20
tháng7,
nhớ lại cuộc di cư vĩ đại 1954
Lữ Giang
Cuộc di cư vĩ đại của đồng bào miền Bắc vào miền Nam năm
1954, sau khi hiệp định Genève được ký kết, tính dến nay đã 64 năm. Nhưng khi
ngồi đọc lại các tài liệu do nhà cầm quyền CSVN viết, chúng ta khám phá ra có
rất nhiều sự xuyên tạc rất trắng trợn, mặc dầu các tài liệu lịch sử về cuộc
chiến Việt Nam đã được tiết lộ gần hết và các nhân chứng vẫn đang còn hiện diện
ở trong và ngoài nước.
Một thí dụ điên hình, trong cuốn “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu
nước 1954 – 1975”, Tập II, do Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc
Gia, Hà Nội, xuất bản năm 1996 đã viết rằng sở dĩ nhiều đồng bào đã bỏ miền Bắc
ra đi là vì bị cưỡng ép và số đồng bào công giáo bỏ đi rất đông là vì họ bị Ngô
Đình Diệm và người Mỹ đánh lừa, nói rằng "Chúa đã vào Nam" hay "Đức bà Mary Đồng Trinh đã rời khỏi miền
Bắc" hay “Mỹ sẽ ném bom nguyên tử miền Bắc”, v.v.
Điều đáng tiếc là sự dối trá này đã được một vài sử gia và
chính trị gia Tây phương như Bernard Fall, Chester L. Cooper (chuyên viên về Á Châu và Đông Dương của
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ)... chép lại nguyên văn, không cần kiểm chứng. Sau đó, tập
“Vietnam: Defeat U.S. Imperialism, A Progressive Labor Party Pamphlet”
của Đảng CSVN lại nhai lại cái bã do chính họ nhả ra!
Để làm sáng tỏ lịch sử, hôm nay nhân kỷ niệm 64 năm di cư
khỏi miền Bắc, chúng tôi xin ghi lại những nét chính về cuộc di cư này, trong
đó có cả những trải nghiệm của bản thân người viết.
ĐỒNG BÀO THÁO CHẠY KHỎI MIỀN BẮC
Điều 14, đoạn b, của Hiệp Định Genève được ký kết ngày
20.7.1954 quy định:
“Trong thời gian kể từ khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đến
ngày hoàn thành việc chuyển quân, nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền
kiểm soát của bên này mà muốn sang ở vùng giao cho bên kia, thì nhà chức trách
của khu trên phải cho phép và giúp đỡ sự di chuyển ấy.”
Trong Lời Tuyên Bố Cuối Cùng ngày 21.7.1954, ở đoạn 8 có
nói:
“Phải triệt để thi hành những điều khoản trong hiệp định đình chỉ
chiến sự nhằm mục đích bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là
phải để cho tất cả mọi người ở Việt Nam tự do lựa chọn vùng mình muốn sống.”
Lúc đầu, Việt Minh đã cho di cư khá dễ dàng. Người Công
Giáo ý thức rằng không thể có tự do tôn giáo dưới chế độ cộng sản nên đa số
quyết tâm ra đi. Về sau, Việt Minh thấy rằng số người bỏ làng mạc di cư vào Nam
ngày càng đông, sẽ gây ảnh hưởng không tốt về chính trị và làm cho tiềm năng
nhân lực và kinh tế miền Bắc yếu đi nên đã tìm cách ngăn chận.
a) Phong trào di cư bùng nổ: Cùng với sự triệt thoái của quân đội Pháp ra khỏi vùng Nam
Trung Châu Bắc Việt, đồng bào thuộc các tỉnh Bùi Chu, Phát Diệm, Ninh Bình, Nam
Định và Phủ Lý vội vàng chạy về Hà Nội. Đồng bào ở Thái Bình theo đường bể ra
Hải Phòng. Tiếp theo, đồng bào ở các vùng quanh Hà Nội như Hà Đông, Hà Nam,
Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc Yên cũng hốt hoảng chạy về Hà Nội. Phong trào di
cư đã bùng nổ 3 ngày trước khi Hiệp Định Genève được ký kết. Ngày 17.7.1954,
Pháp phải mở chuyến tàu đầu tiên chở người di cư đến Sài Gòn.
