Nguyễn Xuân Nghĩa
Đối sách ngoại giao của Clinton IICuộc tranh luận thứ ba và cuối cùng giữa hai ứng cử viên tổng thống của hai chính đảng lớn có thể cho thấy cuộc bầu cử tổng thống đã ngã ngũ.
Ứng cử viên Donald Trump không chỉ rút dao tự sát mà còn đâm thấu phổi đảng Cộng Hòa khi hai lần khẳng định là vì có gian lận bầu cử, ông sẽ không công nhận nếu thất cử mà để chờ xem. Lời phát biểu hàm ý là nạn gian lận nghiêm trọng đến độ chi phối kết quả bầu cử toàn quốc - và nếu vậy thì còn ai trong đảng Cộng Hòa muốn đi bầu? Hậu quả là Cộng Hòa có thể thất cử trên cả hai trận tuyến Hành pháp và Lập pháp….
Hôm sau, Thứ Năm 20, Donald Trump điều chỉnh tác xạ tại Ohio và chuyển bại thành liệt. Không rút dao mà tự bắn vào mồm: “Tôi sẽ chấp nhận kết quả bầu cử nếu thắng cử”. Nền dân chủ Hoa Kỳ có nhiều nét lố bịch nhưng không thể có một tổng thống bài bây như vậy!
Xin chào mừng Hillary Clinton, Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ.
***
Bây giờ, chúng ta có thể tự hỏi đối sách ngoại giao của Clinton II sẽ là gì?
Người viết không nói về những tỳ vết quá lớn của chính khách này, được truyền thông báo chí Hoa Kỳ bỏ qua vì tư tưởng tả khuynh của họ, nhưng tìm hiểu về thế giới quan của một người sẽ lãnh đạo nước Mỹ trong bốn năm tới.
Đa số dư luận để ý đến Hillary Clinton kể từ năm 1991 – khi Thống đốc Bill Clinton chuẩn bị tranh cử tổng thống – cho tới năm 2008 là khi bà ra tranh cử tổng thống lần đầu. Trong khoảng thời gian ấy, trật tự thế giới có chuyển động lớn với việc Chiến tranh lạnh kết thúc và Liên bang Xô viết sụp đổ cho tới khi khủng hoảng tài chánh bùng nổ và kinh tế bị Tổng suy trầm 2008-2009 với hậu quả chưa chấm dứt. Thế giới quan của Clinton II chịu ảnh hưởng của những đổi thay trong mươi năm đó, lại càng rõ nét qua bốn năm Hillary làm Ngoại trưởng, từ đầu năm 2009 tới đầu năm 2013.
Khi Liên Xô tan rã cuối năm 1991, nhiều người lạc quan cho rằng nhân loại vừa bước qua một thời đại mới, hết chiến tranh, lịch sử kết thúc (Francis Fukuyama), một trật tự mới thành hình (George H. W. Bush) và thế giới có thể nói đến hợp tác và phát triển. Quan điểm dễ hiểu ấy thật ra vẫn phiến diện.
Thứ nhất, Hoa Kỳ không đại thắng mà Liên Xô đại bại: chế độ cộng sản tự sụp đổ vì sự bất toàn của nó khi Liên Xô lại bành trướng quá khả năng. Thứ hai, Hoa Kỳ và các đồng minh đã thắng vì sự thất bại của đối thủ trong thời Chiến tranh lạnh, nhưng khi đối thủ chính là Liên Xô tan rã thì quan hệ giữa Hoa Kỳ và các đồng minh cũng thay đổi. Khi yếu tố đoàn kết là mối nguy Xô viết không còn thì đối sách ngoại giao của nước Mỹ cũng thay đổi. Trường hợp Nhật Bản hay Trung Quốc là hai thí dụ. Thứ ba, niềm lạc quan về sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản và thể chế dân chủ khiến các Âu-Mỹ cùng “Đông tiến”: lăn tấm khiên NATO vào khu vực Đông Âu và Trung Âu, các nước Tây Âu thống nhất nước Đức và tiến hành “cách mạng dân chủ” trong khu vực Balkans trên những mảnh vụn của Liên bang Nam Tư, v.v… Các định chế quốc tế hình thành từ sau Thế chiến II và trong 40 năm Chiến tranh lạnh trở thành trụ cột của trật tự mới: Liên Hiệp Quốc, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân hàng Thế giới, và Minh ước NATO.
Dù sao mặc lòng, Tổng thống Bill Clinton kế thừa di sản màu hồng đó, với niềm lạc quan về “cổ tức hòa bình” và tinh thần cải tạo kinh tế xã hội, cho tới khi gặp chướng ngại kinh tế khiến đảng Cộng Hòa chiếm lại đa số trong Hạ viện vào năm 1994 sau hơn 40 năm ngồi ghế đối lập. Ông Clinton biến báo xoay chiều, hợp tác với đối lập về nội trị và đạt kết quả.
