đừng có dại nghe con, chớ
có tai mà cái gì cũng nghe, chớ có nghe mà không phân biệt được tiếng nào cũng
là tiếng quốc... Yêu nước, yêu nước, đừng có dại nghe con.
Quốc trong tiếng Việt
có nghĩa là nước. Ở đây nó mang nghĩa bóng là kêu gọi lòng yêu nước và bao con
chim đã chết, sa lưới vì tiếng gọi nầy.
* *
Họ trở về, đêm đã về
khuya, cả hai đều đi qua căn chòi công an biên phòng bên bờ biển, và như thường
lệ người tiều phu biếu cho họ vài con chim quốc và các loại thú rừng khác để
nấu cháo ăn khuya. Đối với các cư dân địa phương, ông là một nhà cách mạng tuổi
cao về ẩn dật, nên không ai để ý các hành vi của ông. Họ hoàn toàn tin tưởng
vào các việc làm của ông lão là đúng với chủ trương đường lối.
Người tiều phu giới
thiệu với các anh công an biên phòng về người bạn cùng đi với ông, họ vẫn tưởng
là một nhà cách mạng khác và được mời mọc rất chân tình vào viếng nơi các đồn
bót của anh em.
Họ được mời ngồi trên
chiếc ghế gỗ giữa nhà, có một bàn nhỏ, trong căn chòi có đủ mùi pha lẫn: mùi cá
khô, thuốc lá đang phơi dọc trên vách theo từng lớp từ trên xuống, và bên trên
trần nhà đầy cá mực các loại. Phía đầu nằm của mỗi chiếc giường tre cá nhân có
đủ thứ quần áo và khăn vắt trên đầu nằm, cuối chân giường là bàn chải đánh
răng, chén bát lãnh cơm canh cá… và dưới gầm giường đầy xoong chảo, các loại
lương thực khô như khoai lang, khoai mì...
Lão Chu quan sát thật
kỹ, dù là ban đêm với chiếc đèn dầu. Ông chỉ nói lời khen: Anh em tinh thần
thật cao, dù khó khăn gian khổ vẫn cố gắng vượt qua để bảo vệ lãnh thổ, lãnh
hải. Và sau cuộc nói chuyện về hoàn cảnh gia đình, ông biết họ rất khó khăn
thật sự, cái nghèo đang đeo đuổi bọn chúng… mực khô, cá khô, thuốc lá khô kia
sẽ được tích lũy dần và gởi về gia đình.
Cả hai chào từ biệt ra
về, lão Chu nhìn lại căn chòi một lần nữa với
nhiều suy nghĩ: Ta sẽ tẩy rửa chúng bằng lửa... Các anh công an biên phòng rất
nồng hậu với họ và mong sớm gặp lại, vì ai cũng sẽ có bữa bồi dưỡng cháo quốc
về khuya.
Bác tiều phu cũng phân
phát cho những người láng giềng, ai nấy đều khen ông là người thật có tài và
đức. Ông vốn rất coi trọng công tác quần chúng, vì với ông: “Đốm lửa có thể đỏ
rừng”.
Lão Chu đã nói hết nỗi
lòng của mình với người tiều phu và họ hẹn nhau vào một ngày sẽ trở lại. Không
biết hai người bạn cố tri đã bàn với nhau những gì, song có tiếng nói rõ trầm
nhỏ đầy lạc quan của người tiều phu: - Đó là chuyện nhỏ...
Sau một thời gian ngắn,
lão Chu trở lại, với khuôn mặt của con người luôn trầm tư, thích nói nhiều khi
có mục đích, đã từng cam chịu nhiều khổ đau, đang bị quản chế, công an du kích
địa phương luôn dõi theo từng bước chân, ông có thể bị sát hại, bị giết chết,
thậm chí thủ tiêu bất cứ lúc nào.
Đêm hẹn hôm đó, họ cũng
đi săn, nhưng về muộn hơn. Các anh công an biên phòng vẫn quen chờ đợi bác tiều
phu, song quá khuya nên họ cũng có phần mệt mỏi. Như thường lệ, khi đi ngang
qua chòi của công an biên phòng, người tiều phu ném vào cho chúng vài xâu chim
quốc và ông gọi lớn thật vui: - Hãy nấu cháo mà ăn, hãy nấu cháo mà ăn rồi đi
ngay.
Tối nay cũng vậy, nhưng
người bạn già của ông đã ném thêm mẫu tàn thuốc của cả hai ông trước khi rời
xa... Đi được một khoảng xa họ nhìn lại, căn chòi đã ngún khói và ngọn lửa bắt đầu
bốc lên... gió biển hoà với gió rừng mùa khô đã đưa ngọn lửa bỗng chốc ngùn
ngụt như ngọn đuốc lớn tỏa trên vùng biển nầy.