Phong trào di cư ngày càng lan rộng. Những đồng bào ở Cao
Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hòa Bình cũng tìm cách chạy về Hà
Nội. Sau đó, đến lượt đồng bào ở ba tỉnh miền Trung là Thanh Hóa, Nghệ An và Hà
Tĩnh ở Liên Khu IV là vùng bị Việt Cộng chiếm đóng và cai trị từ 1945, cũng tìm
cách di cư.
b) Các cuộc đàn áp đẩm máu: Trước phong trào di cư ồ ạt này, nhà
quyền Cộng Sản đã tìm cách ngăn chận. Các cuộc đàn áp đẩm máu đã xẩy ra. Sau
đây là một vài thí dụ điển hình:
1.- Vụ Cựa Gà: Công an đã bắt 30 linh mục đứng ra hướng
dẫn phong trào di cư. Giáo dân đã phản đối rất mạnh, công an phải thả ra. Quảng
đường từ Bích Câu đến Bùi Chu đầy nghẹt người. Từ Bùi Chu đến Cựa Gà còn gay
cấn hơn. Bọn công an và bộ đội giả dạng dân chúng chạy ra níu kéo lại. Người di
cư phải vật lộn với họ từ 5 giờ sáng đến 12 giờ trưa mới đến được Cựa Gà. Tại
đây, công an lại phong tỏa các đò ngang không cho qua sông. Họ tập trung
đồng bào lại và khuyên không nên đi. Đến 5 giờ chiều, họ đem xe đến mời đồng
bào trở về Hậu Hải. Đồng bào không chịu lên xe..
2.- Vụ Sa Châu: Cuộc ra đi của khoảng 3000 đồng bào ở
giáo xứ Sa Châu, Giao Thủy, Nam Định, còn khó khăn hơn. Việt Minh cho phá sập
cầu Nam Điền nên đồng bào không qua sông được. Đồng bào tìm mọi phương tiện để
qua sông, một số nhảy xuống sông bơi qua, nhưng bơi không tới, bị chết đuối. Đa
số gia đình có đàn bà và trẻ con, không thể bơi qua sông được nên đành phải
quay trở về.
3.- Vụ Trà Lý: Đêm mồng 5 rạng ngày 6.11.1954, một tiểu hạm của Hải Quân Pháp
đang tuần tiểu ngoài khơi Trà Lý thì được một thuyền đánh cá đến gần và báo tin
cho biết có khoảng 2.000 người đang lâm nguy trên một bãi cát ngoài biển Trà
Lý, nếu không cứu kịp, họ sẽ bị chìm xuống biển. Tiểu hạm này liền báo cho các
tàu La Capricieuse, LMN-9052, LCT-9065 xin đến tiếp cứu. Đến 8 giờ sáng ngày
6.11.1954, Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến cũng đã được thông báo về vụ
này. Đô Đốc Jozzan liền ra lệnh cho các tàu ở Hải Phòng và Đà Nẵng phải đến Trà
Lý cứu những người đang bị nạn.
Theo một sĩ quan của Tàu La Capricieuse kể lại, sáng ngày
6.11.1954, Tàu 151-L9035 vào cứu đầu tiên, với được 900 người được đưa về Hải
Phòng. Tàu LSM-9052 và LCT-9065 cho xuồng máy vào cứu tiếp. Đến 1 giờ sáng ngày
7.11.1954, đã có 1.445 người nữa được vớt đưa lên tàu LCT-9065.
Một số người, nhất là đàn bà và trẻ con, khi vội vàng chen
chúc nhau leo lên xuồng mày đã bị rơi xuống biển. Các thủy thủ đã ném phao theo
cho họ, nhưng họ không biết bơi nên không bám vào được, đã bị chìm luôn.
