Lâm Văm Bé
Sau biến cố tháng tư năm 1975, người
Việt tản mác khắp bốn phương trời. Từ tiểu bang California với hơn nửa triệu
người tị nạn cho đến tiểu bang Montana chỉ với 367 người, từ thành phố
Cabramatta với 15 000 người cho đến Nunavut chỉ với 10 người, bước chân
người Việt hiện đang in dấu trên khắp năm châu. Chỗ nào có người Việt, chỗ đó
có chùa, nhà thờ và sách báo tiếng Việt.
Nều như khi xưa, trong cuộc Nam Tiến, hai làng Minh Hương đầu tiên của người Trung hoa sớm được thiết lập ở vùng Cù Lao Phố và Cao Lãnh trong việc cộng cư với người Việt, thì hôm nay, trong cuộc « Tây tiến », những thư viện có sách tiếng Việt là địa danh những nơi quần cư của người Việt trên thế giới.
Từ những nhận định trên, bài viết
nhằm khảo sát các thư viện ngoài Việt Nam đã và đang cống hiến cho người Việt
hải ngoại những bộ sách tiếng Việt và Việt học viết bằng ngoại ngữ khả dĩ góp
phần vào nhu cầu đọc sách và nghiên cứu của người Việt. Bài viết dựa vào các số
thống kê, nhưng công việc tra cứu thống kê của hàng trăm thư viện lớn nhỏ trên
thế giới không thể thực hiện được trọn vẹn vì khuynh hướng hạn chế phổ biến thống kê của một
số thư viện và bản chất dị biệt của các thống kê bởi lẽ tùy thuộc vào phương pháp
và mục tiêu sử dụng, do đó bài viết chỉ
có thể xem như một tổng quan, một nhận diện những nơi quần cư của người Việt.
Bài viết cũng là một tài liệu được hiệu đính và cập nhật hóa một bài viết được
phổ biến cách đây 5 năm (năm 2006).
Phương pháp
sưu tầm dữ kiện
Những dữ kiện được thu thập qua hai
nguồn liệu :
1. Những tài liệu chính thức của các
giới chức thư viện cung cấp qua các điện đàm, điện thư hay trang mạng của thư
viện.
2. Đối với các thư viện mà chúng tôi không có được số thống kê chính
thức, bằng những phương pháp thư viện
học, chúng tôi truy cập các tiêu đề (notice) dựa vào họ của tác giả để ước định độ lớn và đặc tính của bộ sách. Người
Việt Nam xưa có trăm họ, nhưng sự cộng cư với
người Trung hoa, người Miên và người Chàm đã khiến người Việt Nam ngày nay mang hơn 140 họ. Việc tìm kiếm sách trên hàng trăm
thư mục với 140 tên tác giả như trên là điều khó thực hiện, do đó chúng tôi thử
tìm với 10 họ người Việt phổ biến nhứt
để kiểm nghiệm với một số thư mục xem các tác giả của 10 họ « top
ten » nầy chiếm một tỉ lệ nào trong
toàn thể bộ sách, để từ đó dùng tỉ lệ nầy ước định độ lớn của các bộ sách khác.
Sau khi tra cứu tỉ mỉ thư mục Bulac
(Bibliothèque universitaire des langues
et civilisations) ở Pháp với tiêu đề
tên tác giả, ngôn ngữ (recherche avancée) chúng tôi biết được với 10 họ : Nguyễn, Lê, Trần, Vũ, Hoàng, Phạm, Phan,
Ngô, Đặng, Hồ, thư viện Bulac có 4405
tựa sách tiếng Việt trong tổng số 8000 sách của thư viện (thống kê tháng 1/2011).
Như vậy, sách của các tác giả thuộc 10 họ «top ten» nầy chiếm khoảng 55% bộ sách của thư viện. Tiếp tục tra
cứu với phương thức advanced search (author, language) với 10 họ nầy ở Seattle
Public Library, chúng tôi có được 3106 tựa với 5590 tài liệu (sách và tài liệu
thính thị) trên toàn bộ sách là 12 150 tài liệu (thống kê cung cấp bởi Rachel
Martin ngày 25/1/201 qua điện thư), như vậy 10 họ «top ten» chiếm tỉ lệ 46%. Từ
nhận định như trên, để ước định số lượng của một bộ sách, chúng tôi áp dụng một tỉ lệ trung bình là tài liệu của các tác
giả mang 10 họ phổ biến như trên chiếm khoảng 50% toàn thể bộ sách. Nếu không
có thống kê chính thức, chúng tôi truy cập số tài liệu của 10 tác giả «top ten»
nầy rồi nhơn lên gấp đôi.
Phương pháp nầy, phương pháp duy
nhất để có thể phỏng định độ lớn của một bộ sách khi không có thống kê chính
thức và ngay khi có số thống kê chính thức cũng không nhất thiết chính xác vì
những lý do sau đây :
- Cách sắp xếp thư mục của thư viện :
nhiều thư mục kể tất cả tên các tác giả, hay ba tên (theo thể thức thư viện
học) hay chỉ tên một tác giả trong trường hợp các tác phẩm viết chung bởi nhiều tác giả.
- Mức độ sai lầm của những biên mục
viên Tây Phương (catalogueur) hay nhầm lẫn họ và tên của người Việt. Để tránh
khó khăn nầy, nhiều thư mục làm bảng dẫn mục (index) cả họ và tên cho cùng một quyển sách.
- Không thể truy cập được các quyển
sách chỉ làm biên mục theo tựa (trường hợp quá 3 tác giả, theo phương pháp làm
biên mục) hay tác giả là các bút hiệu.
Hậu quả của hai lý do đầu là gia
tăng thêm số sách thực sự có, và lý do thứ ba là làm giảm đi số sách của thư
mục. Với những nhận định trên, sai suất của những ước định số thống kê các thư
mục có thể đến 10%.
Ngoài ra, với sự bùng nổ của các hệ
thống biên mục khác biệt và sự cắt giảm ngân sách của các thư viện, việc thiết
lập những số thống kê chuyên biệt không phải là một ưu tiên của nhiều thư viện.
Một giới chức của Thư Viện Library
of Congress, thư viện lớn nhứt của thế giới đã hồi âm cho chúng tôi như sau :
« The Library of Congress is very big and complex. The Vietnamese
collections at the Library of Congress are under the juridiction of two
divisions : the Eastern Law Division and the Asian Division. Thus, to give
statistics of Vietnamese collections at the Library of Congress is an impossible
thing to do… » Và
ngày 28/1/2011, cũng một câu trả lời tương tự qua điện thư :«The Asian Division
at the LC does not keep statistics of how many books and magazines we have...» (LH
, Southeast Asia Reference Librarian)
Bài viết gồm
2 phần :
-
Phần I : Các thư viện đại học, thư
viện nghiên cứu và thư viện quốc gia
-
Phần
II : Các thư viện công cộng
Phần I
Các thư viện đại học, thư viện nghiên cứu và thư viện
quốc gia
Âu châu
Pháp
Nước Pháp có
một truyền thống liên hệ lịch sử với Việt Nam gần một thế kỷ nên các thư viện
nghiên cứu là các kho tài liệu về lịch sử và văn hóa viết bằng tiếng Pháp và tiếng
Việt. Ngoài ra, các tài liệu của hai miền Nam-Bắc trong giai đoạn 1954-1975,
các tài liệu xuất bản trong và ngoài nước sau 1975 cũng được lưu trử và phổ
biến.
1-
Thư Viện BULAC (www.bulac.fr)
BULAC là tập hợp các mẫu tự
đầu của Bibliothèque universitaire des langues et civilisations
là thư viện đại học và nghiên cứu tập
trung 22 bộ sách về ngôn ngữ và văn minh của các quốc gia không thuộc khối Tây
Phương (Đông Phương, Slave, Á Rập…) hiện đang lưu trử tại 9 đại học và trung
tâm nghiên cứu ở Paris :
-
Université de Paris I –Panthéon-Sorbonne
-
Université de Paris III – Sorbonne –Nouvelle
-
Université de Paris IV- Sorbonne
-
Université de Paris VII- Denis Diderot
-
École pratique des hautes études (EPHE)
-
École des hautes études en sciences sociales (EHESS)
-
École française d’Extrême-Orient (EFEO)
-
Institut national des langues et civilisations orientales (INALCO)
-
Centre national de la recherche scientifique (CNRS)
Thư mục Bulac (www.catalogue.bulac.fr) đã bắt đầu thành hình từ năm 2001 và hiện nay có 1 200 000
tiêu đề (notices) các tài liệu dưới đủ mọi thể loại. Độc giả có thể tìm sách trên thư mục nầy bằng internet từ tháng 6
năm 2005. Đối với ngành thư viện học, Bulac cung cấp một nguồn tài liệu quí giá
với những tiêu đề chuẩn hóa tên họ tác giả (notices d’autorité normalisées)
thuộc nhiều chủng tộc khác nhau. Bulac lại có ưu điểm khác là các tiêu đề được biên mục bằng các mẫu tự không thuộc
dạng chữ La-Tinh như chữ Á Rập, Trung hoa, Đại Hàn, Nhựt, Persan… và độc giả có
thể truy cập với các loại mẫu tự nầy (các tiêu đề được trình bày dưới dạng mẫu
tự gốc và mẫu tự La Tinh hóa)
Tháng 10 năm 2011, các bộ sách nầy
sẽ được dời về tập trung tại thư viện Bulac, một kiến trúc mới tân kỳ với kinh
phí xây cất và trang bị độ 50 triệu euros, tọa lạc ở 65, rue des Grands Moulins (Paris 13è).
