NGÔ THÌ
NHẬM ĐỀ THƠ
TRÊN BÌNH
PHONG VUA QUANG TRUNG
TS PHẠM
TRỌNG CHÁNH
Vua Quang Trung là một vị vua anh minh, trân
trọng anh tài hào kiệt, bên cạnh chổ ngồi tiếp nhân tài nhà vua
là bức bình phong một mặt là bức họa
“Đào viên kết nghĩa” và mặt khác là ‘ Tam cố thảo lư “. Cả hai
bức tranh đều có điển tích từ Tam Quốc Chí.
Cuộc gặp gỡ Ngô Thì Nhậm, nhà vua đã
mời ông đề thơ lên hai bức họa trên bình phong. Trong bài này tôi xin
dịch lại hai bài thơ chữ Hán của Ngô Thì Nhậm và đọc lại chuyện Tam
Quốc Chí hai đoạn liên hệ để thấy tấm lòng vua Quang Trung đối với
những bậc hiền tài. Với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ bao
lần viết thư mời trên trọng
và cuộc gặp gỡ với vua Quang Trung đã được Gs Hoàng Xuân Hãn chép
trong trong quyển La Sơn Phu Tử. Với Nguyễn Nễ, bài thơ
Phan Huy Ích đã nhắc đến việc vua
Quang Trung thường gióng ngựa quí đến thăm và bàn bạc việc nước. Với
Phan Huy Ích nhà vua trân trọng tập thơ Tinh Sà Kỷ Hành, ký sự cuộc
đi sứ (với vua Quang Trung giả ) và khen thơ ông có khí cốt. Với Ngô
Thì Nhậm việc nhờ đề thơ trên bức bình phong bên cạnh nhà vua,
thật là một vinh dự nói lên tấm lòng và sự trân trọng của nhà
vua.
Bức tranh cuộc kết nghĩa tại vườn đào
quận Trát của ba người : Lưu Bị, dòng dõi nhà Hán, và Quan Vũ,
Trương Phi vào cuối đời Hán, chính sự rối loạn, giặc Khăn Vàng Trương
Giác nổi lên đông đảo hơn bốn trăm ngàn quân, quân triều đình không
đương đầu nỗi, ba người cùng trích máu hòa rượu ăn thề kết làm anh
em ruột thịt, mưu việc dẹp giặc phù nhà Hán. Ngô Thì Nhậm viết
: Trời xui những người hào kiệt kết thành anh em ruột. Đồng bào là
anh em ruột cùng bụng mẹ sinh ra. Truyền thuyết mẹ Âu Cơ sinh ra, trăm
trứng thành trăm con thành dân tộc Việt nam, đầu thế kỷ 20 hai cụ Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh dùng chữ đồng bào trong thư kêu gọi, từ đó
chữ đồng bào mang ý nghĩa là dân tộc Việt Nam. Ba anh em nặng lời
đính ước lửa hương. Quyết không để cho một tấc đất lọt vào tay
họ Tôn, họ Tào. Họ Tôn (Tôn Kiên,Tôn Sách, Tôn Quyền) nước Ngô, và họ
Tào (Tào Tháo, Tào Phi) hai họ đối kháng với Lưu Bị nước Thục thời
Tam Quốc khi nhà Hán suy yếu. Khi ba người kết nghĩa Đào Viên chỉ vì
muốn giúp triều đình dẹp giặc Huỳnh Cân ( Khăn Vàng). Tào Tháo lúc
đó chỉ là một huyện úy dẹp giặc Khăn Vàng chưa nổi danh. Tôn Kiên là
Thái Thú Trường Sa, hai con Tôn Sách, Tôn Quyền chỉ mới mười mấy
tuổi. Phải đợi đến khi gặp Khổng Minh, ông mới bàn việc lấy
Kinh Châu, Ích Châu để tạo ra thế cục chia ba Trung Quốc. Điều Ngô Thì
Nhậm muốn nói đây là thời điểm năm 1788, khi gặp Nguyễn Huệ, thế cục
chia ba Việt Nam đang có những đe dọa trầm trọng. Phía Bắc vua Lê Chiêu
Thống cầu viện nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị đang chuẩn bị đem quân sang lấy
cớ phò Lê giúp vua Chiêu Thống, theo lời dặn dò vua Càn Long chủ tâm
đợi quân khởi nghĩa nhà Lê đánh với quân Tây Sơn, hai bên kiệt sức sẽ
áp dụng chính sách ”Ngư ông đấc lợi” bắt cả trai cò vào giỏ làm thịt;
biến Việt Nam thành quân huyện. Phía Nam, Nguyễn Ánh dùng kế ly gián,
khiến Nguyễn Lữ nghi ngờ tướng Phạm Văn Tham rút quân chạy về Bình
Định, làm mất cả Nam Kỳ. Ngô Thì Nhiệm muốn tỏ tấm lòng giúp
Nguyễn Huệ quyết tâm không để mất tất đất, người đã tâm đắc trò
chuyện cùng ông, giao ông trách nhiệm Tả Thị Lang bộ Lại, tổ chức
nội vụ triều Tây Sơn. Vua hiền, tôi sáng quy tụ một triều đình.