4.- Vụ Lưu Mỹ: Ngày 18.12.1954, 189 gia đình thuộc thôn Lưu Mỹ, xã Trù Sơn,
huyện An Sơn, tỉnh Ngệ An, đã đến trụ sở xã nộp đơn xin di cư. Việt Minh coi
đây là một tổ chức phản động nên tìm bắt những người mà họ nghi đã xách động
hay lãnh đạo dân chúng, đó là các ông Phạm Văn Như, Lê Hữu Bằng, Nguyễn Văn Hương,
Đinh Thế Xuyên và Nguyễn Văn Cung. Ông Phan Văn Như trốn về được đã báo cho mọi
người biết. Dân chúng liền kéo nhau đến trụ sở xã yêu cầu thả những người bị
bắt, nhưng họ không thả.
Biết trước thế nào
cũng bị khủng bố, dân Lưu Mỹ đã tổ chức những toán tự vệ để canh phòng. Đêm
7.1.1955, công an đến bắt một số người đem về thẩm vấn rồi đến sáng 8.1.1955
thả ra. Sau đó, Việt Minh đưa bộ đội tới bao vây thôn Lưu Mỹ. Một cuộc xô xát
đã xẩy ra vào lúc 4 giờ sáng ngày 13.1.1955. Có 11 người bị chết và nhiều người
bị thương. Nhiều người đã bị bắt dẫn đi.
5.- Vụ Ba Làng: Ngày 8.1.1955, tại Ba Làng, huyện Gia
Tỉnh, tỉnh Thanh Hòa, có khoảng 20.000 người đã tập trung tại trụ sở xã yêu cầu
được cho di cư đúng như điều 14b của Hiệp Định Genève đã quy định. Việt Minh đã
huy động cả một Trung Đoàn đến dẹp. Một cuộc xô xát đã xẩy ra. Bộ đội nổ súng
bắn, có 4 người bị chết và 6 người bị thương. Sau đó, Việt Minh lập tòa án nhân
dân ở làng bên, đem những người tổ chức và kháng cự ra xét xử. Kết quả 2 người
bị tuyên án khổ sai chung thân, 4 người bị án 20 năm và 22 người bị án 12 năm.
Khoảng 60 người đã bị bắt đưa đi mất tích.
6.- Vụ Mậu Lâm: Theo những người trốn đi di cư kể lại, vào tháng 2 năm 1955 đã xẩy
ra một cuộc xô xát đẩm máu giữa những người đòi đi di cư với bộ đội Việt Cộng
tại xã Mậu Lâm, Phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Khoảng 2000 dân đã rầm rộ kéo nhau
lên đường đi di cư. Việt Cộng liền cho 2 đại đội thuộc Sư Đoàn 304 ra chận lại.
Một cuộc xô xát đã xẩy ra. Có 5 bộ đội bị thương. Bộ đội liền xã súng bắn, có
11 người dân bị chết, nhiều người bị thương và hơn 200 người bị bắt.
7.- Vụ Cửa Lò: Biết rằng theo Hiệp Định Genèvè, người
dân có quyền tự do di cư trong hạn 300 ngày, nhiều người dân Cửa Lò, Nghệ An,
đã tìm cách ra đi bằng đường bộ hay đường biển, nhưng không ai thoát được. Tất
cả hoặc bị bắt lại, hoặc bị chết vì kiệt sức ở trong rừng hay ngoài biển. Cuối
cùng, họ đã lập được kế để chạy thoát. Đêm 1.1.1956, bổng nhiên lửa cháy dữ dội
đầu làng. Trong khi công an và bộ đội đang lo chửa cháy, dân làng vội vàng xuống
thuyền ra khơi, bọn công an không hay biết gì. Đoàn thuyền đi đến trưa hôm sau
thì thấy có tàu chiến Pháp xuất hiện ở ngoài khơi. Họ cột một cái áo trắng lên
cây sào và vẩy. Tàu chiến Pháp biết có người đang kêu cứu, đã cho tàu chạy sát
vào các thuyền của họ và vớt tất cả lên tàu. Đến 2 giờ đêm 2.1.1954, tàu cập
bến Hải Phòng. Mọi người đều sung sướng reo hò, nhưng không ai quên được một em
bé 12 tuổi tình nguyện ở lại đốt làng để cầm chân bọn công an và bộ đội, không
biết số phận em sau đó ra sao.