Khi khai mở, Bulac sẽ là thư viện
chuyên về các ngôn ngữ và văn minh lớn nhất thế giới và sử dụng các kỹ thuật
khai thác thư viện hiện đại với 100 ngôn
ngữ (350 nếu kể cả các tử ngữ hay địa phương ngữ), 1,5 triệu sách dự trử, 225 000
sách cho độc giả tự do lựa chọn (libre accès), 22 000 tựa tạp chí, 40 hệ
thống mẫu tự.
Theo thống kê công bố, Thư viện
Bulac có 8000 sách tiếng Việt phần
lớn thuộc lãnh vực ngữ học, văn chương, sử địa. Bộ sách cũng có nhiều sách xưa
thí dụ như Dictionnaire /du Père Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651, các
sách chữ nôm, các tài liệu thời Pháp thuộc.
Thư mục BULAC là thư mục của thư
viện BULAC. Ngoài ra, Pháp còn có một
thư mục tập thể to hơn gọi là Thư mục SUDOC
(Système Universitaire de Documentation) là một thư mục gồm 9 triệu tiêu đề
tài liệu các thể loại (sách, tạp chí, luận án, tài liệu thính thị, vi
phẩm, bản đồ, âm nhạc) của các thư viện đại học và nghiên cứu, các thư viện
công cộng trên nước Pháp. Thư mục BULAC cũng nằm trong thư mục SUDOC nầy, do
đó, khi truy cập thư mục SUDOC (www.corail.sudoc.abes.fr) độc
giả có thể tìm được tài liệu trong thư viện BULAC và các thư viện khác.
Thí dụ, truy cập với họ Nguyễn,
SUDOC có 7586 tiêu đề tiếng Việt và các ngôn ngữ khác, nhưng nếu giới hạn với
tiếng Việt, SUDOC có 2807 tiêu đề và BULAC có 1757. Một cách cụ thể hơn, nếu
tìm quyển Le vietnamien fondamental
của Nguyễn Phú Phong, SUDOC cho biết có 3 nơi có quyển sách nầy : BULAC,
Paris 5- Bib.SHS Descartes, và Lyon 3- Bib.
2-
Thư viện của trường Viễn
Đông Bác cổ (www.efeo.fr)
Liên quan đến sách về Việt Nam bằng
tiếng Việt và tiếng Pháp, Thư viên Paris
III là một trong 22 thành viên của Bulac
đã lần lượt chuyển vào thư mục Bulac phần lớn bộ sách của EFEO (Trường Viễn Đông Bác cổ = École française d’Extrême -Orient)
và các sách mới xuất bản đang tồn trử tại các chi nhánh Dauphine, Clichy và Lille của Thư Viện BIULO
(Bibliothèque inter-universitaire des langues et civilisations orientales).
Ngoài các sách, BULAC còn cung ứng
danh mục 152 tựa tạp chí tiếng Việt, phần lớn xuất bản ở Hanoi, một ít ở Saigon
và hải ngoại. Các tạp chí nầy hiện lưu trử ở thư viện EFEO và hai chi nhánh
Lille, Clichy. Tuy nhiên, một số tựa không đầy đủ các số. Các độc giả hải ngoại
có thể tìm về quá khứ qua Bách Khoa (số 1, 1957- số 338,1971), Đại Học, Tập San
Sử Địa, Phô Thông, Văn hóa nguyệt San, Việt Nam khảo cổ tập san…
Theo thông tin của giám đốc Thư viện trường Viễn
Đông Bác cổ thì « bộ sách EFEO độ 5000
quyển phần lớn là sách và tạp chí. Khi thư viện Bulac hoạt động, một số
sách của EFEO sẽ chuyển về Bulac, nhưng bộ sách tiếng Việt vẫn tiếp tục lưu trử
ở Thư viện EFEO ở địa chỉ 22 Avenue Président Wilson, 75116 Paris, trong tòa nhà Maison de l’Asie» (e-mail của Cristina Cramerotti, conservatrice de
la bibliothèque de l’EFEO ngày 8/2/2011)
3-
Thư viện quốc gia Pháp (Bibliothèque
nationale de France - BNF) www.bnf.fr
Thành lập ngày 3 tháng giêng năm
1994 bởi sự sát nhập Thư viện quốc gia
và các thư viện thuộc hệ thống Bibliothèque de France, Thư viện quốc gia
Pháp hiện có độ 30 triệu tài liệu đủ
loại (chỉ riêng sách và ấn phẩm có 14 triệu trong số đó có 600 000 tài
liệu trên kệ cho độc giả tự do lựa chọn)
phân phối tại 7 địa điểm. Địa
điểm mang tên Bibliothèque Francois Mitterrand được xem như trụ sở
chính của thư viện.
Bộ sách về
Việt Nam viết bằng tiếng Việt và tiếng Pháp (một số ít Anh ngữ) được đặt ờ Thư
viện Francois Miterrand, phòng Tolbiac.
Tìm trong Catalogue général
Tìm trong thư mục tổng quát, độc giả
sẽ tìm được rất nhiều sách xuất bản dưới thời Pháp thuộc, thời Việt Nam Cộng
hòa, Việt Nam dân chủ Cộng hòa và sách xuất bản ở hải ngoại sau 1975. Nói chung
là một bộ sách khá quân bình về các khuynh hướng, các thời đại. Thư mục dễ tìm
qua Internet, các danh mục chữ Việt đọc được rõ ràng, ít có sự nhầm lẫn tên và
họ người Việt. Những tiêu đề tên tác giả có ghi chú thêm ngày sinh, ngày tử,
biên mục chính xác, đúng tầm vóc của một thư viện quốc gia. Tuy nhiên, khi tìm số
sách căn cứ vào họ tác giả, người nghiên cứu phải thận trọng giảm bớt số đơn vị
đối với một tác phẩm viết bởi nhiều tác giả vì quyển sách được dẫn mục (index) dưới tất cả các
tên.
Thí dụ : quyển Đại Nam Cuốc Sử Kí Diễn Ca / Lê Ngọc Cát, Phạm Đình Toái,
transcrit vietnamien par P.J.B. Trương Vĩnh Ký Saigon, Bản in nhà nước, 1875 được dẫn mục với ba tiêu đề mang họ Lê, Phạm
và Trương.
Người nghiên cứu văn sử thời xưa sẽ
hứng thú tìm được nhiều tài liệu xưa đã tuyệt bản.
Thí dụ trong 1757 tiêu đề tác giả họ Nguyễn, chúng ta tìm
thấy :
- Bạch Viên tôn các / Nguyễn Jules
Văn Việt, 1914
- Tàn Đường diễn nghĩa / Nguyễn An
Khương, 1906
- Kim Vân Kiều / Nguyễn Du :
pièce en trois actes par Trương Minh Ký,
1897.
Thí dụ trong 602 tiêu đề với họ
Trần, có La Thông Tảo
Bắc của Trần Phong Sắc, 1907.
Về tạp chí có nhiều tựa nguyên bộ, dưới
dạng nguyên thủy chứ không phải chụp trên vi phim. (thí dụ bộ Trung Bắc chủ nhật (1940-1945).
Tìm trong Bibliothèques numériques Gallica
Thư viện quốc gia Pháp không những
cung cấp thư mục để tìm sách lưu trử tại
các thư viện ở Pháp mà còn cung cấp một khối lượng khổng lồ tài liệu đọc được
trên trang mạng (documents numérisés). Trong Bibliothèques numériques Gallica,
BNF có hơn 1,3 triệu tài liệu, phần lớn là tiếng Pháp có thể đọc được trên màn
hình, trong đó có 206 000 sách, 797 000 tạp chí và 33 000 tài liệu
của các nhà sản xuất e-books. Thí dụ khi truy cập chữ Cochinchine, độc giả sẽ đọc
được nhiều công báo, tài liệu rất xưa như Bulletin
officiel de la Cochinchine, xuất bản từ năm 1863-1945, hay về thơ văn tiếng
pháp dưới dạng e-books thì vô số.
Thư tịch
Ngoài các sách đã có trong thư mục,
các độc giả có thể biết đầy đủ các tựa sách tồn trử ở Thư Viện Quốc Gia Pháp
bằng cách tra cứu các quyển thư tịch sau
đây tồn trử ở Salle des
catalogues et des bibliographies :
- Catalogue du fonds
vietnamien:1890-1921/réd. par Mme Le Thi Ngoc Anh. Paris: BN, 1988
-Catalogue du fonds vietnamien: livres
vietnamiens imprimés en quoc ngu 1922-1954. Paris :BN,1991(microfiches)
-
Inventaire des livres imprimés vietnamiens, 1969-1979. Paris : BN,
1987
- Catalogue des périodiques
vietnamiens de la
Bibliothèque nationale / par Jean-Claude Poitelon et Nguyen
Tat Dac. Paris : BN, 1993 (15 microfiches)
Bộ sách
Theo điện thư trả lời của nhân viên
thẩm quyền của Thư viện thì : «bộ
sách tiếng Việt của BnF là một trong những bộ sách phong phú nhất ở Âu châu và
là một trong những lãnh vực ưu thế của thư viện. Phòng Tài liệu viết tay
(département des manuscrits) lưu trử 245 tài liệu. Bộ ấn phẩm gồm khoảng 38 000 quyển sách và 126 tựa tạp chí,
ngoài ra phải kể đến bộ sách nộp bản (dépôt légal) gồm các ấn phẩm thời Đông
Dương (fonds «indochinois») từ 1922 đến 1954 dưới dạng vi phẩm. Tuy nhiên, độc
giả không thể tìm được tất cả các tài liệu qua thư mục. Mỗi năm, bộ sách gia
tăng thêm độ 550 quyển » (Isabelle de Cours, điện thư 8/2/2011)
4-
Centre d’information et
de documentation sur le Vietnam contemporain (CID) . Điạ chỉ : 19 bis, rue Albert, 75013 Paris (www.cidvietnam.org)
Như tên gọi, CID vừa là một thư viện vừa là một cơ quan thông
tin cung cấp các tài liệu tin tức về nước Việt Nam hiện nay. Thư viện có 6000
sách tiếng Việt (2/3 bộ sách), tiếng Pháp và một số ít tiếng Anh.