ĐÀO VIÊN KẾT NGHĨA
Trời xui hào kiệt kết đồng bào,
Thề thốt lòng sâu dưới gốc đào,
Lửa hương đính ước tình xem trọng,
Chẳng cho tất đất lọt Tôn, Tào.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
ĐỀ NGỰ BÌNH ĐỒ
ĐÀO VIÊN KẾT NGHĨA
Thiên tương anh kiệt kết đồng bào,
Thệ bả thâm tâm tố dữ đào,
Kha thúc thử phiên hương hỏa đính,
Khẳng giao thốn thổ hứa Tôn, Tào.
Đời vua Linh Đế nhà Hán có giặc Khăn
vàng của Trương Giác, làm bùa phép dân chúng tin phục. Đầu vấn khăn
vàng, tay cầm cờ vàng quân hơn bốn mươi vạn người. Trương Giác kéo
quân đến đâu phủ huyện quan quân đều sợ hoảng hồn.
Tam Quốc Chí. Hồi thứ nhắt viết :
“Trương Giác đem binh tới U Châu, quan Thái
thú đất ấy tên Lưu Yên. Người dòng tôn thất, tánh hạnh hiền lành,
nghe quân báo giặc tới, thì vội vàng thương nghị với hiệu úy là
Trần Tịnh. Tịnh thưa rằng: “Binh giặc thì nhiều, mà binh ta thì ít
lắm, tôi e khó đương địch lại, xin lập tức treo bảng mộ binh.”
Lưu Yên khen phải liền sai quân truyền bản văn chiêu quân đi khắp nơi, đến Trát huyện.
Có một người ở tại Trát huyện, tên là
Lưu Bị, tên chữ là Huyền Đức, cũng dòng tôn thất, con cúa Lưu Hoằng :
cha chết sớm, ở với mẹ chí hiếu, tánh khoan dung hoà hoãn, ít hay
nói, không ham đọc sách mà biết chữ nghĩa nhiều, mừng giận tự nhiên
chẳng khi nào bày ra ngoài mặt, lòng chứa chất kinh luân tráng chí,
hay giao du với hào kiệt anh hùng. Hình trạng khôi ngô tuấn tú, diện mạo
đẹp đẽ, mình cao tám thước, tay dài chí gối, tai thòng xuống đến
vai. Trong nhà nghèo, nhờ dệt chiếu thắt dây mà độ nhật. Nơi góc
vườn nhà có cây dâu lớn, lá nó ở trên xây lại một vầng tròn, đứng
xa trông như cái tàng lộng, có ông thầy tướng thấy thì khen : “ Nhà
ấy chắc có sanh đặng quí nhơn.”
Khi Lưu Bị còn nhỏ giởn với con nít dưới
cây dâu ấy, thình lình nói rằng : “ Nếu tao làm vua được, thì che cả
tàn này.” Chú của Lưu Bị là Lưu Nguyên Khởi nghe cháu nói vậy lấy
làm kỳ lạ, biết tượng khí cháu mình không phải là người thường.
Bởi vậy, nên thấy Lưu Bị lúc 15 tuổi vâng lời mẹ dạy, đi học với
Trịnh Huyền làm bạn với Lư Thực và Công Tôn Toản.
Bây giờ Lưu Bị đã hăm tám tuổi rồi.