Tóm lại, tại các xứ Công Giáo, vì việc ra đi có lãnh đạo,
có kế hoạch và có tổ chức, nên số thoát được nhiều hơn. Nhưng nhìn chung, đa số
đều phải ở lại. Một thí dụ cụ thể: Mặc dầu bị kiểm soát rất chặt chẽ, ở xã Xuân
Liên có ba thôn, tại thôn Hạ có 95 gia đình đã thoát đi toàn vẹn, 28 gia đình
bị dang dở. Tại thôn Lạc Thủy, có 124 gia đình trốn thoát được. Tại thôn Liên
Thượng, hơn 30 gia đình đã đi được.
Theo một tài liệu mà nhân viên an ninh lúc đó bắt được, Trung
Ương Đảng Lao Động Việt Nam (sau này đổi thành Đảng CSVN) ước lượng rằng nếu không có biện pháp ngăn chận, sẽ có
khoảng 5 triệu người bỏ miền Bắc ra đi. Sự kiện này sẽ đưa đến những kết quả tai hại về cả phương diện
chính trị lẫn kinh tế. Vì thế, Trung Ương Đảng đã ra chỉ thị phải tìm cách ngăn
chận phong trào di cư lại.
Để giải thích hiện tượng người người bỏ miền Bắc ra đi này,
Việt Cộng đã nhiều lần tuyên bố rằng đồng bào miền Bắc đã bị “cưởng ép” di cư
và chính phủ Ngô Đình Diệm cũng như người Mỹ đã tuyên truyền rằng “Đức Mẹ đã
vào Nam” để đánh lừa đồng bào công giáo chạy theo. Trò bịp bợm này đã được lặp
đi lặp lại trong nhiều bộ phim tuyên truyền, và cũng được dùng để giải thích
tình trạng hang triệu đồng bào bỏ nước ra đi sau 30.4.1975.
Điều đáng buồn cười là hiện nay luận điệu đó lại được bọn
bồi bút như Bùi Kha
của nhóm Giao Điểm,
công cụ tuyên truyền của “Đảng ta” lặp lại trong bài “Ngô Đình Diệm, tại sao
ông thất bại?” đăng trên GiaoDiem.net, tháng 9 năm 2003 hay “Tiến Sĩ” Lê Cung chép lại một cách trình trọng trong tác
phẩm ấu trỉ mang tên “Phong Trào Phật Giáo Miền Nam Việt Nam năm 1963”!
NHỮNG NỖ LỰC CỦA CHÍNH PHỦ NGÔ ĐÌNH DIỆM
Ngày 6.8.1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã gởi văn thư yêu
cầu chính phủ Hoa Kỳ cung cấp viện trợ để di chuyển khoảng 100.000 người di cư
từ Bắc vào Nam. Trong thư phúc đáp ngày 8.8.1954, chính phủ Hoa Kỳ đồng ý cung
cấp cho chính phủ Việt Nam những vật dụng cần thiết để di tản đồng bào muốn di
cư ra khỏi vùng sẽ trao lại cho Việt Minh và sẽ hợp tác chặt chẽ với chính phủ
Việt Nam để bảo đảm rằng viện trợ của Hoa Kỳ đáp ứng một cách hữu hiệu nhu cầu
của chính phủ và dân chúng Việt Nam.
Mỗi ngày, các phi cơ của Pháp có thể di tản khoảng 3.400
người từ Hà Nội và Hải Phòng đến Sài Gòn. Hải Quân Pháp cũng được xử dụng để thực
hiện việc di tản. Tuy nhiên, với những phương tiện sẵn có, Pháp không thể vận
chuyển hết số người di tản trong thời gian ấn định được. Theo lời yêu cầu của
chính phủ Việt Nam, Hoa Kỳ cũng đã đưa tàu tới phụ giúp. Theo sự ước tình, phải
di tản ít nhất 200.000 người ra khỏi Hà Nội và Hải Phòng trước ngày 10.9.1954.