Trong vòng 20 năm nay kể từ lúc thành lập, CID nhận tặng dữ của Thư viện quốc
gia VN (HàNội), các nhà xuất bản VN và các tác giả VN. Một cách tổng quát, CID
là một thư viện của Việt Nam hiện nay ở đất Pháp. Giám đốc của thư viện nầy là Alain
Ruscio, một sử gia thiên Cộng. Ông đã viết hay sưu tập nhiều tài liệu về Hồ Chí
Minh mà quyển mới nhất (2007) là : Le
procès de la colonisation francaise et autres textes de Hồ Chí Minh.
5-
Maison Asie-Pacifique
(MAP)– Université de Provence (Marseille)
Bộ sưu tập Đông Nam Á thuộc thư viện
Maison Asie-Pacifique (MAP) được thành lập năm 1994 ở Université de Provence.
Đến năm 1999, MAP được chuyển về Marseille, đặt dưới quyển quản trị của
Université de Provence, trung tâm nghiên cứu quốc gia CNRS và École des hautes
études en sciences sociales. Trong số 120 000 tài liệu của MAP, bộ sách
tiếng Việt độ 6 000 quyển, đa
số là
sách xuất bản ở Việt Nam sau 1975.
6-
Institut d’Asie Orientale
(IAO) (Lyon)
Cùng hợp với MAP, Viện IAO là một trung tâm nghiên cứu về Đông Nam Á ở
ngoài Paris. Trung tâm có 30 000 sách và 350 tạp chí chuyên về xã hội và
nhân văn về ba quốc gia Trung Quốc, Nhật và Việt Nam (thêm một ít về Đại Hàn).
Sách tiếng Việt và sách về Việt Nam độ 7000 (2/3 là tiếng Việt và phát triển nhiều
những năm gần đây).
7-
Centre des archives
d’Outre-mer –CAOM (Aix-en Provence)
Thành lập năm 1966, Văn Khố CAOM (www.archivesnationales.culture.gouv.fr/caom/fr)
tàng trử 37 km
chiều dài các tài liệu, 60 000 bản đồ, 150 000 hình ảnh và 100 000 quyển sách và 2600
tạp chí thuộc các cơ quan chánh phủ Pháp
đã quản trị các thuộc địa từ thế kỷ 17
đến thế kỷ 20 và các văn khố của các thuộc địa chuyển về Pháp sau khi
các nước nầy độc lập.
Riêng về Việt Nam, Văn khố CAOM tàng
trử các tài liệu sau đây :
- văn khố các đô đốc và các toàn
quyền Đông Dương (1858-1945)
- văn khố Cao Ủy Pháp ở Saigon
(1946-1954)
- văn khố bộ tham mưu quân sự Đông
Dương (1880-1899)
- văn khố chánh quyền bảo hộ ở Bắc
Kỳ(1874-1945) và ở Trung Kỳ
(1875-1942)
(riêng chánh quyền bảo hộ ở Nam Kỳ
còn để lại ở Saigon sau khi người Pháp ra đi năm 1954)
Từ năm 2002, một số tài liệu và hình
ảnh xưa có thể truy cập qua Internet hay có thể gởi thơ để tìm tài liệu, xin
hay mua bản sao các tài liệu.
8-
Các trung tâm nghiên cứu
khác có sách tiếng Việt Sách tiếng Việt hay tiếng Pháp về Việt Nam là những sách chuyên
đề về lịch sử, văn hóa ,thường phải đọc tại chỗ.
- Société asiatique (52, rue du Cardinal Lemoine, Paris) là thư viện
tư, thành lập từ năm 1822, thuộc Collège
de France. Bộ sưu tập của thư viện gồm
100 000 sách, 1800 tựa tạp chí, phần lớn trước 1945 (vì thư viện
không có mua thêm sách chỉ nhận những tặng dữ
của các cá nhân hay các thư viện quốc gia như trường hợp bộ sách tiếng
Việt).Tuy nhiên, bộ sách tiếng Việt có nhiều tài liệu quý hay bản duy nhất còn
tồn tại.
- Bibliothèque asiatique des missions étrangères ( 28, rue de
Babylone Paris 75231) trong số bộ sưu tập độ 20 000 sách và 100 tạp
chí thuộc các phái đoàn truyền giáo từ thế kỷ 17 đến nay, bộ sách tiếng Việt có
800 quyển, một phần là chữ Nôm.
Anh
1- Thư viện quốc gia (British Library) (www.bl.uk)
Thư viện
quốc gia Anh Quốc hiện có một bộ sách tiếng Việt khá quan trọng gồm 10 000 quyển và 290 tựa tạp chí và
nhật báo, đặc biệt có 5 tài liệu xưa chép tay và nguyên bản bằng Hán Nôm. Năm tài liệu quý nầy là:
-Truyện Kiều
viết theo chữ hán-nôm thực hiện năm 1894, trên mỗi trang có hình vẻ minh họa
cốt chuyện diễn tả qua các câu thơ, bìa có mạ vàng.
- Hai sắc
chỉ của vua ban cho Lord Macartney năm 1793.
- Bộ sách 10
quyển bằng chữ nôm gồm 46 vở kịch và 3 tiểu thuyết.
- Bộ Annam
Chí Lược bằng chữ Hán xuất hiện khoảng thế kỷ 18
- Bộ du ký
của sứ thần của vua Tự Đức mô tả cảnh vật, đường sá, sông ngòi, núi non, thành
quách từ Hà Thành đến Bắc Kinh trong cuộc công du vào năm 1880.
Ngoài ra có
bộ Đại Nam Nhất Thống Chí bằng Hán–nôm
in tại Huế năm 1909 với bản đồ khắc trên gổ, quyển tự điển Việt-Bồ Đào Nha
(Dictionarium Annammiticum Lusitanum et
Latinum in tại Rome năm 1651. Thư viện British Library cũng còn lưu giữ độ 80
tài liệu quý ấn hành bởi Société des missions étrangères ở Hong
Kong.
Về bộ sách 10 000
quyển và bộ tạp chí 290 tựa nầy, phần lớn là tài liệu xuất bản bởi miền Bắc từ
1954 đến 1975 do các chương trình trao
đổi ấn phẩm giữa thư viện quốc gia Hà Nội và Luân Đôn và sau 1975 từ các nhà
xuất bản ờ VN ( e-mail 14/2/2011 của Sud
Chonchirdsin , curator of Vietnamese collection)
Thư viện có
đầy đủ bộ Công Báo của chánh phủ Hà Nội từ 1936 và toàn bộ Văn Kiện Đảng Cộng
Sản từ năm 1924.
Ngay cho các
sách báo xuất bản sau năm 1975, sách báo Cộng Sản chiếm gần như toàn diện. Thí
dụ tra cứu các sách với họ Trần, trong số 257 tựa chỉ có 7 tựa các tác giả ở
hải ngoại, nhưng sách của tác giả trong nước thì có nhiều sách mới xuất bản.
Thí dụ Nguyễn đắc Xuân có 2 tựa trong đó có quyển 700 năm Thuận Hóa, Phú Xuân vừa mới xuất bản năm 2009. Cũng giống
như Trung Tâm CID của Pháp, bộ sách tiếng Việt của Thư Viện Quốc Gia Anh Quốc
được xem như một bộ phận của thư viện quốc
gia VN Cộng Sản.
Xu thế chính
trị thiên Cộng của British Library đã biểu hiện rõ rệt trong việc chọn sách và
cách ghi chú trong biên mục. Khi tìm danh sách tạp chí và nhật báo với tiêu đề Hand lists of the Vietnamese periodicals, chúng
tôi nhận thấy trong số 293 tựa có độ 30 tựa xuất bản thời VNCH và hải ngoại,
nhiều tựa xuất bản ở hải ngoại có ghi chú thích: anti-communist
Muốn tìm bộ
sách tiếng Việt đã được nhập vào thư viện trước 2005, độc giả phải tìm với thẻ
thư viện ở phòng đọc sách Asian and African
Studies Reading Room. Các sách được mua sau năm 2005 có thể tìm trên trang
mạng với Integrated Catalogue (chúng tôi đếm với 10 họ «top ten» có 2460 tiêu đề).
Thư viện
cũng có nhiều tài liệu về địa lý, bản đồ bằng tiếng Việt và tiếng Anh, có thể
tìm với copac.webcatalogue.
2- Thư viện đại học
-Thư viện School of Oriental and African Sudies (SOAS)
(www.soas.ac.uk/library/)
thuộc University of London có một bộ sách tiếng Việt độ 10 000 quyển trong đó phân nửa
bằng tiếng Việt và phân nửa bằng tiếng Anh và tiếng Pháp viết về Việt Nam. Bộ
sách phát triển một phần qua chương trình trao đổi với Thư Viện Quốc Gia Hà
Nội, một phần qua hai nhà phát hành độc quyền cho các thư viện hải ngoại là
Xunhasaba (Hà Nội) và Fahasa (Saigon) (Nguồn liệu : Nicholas Martland, thư
viện trưởng của SOAS)
-Thư viện Brynmor Jones Library thuộc University of Hull cũng có một bộ sách
tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp viết về VN độ 1000 quyển, gần như tất cả là
sách xuất bản ở VN sau 1975 (có đến 45 tựa sách về Hồ Chí Minh).Nhưng theo
trang nhà của thư viện, thì bộ sách nầy là « the best collection of South
East Asia Studies in Britain ouside of London. » Dĩ nhiên, các tài liệu
của thời VNCH trước đây và ở hải ngoại
rất hiếm.