Vào lúc đó, theo đúng
giờ hẹn, khách thăm quan vùng kinh tế mới trên một chuyến xe buýt có biểu ngữ
và cờ xí chung quanh… đã chạy từ từ trong đêm đến gần bãi đáp... Tất cả lên ghe
an toàn vì giờ đây theo sự phán đoán của lão Chu
và người tiều phu: do quá nghèo nên chúng sẽ tiếc rẻ mọi thứ mà lo chữa cháy,
cứu chòi.
Con tàu xuôi thuyền ra
biển khơi, chiếc xe buýt theo dự tính sẽ trở về, nhưng cả tài chính, tài phụ
đều có quyết định cuối cùng: ra đi luôn, nên chiếc xe bị bỏ lại nằm ụ trên bờ
phó mặc.
* *
Biển yên, gió lặng...
Con tàu lướt sóng nhanh, các thuyền nhân tin tưởng, hy vọng sẽ đến được bến bờ
nơi trời mới, đất mới đầy cảm động... nhưng trời bỗng đổ cơn dông, sấm sét... ở
cuối chân trời một màu đỏ sậm đến màu tím lạnh như màu nước biển… rồi tất cả
tối tăm.
Đã hai ngày trôi qua,
ai cũng mệt lã, họ mất tinh thần, cộng thêm vào say sóng, ói mửa, không còn ai
đủ sức để tát nước ra khỏi thuyền mỗi khi có sóng lớn ập vào thuyền và con tàu
đến lúc gần như muốn vỡ toang ra từng mảnh.
Các tài công giàu kinh
nghiệm trên tàu nầy biết rằng, nếu cứ trôi sẽ đi vào vùng biển đầy nguy hiểm
của khu vực. Họ quyết định trở vào bờ theo hướng gió nồm... Cũng bằng với thời
gian ra khơi, con tàu đã tiến vào đến gần bờ, thế là hơn một tuần lễ, khi ghe
cập vào cách bờ không xa lắm các phao cứu hộ được phân phát và lão Chu quyết
định vì sự an toàn tuyệt đối sẽ phi tang con tàu. Con tàu đã bị đập tan ra
thành từng mảnh và các thuyền nhân theo từng toán vào bờ... Ai cũng kiệt sức,
nhưng sợ bị bắt nên đều cố sức một lần cuối hầu thoát thân an toàn trở về gia
đình.
Lão Chu đã lên bờ và
thoát khỏi vùng biển nầy một cách an toàn, ông đã bắn tin cho người bạn cũ,
người tiều phu dường như đã có linh cảm về những gì sẽ xảy ra… trong cuộc đời
làm tình báo của ông, giác quan thứ sáu, nhất là bản năng sinh tồn nơi ông rất
mạnh mẽ. Ông đã tiên liệu mọi chuyện vì nguyên lý: tiến khó một mà rút khó
mười... Mỗi sự việc xảy ra ông đều nhận ra đâu là yếu tính của vấn đề, ông đã
làm được việc trả ơn cho người bạn đã từng cứu ông thoát chết mà ông nghĩ sẽ
không bao giờ trả được. Lão Chu đã từng là trưởng cảnh sát của một vùng và khi
đó công việc tình báo của người tiều phu bị bại lộ, phải vào tù... Lão Chu vì
tình bạn học ngày xưa đã cứu ông bằng cách tổ chức cho nhà cách mạng trốn trại.
Khi được tin, người
tiều phu bình tĩnh, với một túi xách nhỏ, ông vẫy tay đón chuyến xe sớm nhất,
Ông quyết định đi về miền Sơn cước. Khi mọi người trên xe vẫn còn ngái
ngủ, miệng ông như muốn thốt lên điều gì đó dù thật nhỏ: Hỏng cả rồi...
ăn cướp mà đền ơn. Ta có thể điều chỉnh được mọi thứ quanh ta và kiềm chế chính
mình, nhưng cái thứ di truyền nầy vẫn vậy - nó là thế ấy.
Rừng và biển đang lùi
dần phía sau, song như có ai theo dõi, ông cố nhìn thật kỹ: căn chòi công an
biên phòng giờ đây chỉ còn là một đống tro tàn, vài chiếc cột nhà cháy dỡ chừng
càng trở nên trơ trụi.
Biển Đông vẫn yên tĩnh,
có cơn gió lùa ban mai luồn qua cửa kính làm ông se lạnh, người tiều phu cúi
xuống lấy tay cài áo cổ, ông nhìn vào chiếc khuy, rồi nhìn vào lòng mình: phải
thật cảnh giác, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và ma quỷ cũng vậy.
Chuyến xe lao nhanh sau mỗi lần đón khách, rừng khuất dần trong ánh mắt đầy sự
luyến tiếc của người tiều phu: Từ đây ta sẽ không còn độc quyền trên khu rừng
nầy nữa.
Nguyễn Quang