Đô Đốc Felix Stump đã ra lệnh cho các tàu đổ bộ thuộc Hạm Đội Tây Thái Bình
Dương vào Hải Phòng và các cảng ở miền Trung (Đồng Hới) để di tản từ 80.000 đến
100.000 người.
Để hoàn thành cuộc
di tản vĩ đại này:
- Về hàng không, Pháp đã thực hiện 4.280 chuyến bay, vận
chuyển được 213..635 người.
- Về tàu thủy, Pháp thực hiện 338 chuyến và Mỹ 109 chuyến,
vận chuyển được 555.037 người.
Những người di tản bằng phương tiện riêng hay vượt qua sông
Bến Hản thì không kể.
Đầu tháng 8 năm 1954, chính phủ đã thành lập Sở Di Cư để lo việc tản cư, tiếp cư và định cư.
Nhưng về sau, vì phong trào di cư bùng nổ quá lớn, chính phủ đã phải thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị Nạn để phụ trách công việc này. Lúc đầu, ông
Ngô Ngọc Đối được cử làm Tổng Ủy Trưởng. Sau đó, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và ông
Ngô Ngọc Đối đã thuyết phục Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi đứng ra thành lập “Ủy Ban Hổ Trợ Di Cư” để yểm trợ Phủ Tổng Ủy Du Cư và Tỵ Nạn về
tinh thần lẫn vật chất. Trong vài trò này, Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi đã đi vận
động các tổ chức quốc tế yểm trợ phong trào di cư của Việt Nam.
Kết quả: Đã có 860.206 người di cư được đưa vào Nam, chia ra như sau:
- Thiên Chúa Giáo: 677.389 người (Công Giáo: 676.348 người,
Tin Lành: 1.041 người)
- Phật Giáo: 182.817 người
Sau cuộc di cư năm 1954, số giáo dân còn lại ở miền Bắc
khoảng 750.000 người với 254 linh mục và 7 Giám Mục, chia làm 10 Giáo Phận.
Ngoài ra, Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Dooley cũng đã ở lại với Giáo Hội miền Bắc.
Các trại định cư đã được lập từ Quảng Trị đến Cà Mau. Có
tất cả 315 trại định cư dành cho 508.999 người, chia ra như sau:
- Nam phần: 206 trại với 393.354 người.
- Trung phần: 59 trại với 61.094 người.
- Cao nguyên: 50 trại với 54.551 người.
NHỮNG TÊN ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG
Sau khi Hiệp Định Genève được ký kết, tỉnh Quảng Bình được
trao cho Việt Minh. Quân đội, công chức và dân chúng khắp nơi trong tỉnh tìm
mọi phương tiện để rời khỏi Quảng Bình. Hai phương tiện được dùng để di cư đồng
bào một cách nhanh chóng là tàu thủy và máy bay.
Lúc đó tôi còn nhỏ, nhưng đã cùng một số anh em tham gia
vào toán tiếp cư do linh mục Georges Neyroud, tuyên úy Quân Đội Pháp thành lập.
Ngày 1.8.1954, linh mục cho biết linh mục phải vào gấp Đồng Hà và Đà Nẵng để lo
cho đồng bào mới vào, ông cần mấy người biết tiếng Pháp ở lại tiếp tục đón tiếp
các đồng bào ở xa tới và cấp giấy cho họ đi.