Đức
1- Thư viện Asie-Afrika Institut thuộc
đại học Hamburg (www. kataloge.uni- hamburg.de)
có một bộ
sách tham khảo và tiểu thuyết độ 4000
quyển. Truy cập trong Campus Katalog Hamburg (recherche avancée :
Erweiterte Suche) có 2164 tựa đề của 10 họ VN phổ biến. Tiểu thuyết xưa in lại
cũng nhiều như Hồ Biểu Chánh có 35 tựa, Bình Nguyên Lộc có 18 tựa, kể cả các
tác giả ăn khách hiện nay như Nguyễn Ngọc Tư cũng có 4 tựa.
2- Thư viện đại học Berlin
(www.sbb.spk-berlin.de)cũng có bộ
sách tham khảovà tiểu thuyết độ 5000 quyển.
Hoa
Kỳ
1- Thư viện quốc gia Hoa Kỳ (Library of Congress) www.loc.gov
Là thư viện
lớn nhất thế giới với 29 triệu sách, 75 triệu tài liệu dưới các dạng khác nhau bằng 460 ngôn ngữ, 850 km chiều dài các kệ sách
.
Thư viện
quốc gia Hoa Kỳ
cũng như phần lớn các thư viện đại học ở Mỹ thường bố trí bộ sách tiếng Việt
trong Thư Mục Đông Nam Á (Southeast Asia Collections) gồm nhiều
quốc gia như Việt, Miên, Lào, Mả Lai, Thái Lan… Nhân viên hữu trách của Thư Mục
nầy cho biết bộ sách gồm 174 969
quyển và 11 198 ấn phẩm liên tục
(serials), nhưng không thể phân định
riêng biệt cho số sách tiếng Việt, ngoại trừ danh sách 37 nhật báo hiện
hành và 63 nhật báo xưa trên vi phẩm (microform)
Bằng phương
pháp sưu tập theo tên tác tác giả và ngôn ngữ, chúng tôi tìm được 19 100
tiêu dề với 10 họ phổ biến, nhưng khi giới hạn với ngôn ngữ tiếng Việt, chúng
tôi tìm thấy 15 390 tiêu đề. Từ những con số tìm trên thư mục như trên,
chúng tôi phỏng định bộ sách tiếng Việt ở Library of Congress độ 30 000
tài liệu, nhưng nếu kể thêm sách ngoại ngữ viết về VN của các tác giả người
Việt thì khoảng 38 000 tài liệu.
Trong số
6801 tiêu đề tựa sách kể cả tiếng Pháp và tiếng Anh mang họ Nguyễn, Thư viện có
nhiều ấn bản xưa thí dụ như :
- Nguyễn Đình Chiểu. Lục Vân Tiên ca
diễn / traduction par Abel des Michels, 1883.
- Nguyễn Du. Kim Vân Kiều tân truyện
/ publié et traduit pour la première fois par Abel des Michels, 1884.
Vì lẽ trong thời chiến tranh Việt
Nam (1945-1975) thư viện ít có liên hệ với Saigon hơn là với Hà Nội, do đó, tài
liệu của VNCH và ngay cho sách báo xuất bản ở hải ngoại sau 1975 cũng rất ít
tại thư viện nầy. Thí dụ như trong số 5401 tài liệu tiếng Việt mang họ Nguyễn, số tài liệu xuất
bản ở miền Bắc trước 1975 và Việt Nam sau 1975 là 5106 tài liệu, như vậy số tài
liệu xuất bản thời VNCH và hải ngoại chỉ có 295 tài liệu, chỉ chiếm tỷ lệ là
5%.
Hiện tượng sách vở báo chí tiếng
Việt ở Miền Nam ít thấy trong Thư viện Quốc Gia cũng như hầu hết các thư viện
đại học ở Mỹ còn bắt nguồn từ một lý do căn bản
là ngay từ năm 1962, Jakarta Field Office đã đặc trách chọn trước và cung cấp sách Á
Châu cho các thư viện ở Mỹ và thông lệ nầy vẫn tiếp tục cho đến hôm nay. Bản
chất của các bộ sách tiếng Việt do đó tùy thuộc hoàn toàn vào mức độ am tường
văn hóa và địa chính trị của người chọn sách.
Để giải quyết phần nào sự khan hiếm
sách báo của Miền Nam, thư viện vừa nhận được sự chuyển nhượng một lô sách của
giáo sư NVT, nguyên khoa trưởng Đại Học Văn Khoa Saigon mà theo lời của nhân
viên thẩm quyền «… this is to fill in the gap of books, which the
Library of Congress could not buy during the Vietnam War ». Thư
viện cũng đang hợp tác với Viện Hán Nôm Hà Nội để in lại 600 tác phẩm.
Thư viện có
xuất bản hai thư mục liệt kê tài liệu tiếng Việt, nhưng không được cập nhật hóa:
-Vietnamese
holdings in the Library of Congress : a bibliography, published in 1982, 236 p.
(list of monographs, periodicals titles and
newspapers in Vietnamese language)
-In 1987, it
was updated and was re-titled: Vietnamese holdings in the LC. Supplement
1979-1985
2- Cornell University Library (Ithaca,
New York) www.library.cornell.edu
Thư viện
Cornell, một trong mười thư viện đại học lớn nhất của Hoa Kỳ có một bộ sách tiếng Việt quan trọng nhất ngoài Việt Nam.
Sách tiếng
Việt được bố trí ở Kroch Library. Những
tài liệu ít lưu hành được lưu trử ở Annex Library.
Thư mục gồm
các ấn phẩm thật xưa, loại tài liệu hiếm, thời Pháp thuộc, thời chiến tranh
Việt Nam.
Tại Kroch
Library Asia, độc giả có thể đọc được :
- Phép giảng
8 ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội / Alexandre de Rhodes soạn năm 1651
- HoàngViệt
thi văn tuyển / Bùi Huy Bích, 1825.
- Annam vũ
công / Nguyễn Trải, 1435. Microfilm of the original in the EFEO.
- Vũ Trung
tùy bút / Phạm Đình Hổ, 1790.Microfilm of the original in the EFEO
Điểm đặc
biệt, Cornell có khá đầy đủ sách báo thời Việt Nam Cộng Hòa và các ấn phẩm công
(publications officielles) là những tài liệu về chánh sách, công tác của các phủ
bộ của chánh phủ từ 1955 đến 1975. Ngoài ra, độc giả sẽ vô cùng ngạc nhiên tìm
đọc được những đặc san Xuân của các trường đại học, trung học, thậm chí cả
những trường trung học nhỏ như Cần Giuộc, Kiến Phong, tư thục Bồ Đề. Cornell đã
và đang thực hiện chuyển sang vi phim (microfilm) hàng trăm tạp chí và tài liệu
về chiến tranh Việt Nam xuất bản ở Miền Nam. Đây là một kho tài liệu quan trọng
cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu Việt Nam cả hai miền. Những năm gần đây,
Cornell phát triển ngoài sách nghiên cứu còn có thêm nhiều tiểu thuyết, hồi ký,
sách cho độc giả quần chúng.
Theo điện thư
trả lời của Gregory Green, giám đốc Kroch Library ngày 17/2/2011, thì «bộ sưu tập
về VN (tiếng Việt và ngoại ngữ) có 72 099
tài liệu gồm 60 607 sách, 8210 ấn phẩm liên tục (serials), 2263 tài liệu
thính thị, 526 tài liệu âm nhạc, 378 thu băng nhạc, 95 bản đồ,19 tài liệu vi
phim. Ngoài ra còn một số tài liệu khác mà chúng tôi không thể kiểm kê hết được
bởi lối biên mục khác nhau »
3- Harvard-Yenching Library www.hcl.harvard.edu/libraries/harvard-yenching
Sau Cornell,
Harvard-Yenching (Cambridge, MA) là thư viện đại học thứ hai có bộ sách tiếng
Việt quan trọng. Bộ sách tiếng Việt dồi dào về các khoa nhân văn và xã hội, đặc
biệt về lich sử. Các nhà nghiên cứu sử Việt sẽ tìm đọc được nguyên bộ tài liệu
về triều Nguyễn dưới dạng vi phẩm.
Ngoài một số
sách báo xuất bản thời Pháp thuộc, đa số tài liệu đều xuất bản ở Hà Nội ngay
trong giai đoạn trước 1975. Những vi phẩm của vài tạp chí xưa có thể tìm đọc ở
đây như :
- Nam
Phong tạp chí : no.1 (juillet 1917)- no.208 (nov. 1934)
- Lục Tỉnh
Tân Văn : no 1(avril 1910) – no. 70 ( sept. 1944) không
đủ các số
- Gia Định
báo : no. 1-2(1865)- 1897 (thiếu
vài năm)
Ngoài giá
trị của bộ sách, cách sắp xếp thư mục rất rõ ràng, biên mục đầy đủ, dễ truy
cập.
Theo thống
kê 1997 « bộ sách tiếng Việt bắt đầu được thành lập từ năm 1973 và đến
1997 có hơn 10 000 quyển » (Harvard University Gazette, Dec.11, 1997).
Năm 2007,
trong số 1 triệu sách của thư viện Yenching, sách tiếng Việt có 15 000 quyển (sách tiếng Tàu và
tiếng Nhật nhiều nhất : 659 000 tiếng Tàu và 296 000 tiếng
Nhật). Ngoài ra, tài liệu tiếng Việt còn tìm thấy ở các thư viện Harvard Law
School, Fine Arts, và Harvard Map Collection.
4- University of California, Berkeley
Libraries (UCB)
Southeast Asia Collections (www.library.ohiou-edu/sea/catalogs.html) là một
trong những bộ sách về Đông Nam Á quan
trọng sau Cornell và Harvard-Yenching gồm 400 000 quyển . Sách về Việt
Nam, bao gồm các lãnh vực từ triết học đến văn chương, từ chính trị đến kinh
tế, xã hội, viết bằng tiếng Việt, Anh, Pháp có thể tìm được ở thư viện Gardner
Main Stacks và Northern Regional Library Facility.
