Bàn về giáo dục nhân bản
BS Nguyễn Đan Quế
Tôi muốn nói
‘chút xíu thôi’ về thế nào là một nền Giáo Dục Nhân bản. Tôi thật sự
không muốn vì thấy chưa phải lúc. Khổ nỗi đây lại là cơ bản nhất.
Bàn về Giáo Dục Nhân Bản, chỉ nghe không thôi đã đủ thấy khó. Cho nên, theo tôi, người nghe phải là những người, không những trong nghành giáo dục, mà còn có những quan tâm, ưu tư đặc biệt về giáo dục và đang tìm tòi một hướng đi mới cho nền giáo dục Việt nam. Hướng này là xu thế tất yếu của thời đại, chứ không phải sản phẩm tưởng tượng của trí tuệ.
Bàn về Giáo Dục Nhân Bản, chỉ nghe không thôi đã đủ thấy khó. Cho nên, theo tôi, người nghe phải là những người, không những trong nghành giáo dục, mà còn có những quan tâm, ưu tư đặc biệt về giáo dục và đang tìm tòi một hướng đi mới cho nền giáo dục Việt nam. Hướng này là xu thế tất yếu của thời đại, chứ không phải sản phẩm tưởng tượng của trí tuệ.
Nhiều nhất, có
thể nói trong lúc này là về một mơ ước. Nhưng không phải mơ có được nền
giáo dục giống của Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô hay bất kỳ quốc gia nào khác.
Mà là giấc mơ của nhân loại về một nền Giáo Dục Nhân Bản.
Nói là mơ, nhưng lại không mơ đâu!
Mà chính là
hướng đi tất yếu của giáo dục phổ quát cho nhân loại, mọi dân tộc trong
tương lai. Thật vậy, khoa học hiện đại (cơ học lượng tử ra đời vào
khoảng giữa thế kỷ 20) đã đưa nhân loại lần đầu tiên đến với quan niệm
triết lý mới về con người: Tinh thân và vật chất là 2 mặt của sinh năng.
Sinh năng là một phần của vũ trụ năng (từ vụ nổ Big Bang và vũ trụ hiện
còn đang tiếp tục dãn nở). Tinh thần – vật chất hiện hữu cùng một lúc,
hỗ tương tác động và có thể hoán chuyển qua sinh năng. Nói như thế, Đông
– Tây đúng lý ra đã phải là 2 mặt của nền văn minh nhân loại (như 2 mặt
của một đồng tiến). Do đó, Nhân Bản Hóa xã hội loài người là tất yếu,
trong đó Giáo Dục Nhân Bản giữ vai trò cốt lõi.
Trước khi nói về nền Giáo Dục Nhân Bản, thiết tưởng cần nói qua nền giáo dục hiện nay.
Chủ nghĩa cộng
sản theo đuổi nền giáo dục đào tạo công cụ cho chế độ và nền văn hoá nô
dịch nhằm điều kiện hóa tối đa con người trong khuôn khổ duy vật của
chủ nghĩa Mác.
Thứ giáo dục
áp chế này khiến con người trở nên cứng nhắc với những giáo điều, làm
mất tự do cũng như nhân phẩm, khiến không thể thay đổi hay tiến hoá
được. Thứ giáo dục, đã đào tạo sai lạc nhiều thế hệ, hậu quả là văn hoá
suy đồi, không có đức độ, thì làm sao xã hội không càng ngày càng xuống
dốc, con người không càng ngày càng tha hoá, hư hỏng, chỉ biết tham lam,
bóc lột lẫn nhau. Nhờ đảng cán bộ trở nên giầu có, chỉ có dân chúng
thiệt thòi, nông dân – công nhân nai lưng bán sức lao động mà không đủ
sống, sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm.
Chủ nghĩa cộng
sản kinh điển, hay tư tưởng (?) Hồ Chí minh chỉ là những xác chết,
những thây ma. Trong khi đời sống xã hội luôn linh động, phát triển.
Bộ chính trị
đảng cộng sản Việt nam nghĩ rằng họ sẽ tìm thấy câu trả lời cho những
vấn nạn của xã hội trong kinh điển thì họ đã sai lầm lớn!