Về đối ngoại, ông khai triển tinh thần lạc quan của Tổng thống Bush 41. Hoa Kỳ bung ra khắp nơi để xây dựng trật tự mới và sẵn sàng can thiệp vào xứ khác vì lý do nhân đạo: Somalia, Haiti, Kosovo, v.v… Niềm lạc quan đó có tên gọi là “Đồng thuận Washington” hàm ý kinh tế thị trường và dân chủ chính trị sẽ có giá trị phổ cập toàn cầu và là nền móng của hòa bình và hợp tác. Hillary chia sẻ quan điểm này và còn khai triển trong những năm làm Ngoại trưởng.
Truyền thông báo chí không thấy một nét chung là chủ trương “tân bảo thủ” của Chính quyền George W. Bush (Bush 43) và “can thiệp quốc tế vì lý do nhân đạo” của Bill Clinton chỉ là hai mặt của một đồng tiền có tên gọi là “sự lạc quan về khả năng can thiệp của Hoa Kỳ” để xây dựng quốc gia và phát huy dân chủ cho thiên hạ. “Trật tự thế giới” của Bush 41 là một hỗn loạn lớn, kéo dài qua tám năm cầm quyền của Clinton và kết tụ vào biến cố đã manh nha từ 1993: thế giới Hồi giáo bị khủng hoảng và nạn khủng bố với cao điểm là vụ 9-11 đã làm đảo lộn trật tự toàn cầu.
Trong khi ấy, Liên bang Nga tạm hồi phục sau tám năm khủng hoảng vì Liên Xô tan rã và nhìn vào tấm khiên của NATO tại Đông Âu với sự lo ngại. Hậu quả là Georgia bị Vladimir Putin tấn công năm 2008 để tái lập vùng trái độn quân sự ở các nước biên vực. Năm đó, Bắc Kinh cũng lên ngôi với Thế vận hội 2008 và Hoa Kỳ bị chấn động vì vụ tổ hợp Lehman Brothers sụp đổ. Thế giới đổi thay rất mạnh từ đó.
Hoa Kỳ hết là siêu cường giữ vị trí độc bá.
“Đồng thuận Washington” không cảm hóa được Trung Quốc mà còn bị “Đồng thuận Bắc Kinh” qua mặt: hợp tác kinh tế bất kể tới thể chế chính trị phi dân chủ có thể là giải pháp cho nhiều nước! Cũng từ 2008, các cường quốc cấp vùng mặc nhiên giành lại quyền tác động để thu hẹp vai trò của Mỹ. Ngoài Nga và Tầu, thì Iran, Turkey và cả Saudi Arabia đã ngầm phá trật tự của Hoa Kỳ và tìm ra hướng đi mới. Chỉ mấy năm sau khi tưởng “lịch sử cáo chung”, nhiều người cỏn nói đến “Thế giới hậu Hoa Kỳ”, hoặc khủng hoảng của tư bản chủ nghĩa.
Đấy là khung cảnh thời sự và tư duy để chúng ta nhìn lại Hillary Clinton.
Tinh thần lạc quan về trật tự mới khiến Hoa Kỳ lầm tưởng là hợp tác được với Trung Quốc của Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào và với Liên bang Nga của Vladimir Putin. Trong chuyến công du đầu tiên ra hải ngoại, Ngoại trưởng Clinton kêu gọi là đừng để hồ sơ nhân quyền chi phối quan hệ Mỹ-Hoa. Sau đó là chánh sách “reset the button” với Nga do Hillary tiến hành. Kết quả hoàn toàn trái ngược, từ Đông Âu qua Đông Á.
Lý tưởng dân chủ như một động lực tất yếu còn khiến Hoa Kỳ đánh giá sai vụ khủng hoảng trong thế giới Á Rập Hồi giáo là “mùa Xuân dân chủ” vào đầu năm 2011 và góp phần lật đổ chính quyền độc tài của Tổng thống Hosnia Mubarak tại Ai Cập. Chủ trương can thiệp vì lý do nhân đạo còn khiến Ngoại trưởng Clinton và một số cộng sự phái nữ ủng hộ việc Hoa Kỳ nhảy vào cuộc nội chiến tại Libya. Thật ra, Mubarak là lãnh tụ độc tài đồng minh của Mỹ, Muammar Gadhafi là lãnh tụ độc tài đang cố hòa giải với Mỹ trong khi mối nguy thật là sự thắng thế của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan xưng danh Thánh Chiến với phương pháp khủng bố tự sát.