Đặc biệt Indochina Center được thành lập và phát
triển bởi Douglas Pike, là một trong những trung tâm lớn nhất thế giới tập
trung các tài liệu về Đông Dương, phần lớn bằng tiếng Anh, gồm các tài liệu
chính thức của các chánh phủ, đoàn thể, báo chí, và tư nhân được xếp theo hồ sơ
đặc biệt và chủ đề. Trung tâm còn lưu trử đầy đủ các tạp chí xuất bản sau 1975
(86 tựa bằng tiếng Việt, Anh, Pháp). Chiều dài của các kệ sách, tủ tài liệu đến
525 feet
Độc giả
nghiên cứu về Việt Nam (hai miền Nam Bắc) có thể tham khảo các hồ sơ và chủ
đề : lịch sử, kinh tế (mọi lãnh vực từ canh nông đến kỹ nghệ, tổ chức tài
chánh…), quân sự, giáo dục, ngoại giao, quốc hội, chính trị, đảng phái,
Saigon-Hanoi và các thành phố lớn. Hai cuộc di cư 1954 và 1975 cũng có dồi dào
bài viết và hình ảnh. Từ năm 1999, một phần bộ tài liệu về chiến tranh Việt Nam
dưới dạng vi phẩm đã được di chuyển về Texas Tech University, trong Vietnam Project gồm Vietnam Center và
Vietnam Archive là trung tâm tàng trử các tài liệu về chiến tranh Việt Nam viết
bằng tiếng Anh.
Indochina Center hợp với Vietnam Project được xem như trung tâm tài liệu
lớn nhất về chiến tranh Việt Nam. Hiện nay, Indochina Center
trực thuộc Center for Southeast Asia
Studies.
Trong lãnh
vực nghiên cứu Việt học, năm 2006, Center for Southeast Asian Studies và
University California Press đã xuất bản một chuyên san tựa là Journal
of Vietnamese Studies.
Ngoài ra,
trong bộ Southeast Asia Microform Collections có nhiều tựa các tạp chí tiếng
Việt xuất bản trong khoảng thời gian 1920-1945 (thí dụ La tribune indochinoise,
Hà Thành thời báo, Đuốc Nhà Nam, Phong hóa…)
5- University of California, Irvine
Libraries (UCI)
Southeast Asian Archive của UC Irvine Libraries (http://seaa.lib.uci.edu) được thành lập năm
1987 với mục đích chính là ghi nhận tài liệu về số dân Đông Nam Á sống tại quận Cam. Những tài liệu
đầu tiên đến từ các nhà hảo tâm ở California, các nơi khác trên đất Hoa Kỳ, và từ hải ngoại « …Sứ
mệnh của Văn Khố là bảo tồn và ghi nhận đời sống xã hội, văn hóa, tôn giáo,
chính trị và kinh tế của người Mỹ gốc Đông Nam Á, khởi đầu từ sự ra đi khỏi
vùng Đông Nam Á trong năm 1975 và tiếp tục trong tương lai với sự mở mang không
ngừng của những cộng đồng mới…» (tài liệu của Văn khố trên trang Web).
Riêng về bộ
sách tiếng Việt và tiêng Anh viết về VN , vào đầu năm 2011 có độ 2350 tựa sách,
4000 quyển, 200 tựa ấn phẩm liên tục, 158 tài liệu
thính thị. Ngoài ra, Irvine có 33 tủ hồ sơ (dài 390 feet) gồm các tài liệu
đa dạng linh tinh : diễn văn, thuyết trình, báo cáo, bài báo về các chủ đề
chuyên biệt (Nguồn liệu :e-mail Anne Frank 2007, Christina Woo, 2/2011). Bộ
sách nầy đặt tại LangSon Library.
Ngoài ra,
trong sưu tập SEAAdoc (Documenting the
Southeast Asian American Experience)
http://seaadoc.lib.uci.edulưu trử hình
ảnh và tài liệu cuộc lập cư của người Việt, Miên, Lào tại California và trên
đất Mỹ.
Nói tóm lại,
thư viện nầy vừa là một thư viện nghiên cứu, vừa là một văn khố tàng trử tài
liệu lịch sử của cuộc định cư của người Đông
Nam Á tại vùng California , nước Mỹ và một phần nào của cả thế giới
6- University of California, Los
Angeles (UCLA)
Truy cập với
10 họ phổ biến trong Southeast Asian Collection (www.catalog.library.ucla.edu) có
3012 tiêu đề tài liệu tiếng Việt. Bộ sưu tập độ 5000 sách tiếng Việt của Thư viện UCLA rất dễ tìm qua thư mục vì
các chữ Việt có dấu rõ ràng, phân biệt loại tài liệu (sách, tài liệu thính
thị). Sách tiếng Việt được lưu trử ở Young
Research Library và Southern Regional Library Facility.
UCLA cũng có
một Center for Southeast Asian Studies
được thành lập năm 1999 để hổ trợ việc nghiên cứu và giảng dạy văn hóa và lịch
sử Đông Nam Á.
7- Stanford University (California)
Vietnamese
Subject Collection 1950-1990 gồm các tài liệu dồi dào về chiến tranh Việt Nam,
các vấn đề ngoại giao và chính trị của ba chánh phủ Việt-Mỹ-Pháp viết bằng
tiếng Việt và tiếng Anh, đặc biệt bộ sưu tập các tài liệu, thư từ của sinh viên
Việt Nam ở Đông Đức (viết bằng tiếng Đức).
Các tài liệu
nầy lưu trử ở Hoover Institution
Archives. (www.hoover.org/hila/collections/19188049.html)
8- University of Michigan
Là
một trong «top ten» thư viện đại học Hoa Kỳ, Thư viện Michigan có một bộ sách
quan trọng độ 15 000 quyển về
tiếng Việt và ngoại ngữ viết về Việt Nam. Truy cập với họ Nguyễn, thư viện có
4096 tựa nhưng nếu giới hạn với ngôn ngữ Việt Nam, thư viện có 3178 tựa tiếng
Việt mà đa số là sách xuất bản ở VN
(2793), kế đó là Hoa Kỳ (243). Bộ sách được lưu trử chính yếu ở hai thư viện là
Hatcher Graduate và Buhr Shelving Facility. Đây là bộ sách có thể tìm được nhiều
tác giả xuất bản thời VNCH, thí dụ sách của Nguyễn Hiến Lê (19 tựa), Nguyễn Thị
Hoàng (19), Nguyễn Văn Trung (11).Nguyễn Thụy Long (11), Nguyễn Văn Sâm (cả 4 tựa
đã xuất bản). Riêng Nguyễn Du có 45 tựa xuất bản tại nhiều nơi và nhiều thời kỳ.
9- Yale University Library- Southeast Asia
Collection
Ngoài bộ
sách tiếng Việt khá quan trọng độ 15 000
quyển được lưu trử ở Sterling
Memorial Library, (www.library.yale.edu/rsc/sml/),
trực thuộc thư viện còn có Council on
Southeast Asia Studies là một trung
tâm giảng dạy và nghiên cứu các bộ môn văn hóa, lịch sử, địa lý, nhân chủng,
chính trị, về các quốc gia Đông Nam Á.
Riêng về Việt Nam, dưới quyền điều khiển của Giáo sư Huỳnh Sanh Thông, Trung
tâm đã xuất bản hai bộ sách nghiên cứu song ngữ Anh , Việt tựa là Lạc
Việt và Vietnam Forum.
10- Ohio University- Southeast Asia
Collection
Ngoài bộ
sách tiếng Việt và tiếng Anh độ 3 000
quyển, Thư Viện Ohio (www.library.ohiou.edu/sea)
có một bộ vi phim quan trọng về chiến tranh Việt Nam và Đông Nam Á. Bộ vi phim
nầy gồm có :
- John M.
Echols Collection : là bộ sách tiếng Việt của Thư Viện Cornell vể giai
đoạn Mỹ tham chiến ở Việt Nam
- Hồ sơ mật
về Đông Dương mang mã số 59 liên quan đến bang giao giữa Mỹ và các nước Đông
Nam Á từ năm 1945 đến năm 1959 gồm hơn 100
bobines.
- Hồ sơ của
CIA về Việt Nam và Đông Nam Á từ 1946 đến 1976
- Hồ sơ về
quân đội Mỹ ở Việt Nam, 1946-1976
- Tài
liệu của tướng Westmoreland hơn
10 000 trang
11- Các thư viện đại học khác
Ngoài ra,
dưới tiêu đề Southeast Asia Collection một số đại học khác cũng có một bộ sách tiếng
Việt và sách tiếng Anh viết về Việt Nam. Các bộ sách nầy còn dung để hổ trợ các
chương trình giảng dạy về Việt học và tiếng Việt tại các đại học nầy.
Theo thông
tin của các giới chức thư viện hay truy cập trên thư mục, các bộ sách nầy có số
thống kê như sau :
- University of Washington (Suzzallo/Allen
Stacks Library),
- University of Hawaï-Manoa (Hamilton Library): độ
10 000 tài liệu (sách, báo, tài liệu thính thị)
- Arizona State University (Hayden
Library)
- University of Wisconsin-Madison (Memorial
Library) : độ 5 000 tài liệu
- Northern Illinois University (NIU-Southeast
Asia Collection) có 6000 tài liệu về VN
trong đó có 1700 tài liệu tiếng Việt (re:Hao Phan, e-mail 9/2/2011)
-University
of Oregon : (Knight Library) : độ 3 000
- University of California, Riverside :
độ 1000 tài liệu.