Vấn đề không
phải là cải tổ nền giáo dục – văn hoá mác xít tai hại này, mà chúng ta
phải đấu tranh đòi hủy bỏ toàn bộ, chấm dứt ngay việc nhồi nhét vào đầu
học sinh sinh viên những quan niệm trừu tượng hay những mớ kiến thức
chuyên môn.
Nền giáo dục mới mang tính Nhân Bản, Khoa Học, Đại Chúng, Khai Phóng và Sáng Tạo. Ngắn gọn ta có thể nói:
– Tính Nhân Bản
Phát triển
đồng đều và tối đa có thể tiềm năng cá nhân về cả hai mặt tinh thần lẫn
vật chất vì là hai mặt của sinh năng (‘đẻ’ ra sự sống). Phát triển cân
bằng này mới là yếu tố quan trọng cho cá nhân mưu cầu hạnh phúc.
– Tính khoa học
Khoa học Tây
phương giúp giải thích những hiện tượng của thế giới tự nhiên bên ngoài
qua những thí nghiệm, những công thức toán học.
Khoa học Đông
phương là sự tìm hiểu bản chất thực sự bên trong của con người, là sự
tìm hiếu vào bản thể mình: “Tôi là ai?” qua những huấn luyên thực
nghiệm, qua trải nghiệm.
– Tính đại chúng
Ngày nay với
internet có thể phổ biến các bài giảng, bài huấn luyện đến quần chúng ở
hang cùng ngõ hẻm trên toàn quốc, kể cả vùng sâu, vùng núi, hay hải đảo.
Giáo dục không còn là chỉ dành riêng cho người có tiền, có quyền, con
ông cháu cha.
– Tính khai phóng
Chúng ta thừa
kế và hưởng thụ gia sản nhân loại truyền qua bao thế kỷ, nhưng hoàn toàn
không bị bó hẹp trong những hiểu biết đó. Nền giáo dục Nhân Bản luôn
luôn khai mở ra cho thế hệ trẻ những bệ phóng để có thể lao vào và hoàn
thành tốt nhiệm vụ quan trọng nhất trong một đời người. Đó là:
– Tính sáng tạo
Trong công
việc hàng ngày, hay trong nghệ thuật hay cao cấp hơn trong khám phá đại
vũ trụ cũng như tiểu vũ trụ (con người), mỗi hành động của chúng ta đều
luôn luôn mang tính khám phá, chứ không phải máy móc. Thế giới ở trong
ta (sống với xã hội), nhưng ta không ở trong thế giới (đời sống nội tâm
riêng).
Tính sáng tạo sẽ đưa đến NHÂN LOẠI MỚI với NỀN VĂN MINH MỚI trên căn bản triết lý mới về con người.
Nền tảng giáo
dục mới Nhân Bản là đào tạo giới trẻ thành những con người hiểu về mình
và môi trường mình đang sống; ý thức tương quan giữa người với người và
giữa người với môi trường ấy.
Mục đích của
nền giáo dục Nhân Bản là khêu gợi và phát triển tính Nhân Bản tiềm ẩn có
sẵn trong mỗi con người, sống phù hợp với các qui luật của thiên nhiên,
và trở thành những người có lòng tốt, có lòng vị tha, biết cảm thông,
biết hướng thượng. Không bao giờ khêu gợi, kích thích những nhược điểm
hay tật xấu trong con người.
Phần lớn con
người Việt Nam trải qua bao năm chinh chiến, lại chịu ảnh hưởng của một
nền giáo dục đầy thù hận, nên rất khó thay đổi. Cho nên
Cần nhắm vào tuổi thơ dễ uốn nắn.
Dù cho đứa trẻ
gặp bất hạnh nhưng nếu được giáo dục đúng thì chính khổ đau này giúp
trẻ thêm kiên nhẫn, chịu đựng và thương những người cùng cảnh ngộ. Dù
cho sinh ra trong nhung lụa sung sướng, trẻ cũng không trở thành một
người ích kỷ, tự đắc hay dễ dãi với bản thân mình.
Nếu khi còn
nhỏ, trẻ được giáo dục kỹ lưỡng về luân lý, đạo đức, được vun trồng săn
sóc cẩn thận thì sau này khi trưởng thành, tiếp xúc với đủ mọi ảnh hưởng
tốt xấu, có thể đương đầu với điều xấu vì biêt phân biệt và đủ sức
chống lại những cám dỗ.