Sau những sai lầm đó, Quân đội Ai Cập mau mắn đảo chính Mubarak đề cứu lấy chế độ và sau khi thử nghiệm dân chủ với phong trào Huynh đệ Chi binh đắc cử thì cũng quân đội đã đảo chánh Tổng thống Mohammed Morsi để cứu lấy Ai Cập và trở về chế độ quân phiệt. Libya không may như vậy vì sau Gadhafi là sự hỗn loạn và môi trường màu mỡ - không, máu mê, cho khủng bố Hồi giáo từ Syria và Iraq đã có thể lan ra khắp nơi.
Ngoại trưởng Clinton không thấy sự đổi thay của thế giới sau vụ 9-11 và chế độ độc tài của một lãnh tụ tham ô còn có thể khá hơn những gì xảy ra sau đó. Thế giới quan của bà bị ảnh hưởng từ sự lạc quan của Bill Clinton. Chính quyền Clinton I có thể can thiệp vào nơi này nơi khác vì lý do nhân đạo, từ vùng Balkans tới Haiti. Nhưng biến cố 9-11 đã đảo lộn trật tự bấp bênh thời Hậu-Chiến tranh lạnh và vụ khủng hoảng của thế giới Hồi giáo đã lan khắp nơi và đe dọa cả Liên Âu lẫn Trung Đông tới Trung Á khiến mọi sự đều hòa nhập làm một và dội ngược về nước Mỹ.
Và vụ khủng hoảng tài chánh 2008 làm kinh tế thế giới sa sút nên càng gây thêm hỗn loạn.
Khi kiểm lại tình hình từ 1991 tới 2008 và ngày nay, người ta có thể kết luận rằng cái nhìn của lãnh đạo Tây phương, từ Âu qua Mỹ, là cái nhìn cổ điển đã bị thời sự vượt qua. Các chính đảng truyền thống, từ trung tả đến trung hữu, từ Âu Châu qua tới Hoa Kỳ, đều trở thành lạc hậu, bị thực tế thách đố trước sự hoang mang tuyệt vọng của quần chúng. Trầm trọng hơn vậy, trật tự thế giới thành hình từ sau Thế chiến II cũng cáo chung. Hệ thống chính trị cổ điển, của Bush 41-43 và Clinton có thể chắp vá được tình hình từ những năm 1988 tới 2008, nhưng sau đó thì thất bại vì không theo kịp những xoay chuyển mới để có một đối sách khác.
Chính quyền Barack Obama thừa hưởng di sản ấy và để lại một sự hỗn mang toàn cầu, khởi đầu là từ nước Mỹ. Đấy là lúc sự bất tài của đảng Cộng Hòa khiến Donald Trump cướp cờ nói nhảm mà không đề ra một chủ trương nào thích hợp cho tình hình mới. Bản lãnh của Hillary Clinton và sự trợ giúp của truyền thông làm nốt phần vụ còn lại cho tới ngày bầu cử.
Trong suốt một năm tranh cử, Hillary cho thấy là bà vẫn tin rằng Hoa Kỳ sẽ hàn gắn được trật tự Hậu-Chiến tranh lạnh bằng đàm phán và thỏa hiệp. Kinh nghiệm ngoại giao khiến bà tin vào khả năng thỏa hiệp. Nhưng đấy chỉ là phần chiến thuật như đã thấy khi Hoa Kỳ thỏa hiệp với Nga, Tầu hay Iran, Cuba…. Phần chiến lược là tìm ra một viễn kiến khác, một cái nhìn mới về cục diện thế giới sau 70 năm không có đại chiến. Cục diện thế giới ngày nay là sự suy sụp và khủng hoảng trên cả đại lục Âu Á và một cuộc chiến toàn diện giữa khái niệm dân chủ Tây phương với một nỗ lực Hồi giáo là dùng bạo lực vẽ lại bản đồ do các nước Âu Châu để lại từ trăm năm trước.
Chỉ nhìn vào rốn, Donald Trump không hiểu ra điều ấy. Với kinh nghiệm chiến thuật, Hillary Clinton tin là sẽ giải quyết được bài toán chiến lược của Hoa Kỳ với các nước. Nhưng khả năng chiến thuật của bà là nhược điểm cho Tổng thống Clinton II.
Chỉ mong là sau khi đắc cử, bà sớm quên thành quả tranh cử và có một ban tham mưu với tầm nhìn xa hơn để tự chuẩn bị cho những thách đố mới. Nếu không, Clinton II chỉ được một nhiệm kỳ và cuộc tranh cử tổng thống năm 2020 sẽ là một màn hào hứng khác. Đến rợn mình.
Nguon: https://vietbao.com/p112a259498/tong-thong-hillary-clinton