12-
Viện
Việt Học (California)
Viện Việt
Học (Institute of Vietnamese Studies) (www.viethoc.org) là một trung tâm nghiên
cứu, quảng bá và giảng dạy ngôn ngữ, văn học, văn hóa, lịch sử, địa lý Việt Nam
cho người Việt ở hải ngoại. Viện Việt Học có một thư viện gồm nhiều
tài liệu, sách, tạp chí nghiên cứu về lịch sử, địa lý, văn học, ngữ học, giáo
dục và văn minh Việt Nam cũng như tài liệu lịch sử về sự hình thành và phát
triển của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại. Vào tháng 2
năm 2011, Thư viện Viện Việt Học có 2320 tựa với 2720 quyển sách, chưa kể các sách tặng đang chờ làm biên mục trong
đó có bộ sách của GS Tôn Thất Thiện gồm 800 quyển (điện thư PTLH, Viện Việt Học
ngày 09/02/2011)
Á Châu
Nhật Bản
Thư viện Quốc Gia Nhật Bản (National Diet Library) ở Tokyo www.ndl.go.jp
có một bộ sách chuyên biệt về Á Châu gồm 260 000 quyển , nhưng phần lớn là
tiếng Trung hoa (230 000 quyển). Bộ sách tiếng Việt có 2900
quyển. Riêng về ấn phẩm liên tục, Thư viện có 133 tựa tạp chí, 18 tựa niên
giám và 16 tựa nhật báo, tất cả đều xuất bản từ Việt Nam Cộng Sản (thống kê tháng
12/2008)
Singapore
Institute of Southeast Asian Studies Library (ISEAS) www.iseas.edu.sg
thành lập
năm 1968 là một trung tâm nghiên cứu về Đông Nam Á có bộ sách 574 000 tài
liệu gồm các thể loại và các ngôn ngữ. Trong số 180 603 tựa sách thuộc vùng
Đông Nam Á, bộ sách tiếng Việt có 14 639 tựa (thống kê tháng ba 2010).Bộ
sưu tập nầy có nhiều sách thời Việt Nam Cộng Hòa.
Úc Châu
1- Thư Viện Quốc Gia (National Library
of Australia) www.nla.gov.au
Điều ngạc
nhiên thích thú là Thư viện quốc gia Úc có một bộ sách tiếng Việt khá quan
trọng gồm 4000 sách và 200 ấn phẩm
liên tục, ngoài các tựa xưa dưới hình thức vi phim, trong đó có 10 nhật báo và
tạp chí xuất bản hiện nay ở Việt Nam (e-mail Amelia McKenzie, Director Asian
Collections,11/2/2011). Trong thời gian chiến tranh Việt Nam (1954-1975), Thư
viện quốc gia nhận được sách báo của hai miền Nam Bắc, nhưng đa số bộ sưu tập
của thư viện là tặng phẩm của Thư viện Quốc Gia và Viện Xã Hội ở Hà Nội. Hiện
nay, Thư viện phát triển bộ sách chính yếu là tài liệu cận đại về chính trị,
lịch sử, văn hóa viết bằng tiếng Việt, Pháp và Anh, không kể các tài liệu tiếng
Việt xuất bản tại Úc theo qui chế nộp bản .
Giá trị của
bộ sách là bộ sưu tập của George Coedes (1866-1970), nguyên là Giám Đốc trường
Viễn Đông Bác Cổ. Năm 1970, Thư viện Quốc Gia Úc đã mua toàn bộ tủ sách 6000
tài liệu của Coedes với giá 72 000 Úc kim gồm sách, báo, bản đồ và các bản
văn chép tay (manuscrit) viết về Đông Dương trước 1945, và những sách hiếm từ
thế kỷ 19..Độc giả nghiên cứu về thời kỳ Pháp thuộc cũng có thể đọc được độ 500
chuyên khảo (monograph) về thời Đông Pháp và của trường Viễn Đông Bác Cổ.
2- Các đại học, phân khoa Asian Studies cũng có bộ sách tiếng Việt (đa số sách từ
Việt Nam sau 1975)
và sách
nghiên cứu về Việt Nam viết bằng Anh ngữ tại Đại học Australian National University (Canberra, ACT) có độ 10 000 tài liệu và Monash University ( Matheson Library)có
độ 2000.
Phần 2 . Các Thư Viện Công Cộng
Hoa
Kỳ
Với hơn một triệu người Việt tản mác
khắp 50 tiểu bang Hoa Kỳ,
sách tiếng Việt được các thư viện các
thành phố (city public libraries) hay các quận (county public libraries) phát
triển để phục vụ cộng đồng người Việt.
California
California là tiểu bang có sách
tiếng Việt nhiều nhất ngoài Việt Nam. Trong số 167 thư viện trung ương, 646 chi
nhánh, 310 thư viện nhỏ (library stations) và 63 trạm thư viện (mobile
libraries), California có hơn 100 thư
viện công cộng có sách tiếng Việt.
Các thư viện
có sách tiếng Việt được tập trung trong 4 khu vực : khu Los Angeles-Orange
Counties, khu Greater Bay, khu Sacramento- Mother Lode và khu San Diego-
Imperial Counties. Số sách tiếng Việt chỉ có tính cách tượng trưng ở bốn khu :
Riverside-San Bernardino-Inyo Counties; Monterey Bay; North Bay &Wine
County; và Central Valley. Hai khu còn lại San Luis Obispo-Santa
Barbara-Ventura và North State gần như không có.
Vì lẽ không có thống kê chính thức
cho từng khu vực, chúng tôi áp dụng phương pháp truy cập 10 họ quan trọng như
trên trong thư mục của California Public Library (www.publiclibraries.com/california.htm)
để ước định bộ sách tiếng Việt.
Kết quả cho thấy bộ sách tiếng Việt
gồm sách và các tài liệu thính thị (vidéo, CD, DVD) tại số thư viện trên ước định khoảng 90 000 quyển sách và các phim ảnh,
băng nhạc.
Đây là bộ sách thực sự gần gũi với
độc giả người Việt bởi lẽ đa số là sách báo xuất bản ở hải ngoại hay các tác
giả ở miền Nam trước 1975. Những năm gần đây, một số sách xuất bản trong nước đã lần lần xuất
hiện .Thư mục nầy dễ tìm và các chữ Việt
đọc được, không như một số rất lớn các thư mục trên các trang web có những tiêu
đề với những mẫu tự gồm những dấu lạ kỳ, không đọc được vì chương trình điện
toán không thích nghi với chữ Việt (trường hợp những chữ có dấu đặc biệt Việt
Nam hay một mẫu tự có hai dấu)
Các thư
viện công cộng có sách tiếng Việt:
Vùng Los Angeles và Orange Counties
Alhambra,
Beverly Hills, Buena Park, Bruggemeyer
Mem., Burbank, Cerritos, County of Los
Angeles, El Segundo, Covina,, Glendale, Fullerton, Hungtington Beach, Long
Beach, Los Angeles, Mission Viejo, Orange, Orange County, Oxnard, Palmdale
City, Palos Verdes, Pasadena, South Pasadena, Pomona, San Marino, Santa Ana,
Santa Monica, Thousand Oaks.
Vùng Greater Bay
Alameda
County, Alameda Free, Berkeley, Contra Costa Cnty, Hayward, Mountain View, Oakland,Redwood City,
Peninsula Syst., San Francisco, San Jose, San Leandro, Santa Clara County,
Santa Clara, Sunnyvale.
Vùng Sacramento- Mother Lode
Nevada
County, Placer County, Roseville, Sacramento, Stockton- San Joaquina County,
Stanislas, Yolo County, Yuba County.
Vùng San Diego – Imperial Counties
ChulaVista, Coronado, Escondido, San Diego,
San Diego County, Oceanside.
Vùng Riverside-San Bernardino
Inyo Counties
Beaumont,
Hemet, Palm Springs, Riverside, Riverside County, San Bernardino, Rancho
Mirage.
Vùng Monterey Bay : Monterey County, San Benito,Santa
Cruz.
VùngNorth Bay &Wine Counties : Belvedere
Tiburon, Marin County, Richmond, San Rafael, Solano County.
Vùng Central Valley : Fresno, Kern County
Chú thích :
Danh sách trên gồm phần lớn là thư
viện trung ương, không kể các chi nhánh. Thí dụ như tại Thư viện Orange County
có các chi nhánh có sách tiếng Việt như : Aliso Viejo, Brea, Costa Mesa/Mesa
Verde, El Toro, Foothill Ranch, Fountain Valley, Garden Grove Regional, Irvine
Heritage Park Regional, Tustin, Westminster…
Vùng
Seattle- Tacoma-Bremerton
Đây là vùng tập trung đông đảo người
Việt ở hai tiểu bang phía Bắc của California.
Thư viện công cộng Seattle ( www.spl.lib.wa.us)
có 12 150 quyển sách cho người lớn và trẻ
con trong đó Thư viện trung ương có độ 4500 quyển không kể
số tài liệu thính thị (CD và DVD nhạc). Số sách còn lại phân phối cho các
chi nhánh như China Town Branch, Beacon Hill, Rainier Beach, Columbia và Lake
City. Thư viên Seattle cũng có 54 tạp chí tiếng Việt phân phối ở thư viện trung
ương và 12 chi nhánh. Ngoài ra,
phải kể thêm các thư viện công
cộng Tacoma, Bremerton, Spokane, mỗi nơi có khoảng 1000 sách và CD, DVD nhạc
Thư viện Mulnomah County (www.multcolib.org)
là thư viện công cộng lớn nhất của
tiểu bang Oregon, tập trung độ 5000 tài
liệu (sách, CD, DVD nhạc) cho người
lớn và 1000 tài liệu cho trẻ con
để phục vụ cộng đồng người Việt khu Portland. Số sách nầy phần lớn ở Thư viện
trung ương và các thư viện chi nhánh như Fairview, Gregory Heights, Holgate,
Hollywood, Midland, North Portland, Saint-John, Woodstock.
Texas
Texas là tiểu bang thứ hai có đông
đảo người Việt sau California.