Ngày ấy thấy bảng chiêu mộ quân thì ngùi ngùi than thở, có một
người đang đứng sau lưng, cất tiếng hỏi rằng : “Bổn phận làm trai,
đang cơn quốc gia nguy biến, sau không ra giúp nước mà đứng đây than dài
? “ Lưu Bị nghe nói ngoái lại thì thấy người ấy to lớn, mạnh dạn,
mình cao tám thước, đầu beo râu hùm, con mắt tròn, tiếng nói lớn, bộ
tịch nóng nẩy, trang mạo hào hùng, liền hỏi thăm tánh danh, người ấy
nói rằng : “Tôi tên Trương Phi, tên chữ Dực Đức, nhà ở tại xứ này,
ruộng đất đủ dùng, thường bán thịt heo rượu ngon, tánh ham chơi với
các kẽ sĩ hào hùng; nay cũng đi coi bảng này, thấy ông thở ra nên
mới hỏi.” Lưu Bị nói : “
Tôi vốn dòng dõi Hán triều tên là Lưu Bị, nay thấy gặc Huỳnh
Cân khởi loạn, lòng muốn ra giúp nước cứu dân, song nghèo không tiền,
tài mọn sức yếu, bởi vậy nên buồn mà than. “ Trương Phi nói : “Nhà
tôi có tài sản, chừ ta chiêu mộ dõng dân đặng mà khởi nghĩa với
nhau, nên chăng ? “ Lưu Bị mừng
lắm ! bèn rũ nhau vào quán mà uống rượu
trò chuyện, bổng thấy một người đẩy cổ xe tay mà tới trước
quán, để xe đó vào nghỉ, kêu chủ quán bảo đem rượu uống. Lưu Bị
ngồi ngắm người ấy: mình cao chín thước. râu dài hai thước, mày tằm
mắt phượng, oai phong lẫm liệt, liền đứng dậy mời lại ngồi chung một
bàn, hỏi thăm tính danh quê quán, thì người ấy nói : Tôi là Quan Vũ,
tên chữ là Thọ Trường, sau cải tên là Vân Trường. ở quận Hà Đông,
huyện Giải Lương. Xứ ấy có một người giàu lớn, ỷ thế hoành hành,
tôi bất bình đánh chết, bị quan quân tập nả cho nên lưu lạc đã sáu
năm dư, nay tôi nghe chỗ này mộ quân, nên tới đây mà ứng nghĩa. Lưu Bị
thuật lại chuyện gặp Trương Phi cho Vân Trường nghe, Vân Trường có lòng
mừng. Ba người liền hỏi tuổi nhau. Rồi đi về nhà Trương Phi mà bàn
việc đại sự. Trương Phi nói : “Nhà tôi có một vườn đào, bông đang nở
tốt, vậy ngày mai ta ra đó, tế cáo trời đất kết làm anh em, đồng tâm
hiệp lực, thì cử sự mới đặng, Huyền Đức và Vân Trường đều khen
phải. Nội ngày ấy sắm sửa đồ lễ vật. Qua sáng bữa sau làm
thịt một con bò đen và một con bò trắng mà tế cáo thiên địa. Ba
người đốt hương quì lạy thệ nguyện
cùng nhau mà lập lời thề rằng :
“Tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi. Tuy ba
người họ tên đều khác, hội vườn đào kết nghĩa anh em, mộ trai tráng
dũng mãnh trừ tặc ác. Hiệp sức phò Hán thất giang san, gặp
họa phúc cùng nhau ưu lạc. Không cầu đồng năm đồng tháng ngày sinh,
chỉnh nguyện đồng năm đồng tháng ngày thác. Cao dày soi xét tấm lòng
không đơn sai, ai có vong ân trời đất phạt.”
Thề rồi, Huyền Đức làm anh cả, Vân
Trường em thứ nhì, Trương Phi làm em thứ ba. Dọn rượu thịt mời bốn
phía tráng đinh láng giềng tới ăn uống tại Đào Viên, tính đặng ba
trăm người, nội một ngày no say. Dự bị đồ binh khí, mọi người đều
có lòng khí khái hăng hái tòng chinh, song hiềm vì chưa có ngựa mà
cỡi, đương ngẫm nghĩ bàn định, xãy ra có người ngoài xóm tới báo
rằng: Có hai người thương khách. đi với một bọn gia nhân, đuổi một
bầy ngựa mà đi thẳng vào đây. Lưu Bị nói : “May dữ !” Ba anh em đều ra
nghinh tiếp. Hỏi ra thì hai người lái buôn, một người tên là Trương
Thế Bình, một người tên là Tô Song, thường qua xứ Bắc Biên mua ngựa
về bán, nghe có giặc ghé vào hỏi thăm. Lưu Bị thỉnh vô nhà, cơm rượu
thết đãi và tỏ sự khởi nghĩa. Hai người mừng rỡ bằng lòng giúp cho
50 con ngựa, một ngàn cân sắt, năm trăm lượng bạc, năm trăm lượng
vàng rồi từ giả ra đi.