Tóm lại nền Giáo Dục Nhân Bản làm cho con người phát triển toàn diện trong môi trường đang sống.
Một vị thầy
theo đúng nghĩa không phải là người có nhiều kiến thức hay ăn nói lưu
loát; mà phải là người dìu dắt đứa trẻ như bạn đồng hành, thích nghi với
sự nẩy nở của trẻ, dậy bảo đúng với khả năng tiếp nhận của trẻ, không ỷ
vào uy quyền để áp chế. Con người ai cũng ghét điều làm họ sợ, nên mệnh
lệnh, đe doạ không bao giờ là giáo dục chân chính được.
Vì giáo dục là
một nghệ thuật nên nhà giáo dục còn phải có tâm hồn của một nghệ sĩ,
rộng mở với thiên nhiên, vui buồn với thế thái nhân tình, biết hoà nhịp
cùng thời đại.
Nhà giáo dục
phải có tự do trong việc đào tạo, huấn luyện những tâm hồn còn non dại,
ngây thơ này. Chỉ những người có đức hạnh cao mới nên theo nghề thầy.
Giáo dục dự
phần quan trọng trong phát triển xã hội. Con người nhìn cuộc đời ra sao
tuỳ thuộc rất nhiều ở sự giáo dục của người đó.
Giáo dục không phải là bức rào ngăn cách con người, mà là một cây cầu nối liền con người với nhau.
Giáo dục là
khai mở trái tim cũng như khối óc, tiềm lực con người được khai phóng,
khả năng sáng tạo của con người có thể tuôn chẩy góp phần xây dựng một
nền văn minh mới toả rộng khắp nơi.
Nếu con người
biết sống đúng ý nghĩa của một con người, thì tương lai nhân loại ắt
phải huy hoàng chứ không thể nào khác đi được.
HIỆN TẠI Khó khăn nhất nằm ở chỗ:
Lực lượng giáo
chức Việt Nam phải nhận biết nền giáo dục Mác – Lê là vũng bùn lầy, mới
ngừng không tranh đua nữa và nhất là muốn bước ra, rời bỏ nó. Đại đa số
giáo chức ở chỗ riêng tư đều nói: nền giáo dục hiện tại là gàn dở,
nghĩa là các vị đó còn không gàn dở. Chính lực lượng giáo chức phải làm
cuộc cách mạng giáo dục Nhân Bản này, chứ không phải ai khác.
Lực lượng giáo
chức phối hợp cùng hàng triệu sinh viên nạn nhân là động lực chính yếu
chống lại và lật đổ bọn cán bộ quản lý giáo dục: Đó là hướng đấu tranh
để cho ra đời nền giáo dục Nhân Bản tại Việt Nam.
Nói như thế đã tạm đủ những nét chính của nền giáo dục mới.
Tóm lại, Giáo
Dục Nhân bản nhằm rèn luyện thân thể cũng như tinh thần, để con người có
thể nhận biết, tỉnh thức và trưởng thành qua mỗi kinh nghiệm sống. Từ
đó, khai phóng mọi khổ đau và vui sướng của cuộc đời.
Chúng ta cũng
nên nhớ rằng cuộc sống mang tính biện chứng, nó tồn tại qua hai mặt đối
lập. Không hạnh phúc nào mãi mãi, bằng không hạnh phúc sẽ mất hết ý
nghĩa. Bất hạnh kế liền hạnh phúc như ngày và đêm. Mọi vui sướng đều có
nỗi đau riêng của nó, và mọi nỗi đau đều có vui sướng riêng của nó.
Thế nên “ngay
bây giờ và ngay tại đây”, bất cứ ở đâu bất cứ lúc nào, con người Nhân
Bản luôn sống chính xác một cách mãnh liệt, vì biết rõ quá khứ là chuyện
đã xẩy ra rồi, và khoảnh khắc tới không ai có thể biết là gì.
Sau những giấc
mơ thật đẹp như thế về giáo dục, chúng ta đành trở lại thực tế phũ
phàng đang ngự trị trên quê hương mình để cùng nhau chiến đấu cho một
thể chế mới với nền giáo dục Nhân Bản.