Hệ thống
thư viện công cộng Houston (www.houstonlibrary.org)
có 4080 tựa (trong đó có 3850 tựa sách), trung bình mỗi tựa có độ 2
đơn vị sách và tài liệu thính thị tập trung đa số tại Thư viện trung ương
và độ 20 chi nhánh như : Alief,
Bracewell, Collier, Hillendahl, Jungman, Kashmere Gardens, Park Place, Robinson,
Stella Link, Walter .
Từ những năm gần đây, Houston đón nhận thêm nhiều người Việt và những cố
gắng của nhiều chính quyền địa phương nhằm cung ứng các dịch vụ về văn hóa cho
người Việt (nguồn : Houston Public Library e-mail ngày 31/1/2011.
Thư viên Austin cũng không cung ứng đủ sách tiếng
Việt cho người Việt. Little Walnut có 1173
tựa, trong khi thư viện John Henry Faulk Central Library chỉ có 348 tựa và chi nhánh Saint John chỉ có
311(nguồn liệu : Stephanie Neely)
Hệ thống thư viện Arlington (www.pub-lib.ci.arlington.tx.us)
có độ 4000 sách và CD, DVD phân phối ở Thư viện trung ương và hai chi
nhánh East và Southeast.
Vùng Fort Worth - Dallas cũng có một số thư viện có
sách tiếng Việt, nhưng số lượng ít hơn.
Tại Fort Worth có độ 2000 quyển sách ở Thư viên trung ương và các chi nhánh : East
Regional, Halton City, Meadowbrook, Riverside, Seminary South, Summerglen.
Tại Dallas
cũng có độ một số sách tương tự ở Thư viện trung ương và các chi nhánh :
Casaview, Forest Green, Fretz Park, Oak Lawn, Renner Franfort.
Điểm đặc
biệt lưu ý là trái với bộ sách tiếng Việt ở vùng California có ít sách xuất bản ở Việt Nam, bộ sách tiếng
Việt ở Texas đa số là sách của Việt Nam
Cộng Sản. Phải chăng, bộ sách ở đây được chọn lựa bởi những người không am
tường sở thích đọc sách của người Việt.
Vùng Washington DC-Virginia
Thư viện Fairfax County (www.fairfaxcounty.gov/lbrary/)
là thư viện
lớn nhất trong vùng có bộ sách tiếng Việt. Chỉ với 10 họ quan trọng, thư viện
có 2225 tựa và mỗi tựa trung bình có 2 quyển.
Tính ra Fairfax có độ 10 000
sách và tài liệu thính thị phân phối ở Thư viện trung ương và các thư viện
George Mason, Thomas Jefferson và Woodrow Wilson.
Đây là một
trong các thư mục tiếng Việt trên thế giới có nhiều ưu điểm : ít nhầm lẫn
tên và họ, dễ đọc, sắp xếp theo năm xuất bản gần nhất, phân biệt sách, báo, tài
liệu thính thị, và nhất là có sự quân bình giữa sách các tác giả Việt Nam Cộng
Hòa và Việt Nam dân chủ Cộng Hòa.
Các thư viện tiếng Việt ở một số tiểu bang và các thành phố lớn
-Florida : có khoảng 3000
tài liệu (sách, DVD) tập trung ở vùng Orlando thuộc Orange County
Library System gồm các thư viện như : Main Library, Alafaya, Edgewater, Hendon,
North Orange, South trail, Washington Park.
-Georgia : có khoảng 5000 tài liệu tập trung trong hệ thống
Georgia Public Libraries gồm các thư viện Central Library, Atlanta-Fulton,
Dekalb, Hall Country, Athens, Cobb County, Newton County, Live Oak.
-Philadelphia: có 6000 tài liệu (nguồn : Laura Clover) tập trung trong hệ thống Free
Library of Philadelphia gồm các thư viện Central Library, và các chi nhánh
South Philadelphia, Paschalville,Wyoming, Kensington, Logan, Santore,Whitman,
Olney.
-Boston : khoảng 4000
tài liệu thuộc hệ thống Boston Public Library (2500) và
Worcester&Lawrence (1500)
-New York : khoảng 4000
tài liệu ở Bloomingdale, Donnel, Bronx, Francis Martin, Sulfolk County
Public Library.
Colorado : khoảng 3000
tài liệu ở Central Colorado Public Libraries và Denver Public Library.
Tuy không
thể liệt kê đầy đủ tất cả các thư viện công cộng ở Hoa Kỳ, nhưng với một số lượng khoảng
160 000 quyển sách và tài liệu thính thị tiếng Việt hiện lưu hành trong
hơn 200 thư viện công cộng và khoảng 200 000 tài liệu tiếng Việt và ngoại ngữ
tại 20 đại học để phục vụ cho hơn một triệu người Việt, sự kiện nầy đã gợi lên được bản
chất trọng chữ nghĩa của một dân tộc vừa phải tái xây dựng trong nhục nhằn mà
vẫn không quên gìn giữ nền văn hóa cội nguồn.
Canada
Canada là một trong những quốc gia
Tây Phương ít có liên hệ lịch sử và
ngoại giao với Việt Nam do đó tài liệu về Việt Nam hay sách tiếng Việt trong các
thư viện rất ít.
Tính chung, tài liệu tiếng Việt tại
3 tỉnh bang có đông đảo người Việt là Ontario, Québec và British Columbia, bộ
sách tiếng Việt chung cho cả Canada độ 45 000 (sách và băng DVD nhạc), đa
số là sách xuất bản ở hải ngoại và tác giả miền Nam trước 1975 được tái bản. Số
tài liệu tiếng Việt được phân phối như sau :
-Tỉnh bang Ontario : khoảng 30 000 tài liệu thuộc :
*
Toronto Public Libraries : 22 000 ở Central Library và 21 chi nhánh
*
Ottawa Public Libraries : 5000 ở Central Library và 3 chi nhánh
*
Mississauga : 2000
*
London Public Library :1000
-Tỉnh bang Québec: khoảng 10 000 gồm
* Bibliothèque de
Montréal (BIC) : 7 000
* Thư viện Quốc gia tỉnh
bang (Bibliothèque nationale du Québec) : độ 500 phần lớn là sách nộp
bản.
* Thư Viện Trung Tâm Giáo
Dục Hồng Đức (hội đoàn tư) : 2000
-Tỉnh bang
Colombie-Britannique : 3238 tựa
sách báo và tài liệu thính thị ở Central Library và 7 chi nhánh (e-mail Gilian
Guilmant-Smith, 1/2/2011)
Pháp
Hệ thống thư viện công cộng ở Pháp không quan tâm đến văn hóa các
sắc tộc. Tại Paris, chỉ có chi nhánh Jean-Pierre
Melville (Paris 13è) có bộ sách tiếng Việt và chỉ có 1500 quyển.(e-mail de
Jean Claude Utard, conservateur général 15/02/2011). Độc giả muốn đọc sách Việt
phải đến Thư Viện quốc gia hay EFEO.
Ngoài ra, tại Paris có Thư
viện Diên Hồng là một thư viện tư nhân, do các người Việt thiện nguyện quản
trị,nhưng số giờ mở cửa rất hạn chế. Theo thư mục, thư viện có độ 4000 sách. Thư
viện ở 7 rue du Disque, Paris 75013.
Anh
Đa số cộng đống Việt Nam tập trung ở
vùng Luân Đôn, Manchester và Birmingham, do đó tại các thư viện công cộng của
các thành phố nầy có bộ sách tiếng Việt.
Tại Luân Đôn, sách và tài liệu âm nhạc tiếng Việt tìm thấy ở Hackney Central Library.
Tại Manchester, ngoài Thư viện trung ương
còn có ở các chi nhánh như Crumpsall,
Language and Literature Library, Longsight, Miles Plating và North City. Sách
và âm nhạc tiếng Việt cũng có ở Thư viện
trung ương Birmingham. Số sách và âm
nhạc của mỗi thư viện không quá 1000 tựa,
và đa số là sách từ trong nước sau 1975.
Bắc Âu
Cộng đồng
người Việt tại Bắc Âu là những thuyền nhân chỉ có mặt trên dãy đất băng giá nầy
từ cuối thập niên 70. Tuy các chánh phủ Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch và Phần Lan
có chánh sách đãi ngộ đối với những di dân đến đất nước họ vì lý do nhân đạo,
người Việt tại vùng đất mới nầy gặp
nhìều khó khăn hơn trong việc hội nhập văn hóa và thích nghi phong thổ so với
các nơi khác. Sách báo, băng đĩa nhạc tiếng Việt, trong trường hợp nầy, là một
nhu cầu cần thiết và do đó các thư viện công cộng đã phát triển bộ sách tiếng
Việt để đáp ứng nguyện vọng của ngưởi Việt.
Bộ tài liệu tiếng Việt (sách, báo,
tài liệu thính thị) tại bốn quốc gia ở Bắc Âu (20 000 tài liệu các loại)
-
Na Uy : Hệ thống thư viện Oslo Public Library,
Multilingual Library (www.dfb.deichman.no)
có
8760
sách, 287 DVD và 167 DVD tại thư viện trung ương và các chi nhánh Hoved,
Bjerke,Furuset, Holmlia, Majorstuen, Romsas,, Stovner, Torshov.
-
Thụy
Điển :Internationelle Biblioteke Stockhoms (www.biblioteket.stoccholm.se) có
5000 quyển
-
Đan
Mạch : Bibliotekscenter for Integration (www.kvinfo.dk) có 4000 quyển.
-
Phần
Lan : Helsenki City Library (www.helmet.fi/search) có 3000 quyển ở thư
viện trung ương và
các
chi nhánh Pasila, Sello, Tikkirula, Omena, Kirjasto.