Gia đình chúng tôi đã vào Đà Nẵng hết rồi, nhưng tôi và một
số anh em vẫn còn ở lại lo công việc tiếp cư. Khi nghe linh mục Georges Neyroud
hỏi như trên, tôi, anh Nguyễn
Kim Thuyên và anh Lê Trung Tha xin tình nguyện ở lại. Thấy chúng tôi còn
quá nhỏ, ông hơi do dự, nhưng không còn ai khác, mọi người đã lo đi càng sớm
càng tốt, nên ông đành chấp nhận cho chúng tôi ở lại và giới thiệu một Trung Úy
người Pháp đến làm việc chung với chúng tôi. Ông ném lại cho chúng tôi hai tạ
gạo và một thùng lựu đạn OF. Đó là lương thực của chúng tôi. Mỗi ngày chúng tôi
đem một trái lựu đạn OF ném xuống sông rồi lặn xuống bắt cá đem lên luộc ăn với
cơm. Sông Nhật Lệ quá nhiều cá nên có khi chúng tôi ăn cá thay cơm.
Công việc của chúng tôi cũng không có gì khó khăn. Chúng
tôi tiếp những người trốn được từ vùng quê hay từ bắc Quảng Bình và Hà Tĩnh
vào, lấy lý lịch của họ ghi vào một tấm thẻ màu đỏ, bắt họ lăn ngón tay cái vào
thẻ, rồi chuyển cho Trung Úy người Pháp để anh này dẫn họ đến một phòng tiếp cư
đợi lên tàu vào Đà Nẵng. Cứ theo lời khai của những người trốn được từ vùng
sông Gianh vào, nếu có sự can thiệp của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, sẽ
có hàng chục ngàn người thuộc hạt Bình Chính như Hướng Phương, Hòa Ninh, Đồng
Trác, Gia Hưng, v.v., và ở Hà Tĩnh sẽ bỏ ra đi. Nhưng chúng tôi chẳng biết làm
gì để giúp đỡ họ.
Trung úy ngườI Pháp đến giúp chúng tôi chưa đến 30 tuổi và
rất tháo vát. Trong những lúc rảnh việc, ông quay về đơn vị mượn dây dù và các
dụng cụ để trục cái chuông lớn từ trên tháp cao của nhà thờ Tam Tòa và cây đàn
Harmonium ở phòng ca đoàn xuống rồi đưa lên tàu. Vì thấy tàu của Pháp còn khá
rộng, ông và chúng tôi tháo các bàn thờ và ghế trong nhà thờ ra và cho xuông
tàu luôn. Các vật dụng này hiện đang được xử dụng tại nhà thờ Tam Tòa ở Đà
Nẵng.
Trong khi chúng tôi lo tiếp những người từ xa đến thì trên
đường phố của thành phố Đồng Hới, Việt Minh tổ chức biểu tình “hoan hô Cách
Mạng” liên tiếp từ ngày này qua ngày khác với thái độ hung hăng, nhưng chúng
tôi chẳng ai lo sợ gì cả!
Sáng 8.8.1954, Trung Úy ngưới Pháp đến báo tin cho chúng
tôi biết phải rời thành phố chiều hôm nay và phải đi bằng đường bộ vượt qua
sông Bến Hải, vì không còn phương tiện tàu thủy hay máy bay nữa. Con đường từ
Đồng Hới đến Bến Hải dài 71 cây số. Cách đây một năm, ba chúng tôi đã dám vượt
qua các bãi mìn, đi bộ từ Bến Hải đến Đống Hới, nên khi được bảo phải đi bằng
đường bộ, chúng tôi không có chút lo ngại nào. Đúng là điếc không sợ súng!
Chiều hôm đó, khi chúng tôi qua khỏi phà Quản Hàu, cách
thành phố Đồng Hới khoảng 3 cây số, quay nhìn lại thì thành phố đang cháy!
Tôi nhớ lại, khi tôi trao tấm thẻ đỏ di cư cho người anh họ
của tôi là anh Nguyễn Thật để lên đường vào Đằ Nẵng, anh ấy đã cúi đầu xuống và
thở dài: “Đi như thế
này rồi cũng mất nữa thôi!” Lời tiên
đoán đó đã đúng 20 năm sau!
Trong ba chúng tôi, anh Lê Trung Tha vừa qua đời, anh
Nguyễn Kim Thuyên đang ở Việt Nam, còn tôi ở Mỹ đã ngồi nghi lại những dòng
này.
Ngày 20.7.2018
Lữ Giang