Bộ sách thường tập trung ở Thư
viện trung ương (thông thường, thành phố tài trợ 25% và quốc gia 75%) và những lô sách nhỏ từ 50 đến 100 quyển được
gởi đến một số chi nhánh trong thời gian ba tháng rồi luân chuyển đến chi nhánh
khác hay trả về trung ương. Chỉ trừ độc giả ở gần thư viện trung ương được đến
mượn sách trực tiếp, độc giả ở các nơi xa thủ đô phải điền phiếu mượn sách gởi
qua thư viện địa phương để các thư viện nầy chuyển về trung ương. Việc chờ đợi độc giả khác hoàn trả sách lại
cho thư viện cũng như thời gian chuyển vận là những yếu tố trở ngại khi có được
một tài liệu tiếng Việt như ý trong tay.
Đặc điểm của các bộ tài liệu
tiếng Việt ở vùng nầy gốm cả sách báo băng đĩa nhạc xuất bản ở hải ngoại và
Việt Nam. Sách cho trẻ con cũng được phát triển.
Úc Châu
Nếu bản chất ưu ái của chánh quyền
đối với các di dân được biểu lộ qua việc phát triển bộ sách sắc tộc, nước Úc
quả là một quê hương thứ hai mến yêu của người Việt.
Tại tiểu
bang Victoria, có 15 thư viện trung ương và gần
50 thư viện chi nhánh với 54 230 quyển
sách và 10 800 băng, DCD, dĩa nhạc các loại.(thống kê
tháng 8 năm 2005)
Tài liệu
(sách, báo, băng nhạc) ở thư viện công cộng tiểu bang Victoria
Thư viện
|
tài liệu
|
Thư viện
|
tài liệu
|
Thư viện
|
tài liệu
|
Mooney Valley
|
15000, 800
|
Moreland City
|
4560,1601
|
Whitehorse Mann.
|
818, 38
|
Yarra-Melbourne
|
8500, 3000
|
Yarra Plenty
|
2210, 1087
|
Kingston
|
685, 263
|
Maribyrnong
|
7100, 1348
|
Dairebin
|
1390, 960
|
Hume Global
|
600
|
Cityof G. Dandenong
|
5820, 232
|
Hobsons Bay
|
950, 204
|
Geelong
|
250
|
Brimbank
|
5245, 1267
|
Monash
|
900
|
Eastern Regional
|
202
|
Chú thích : Con số đầu là sách, số sau
là tài liệu thính thị
Tiểu bang New South Wales, có 17 thư viện trung ương có sách tiếng Việt với 47
354 sách và
băng nhạc. (thống kê 2010)
Thư viện
|
tài liệu
|
Thư viện
|
tài liệu
|
Thư viện
|
tài liệu
|
Thư viện
|
tài liệu
|
Fairfield
|
11439
|
Aubum
|
4975
|
Holroyd
|
1245
|
Strathfield
|
505
|
Marrickville
|
5798
|
State Library
|
1944
|
Wollonggong
|
700
|
Randwick
|
304
|
Banstown
|
5744
|
Hurstville
|
1095
|
Blacktown
|
1160
|
Campbelltown
|
472
|
Canterbury
|
4574
|
Parramatta
|
1766
|
Willoughby
|
584
|
||
Liverpool
|
3228
|
Sydney
|
1821
|
Tổng cộng
|
47 354
|
Các vùng khác có bộ sưu tập tiếng Việt (sách, báo, tàiliệu thính thị) ít
hơn :
Vùng Australian Capital Territory (ACT) :
2022 tựa phân phối ở thư viện Tưggeranong và Balconnen
Vùng South Australia : City of Charles
Sturt có độ 2500 tựa ở Civic Library.
Vùng Queensland : 2500 tựa phân phối ở
South Brisbane, Stanley Place, South
Bank Precinct.
Vùng New Zealand : Aucland City có 1000
tựa ở Otahuhu Community Library.
Tổng kết bộ
sách tiếng Việt và sách ngoại ngữ viết về Việt Nam tại các thư viện ngoài Việt
Nam
Vùng
|
Thư viện
quốc gia
đại học
|
Thư viện
công cộng
|
Tổng số
|
Hoa Kỳ
|
200 000
|
160 000
|
360 000
|
Canada
|
45
000
|
45 000
|
|
Pháp
|
70 000
|
5
000
|
75 000
|
Anh
|
20 000
|
2
000
|
22 000
|
Đức
|
10 000
|
10 000
|
|
Bắc Âu
|
20
000
|
20 000
|
|
Úc Châu
|
16 000
|
110 000
|
126 000
|
Á châu
|
18 000
|
18 000
|
|
Tổng cộng
|
334 000
|
342 000
|
676 000
|
Kết
luận
Người Việt
ham thích đọc sách, nhưng thực sự phải hỏi là người Việt nào? Chúng ta có ít nhất ba giới độc giả chữ Việt.
Giới thứ nhất là những người Việt
rời Việt Nam sau 1975, hiện nay tuổi trên dưới sáu mươi, đã hấp thụ ít nhiều
nền giáo dục và ý thức hệ của hai chế độ Pháp và Việt Nam Cộng Hòa. Họ thực sự
là những độc giả chuyên cần, nhưng họ chỉ
thích đọc những tác giả cùng sống với những chế độ chính trị giống như
họ. Họ thờ ơ hay từ chối sách vở xuất bản bởi Việt Nam Cộng Sản bởi họ nghi ngờ
thành tín của những người viết. Họ không
muốn đọc những bản văn tuyên truyền, thù hận họ dù rằng chiến tranh đã chấm dứt
đã ba mươi lăm năm. Họ cũng là những người tiếp tục viết hay bắt đầu viết ở
ngoài quê hương, nhưng kiến thức họ mòn dần với sinh kế và năm tháng. Đó là thế
giới độc giả của hơn nửa triệu tài liệu tiếng Việt trong các thư viện công cộng
và các trường đại học gần nơi họ cư trú. Cùng với người viết, thế giới độc giả
nầy cũng càng lúc càng lão hóa và hiện tượng tre già mà không có măng mọc, hay
có măng mà chẳng giống tre, khiến viễn tượng của bộ sách nửa triệu tài liệu nầy
thực đáng bi quan . Có thế nào, trong
năm ba thập niên sắp đến, tiếng Việt sẽ là một
thứ tiếng La Tinh
của đa số người gốc Việt ở ngoài nước Việt?
Giới thứ hai, mà người di tản thường
gọi là thế hệ thứ hai và nay đã đến thế hệ thứ ba là thế hệ những người Việt mà
đa số không biết đọc chữ Việt và dĩ
nhiên họ không cần đến thư viện tiếng Việt. Trong gần ba mươi năm gần gũi với
văn hóa Việt Nam và bản địa, chúng tôi ít gặp độc giả trẻ tuổi người Việt. Điều
nầy cũng dễ hiểu vì chuyện trẻ con Việt
Nam không nói được tiếng Việt suôn sẻ
thì chờ đợi thế hệ nầy đọc sách tiếng Việt là chuyện mộng mơ. Những lớp dạy
tiếng Việt, biểu tượng thiện chí đáng phục của các bậc thức giả ưu tư đến việc
bảo tồn văn hóa Việt Nam, thực ra không đào tạo đủ cho trẻ con có khả năng đọc
và hiểu biết được cái thâm thúy của một quyển sách tiếng Việt. Trẻ con Việt
Nam, phần lớn dưới áp lực của cha mẹ, theo học vài lớp sơ đẳng để chỉ bập bẹ
một số đối thoại với một giọng đọc ngượng ngập để rồi sau đó lãng quên trở về
trọn vẹn với cái ngôn ngữ của trường học và sở làm. Chỉ sau một thế hệ, người
Việt đã bị đồng hóa ngôn ngữ, nếu không muốn nói là cả văn hóa. Hiện tượng đàn
áp ngôn ngữ (diglossie) thông thường phải trải qua nhiều thế hệ đối với nhiều
sắc tộc khác, nhưng với người Việt lại quá tàn khốc vì quá nhanh. Nhưng nghĩ cho cùng, phải chăng đó là cái
giá mà cộng đồng Việt Nam ở Bắc Mỹ đã tự nguyện chấp nhận để đánh đổi sự hội
nhập. Đó cũng là cái thảm trạng văn hóa của một dân tộc xây dựng một cộng
đồng trong bất cập và bất hạnh, phát triển trong tinh thần nỗ lực cá nhân nhưng
phân tán tập thể, cơ cấu.
Giới thứ ba là giới những người Việt
còn ở lại trong nước, những người không muốn đi hay không đi được, và những người Việt sinh ra và lớn
lên trên quê hương sau 1975.
Họ là những người mà thư viện học
gọi là những người « không độc giả » (non lecteurs).Họ không dốt
nhưng không đọc vì họ không có sách để đọc bởi những sách họ thích đọc đã bị
tiêu hủy và bi đát hơn, họ không có tiền
mua sách để đọc. Thế hệ con cháu họ, những người được giáo dục trong các
trường học với các giáo điều Cộng
Sản không có ý niệm gì về sách vở,
văn hóa bởi trường học không dạy cho họ
đọc sách, học văn hóa.Thế giới nầy, già trẻ bé lớn, đa số đều ít đọc sách.
Trong khi liên lạc xin tài liệu, một
đồng nghiệp người ngoại quốc đã gay gắt với chúng tôi qua một điện thư: Ngân sách đã
bị cắt giảm mà phải ngắt ra để mua sách tiếng Việt. Độc giả người Việt các
anh không đọc sách mà chúng tôi có, và đòi hỏi chúng tôi những sách mà chúng
tôi không có. Chúng tôi phải làm gì ?
Câu hỏi có nhiều vế khúc mắc, và câu
trả lời không đơn giản chỉ thuộc phạm vi thư viện học. Cái thảm trạng chính trị
và văn hóa của một dân tộc điêu linh từ hơn một thế kỷ qua, trên quê hương và
ngoài quê hương, mới đích thực là câu trả lời.
Lâm Văn Bé