Lưu Bị bảo thợ rèn, rèn cho mình đôi song
kiếm, Vân Trường một cây Thanh long đao, nặng 82 cân, Trương Phi một cây
xà mâu và sắm đủ ba bộ giáp. Cách vài ngày nữa, qui tụ cộng thảy
đặng 500 người.
Ba người kéo binh ra mắt Trần Tịnh. Trần
Tịnh đem vào yết kiến. Lưu Yên hỏi thăm tên họ, thì Lưu Yên nhìn Lưu
Bị là cháu.”
Vua Quang Trung bày trong trướng bức tranh
Đào Viên kết nghĩa nhằm tỏ ý muốn kết nghĩa anh em với anh hùng hào
kiệt.
Lưu Bị từ hai bàn tay trắng, chỉ có danh
là dòng dõi nhà Hán, biết mình tài hèn sức yếu, không vốn liếng,
chỉ một lời than vãn được Trương Phi lắng nghe, nhìn Quan Vũ biết ngay
là một người hào kiệt. Ba người kết nghĩa anh em, khi tỏ ý chí muốn
dẹp giặc, cứu nguy đất nước, phút chốc đã có bao người đến giúp,
năm trăm tráng đinh đến dưới cờ, Trương Thế Bình, Tô Song giúp 50 con
ngựa, ngân cân sắt, 500 lượng vàng, 500 lượng bạc.. Ngày xưa “quốc gia
hưng vong, thất phu hữu trách” Khi có hịch kêu gọi nhà vua, người
có uy tín trong nhân dân tự đứng ra tổ chức quân binh góp sứ với quân
triều đình. Ta còn thấy ở nước ta khi quân Pháp chiếm Nam Kỳ năm 1862,
Trần Thiện Chánh, một quan tri huyện bị cách chức, đã tự bán toàn
bộ tài sản nhà mình chiêu mộ và sắm sửa vũ khí cho năm ngàn quân
kháng chiến vùng Hóc Môn, Bà Điểm, ông lại được triều đình phục
chức.
Bức Tam cố thảo lư;
Lưu Bị
ba lần đến mái nhà tranh cầu Khổng Minh. Đời Hán Chư Cát Lượng tự
là Khổng Minh, ở ẩn đất Nam Dương. Lưu Bị nghe nói là người tài
giỏi, thân hành đến nơi lều cỏ mời làm quân sư, nhưng phải ba lần đến
mới gặp được Khổng Minh. Cát Lượng muốn thử ý cầu hiền thành khẩn
của Lưu Bị, nên không cho gặp ngay. Người đời sau nhân gọi việc ba lần
đến cầu Chư Cát Lượng là Tam cố thảo lư. Ngô Thì Nhậm viết :
Hán với giặc đã nhận rõ, tấc lòng thường canh cánh bên gối
nằm. Đường đường một người dòng dõi vua nhà Hán tới thăm trước lều
cỏ. Ai hay cái nơi chuyện trò tâm
sự trong chốc lát. Lạ mưu được một
cõi giang sơn trong năm mươi năm trường.
TAM CỐ THẢO LƯ
Hán, giặc phân minh bên gối nằm,
Dòng vua đến trước mái nhà tranh.
Ai hay khoảng khắc cùng tâm sự,
Mưu được giang sơn năm mươi năm.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
TAM CỐ THẢO LƯ
Hán tặc phân minh trí chẩm biên,
Đường đường đế trụ thảo lư tiền.
Thùy tri khoảng khắc đàm tâm xứ,
Mưu đắc giang sơn ngũ thập niên.
Chuyện
Tam cố thảo lư , Hồi thứ 38 Tam Quốc Chí viết :
“Nói về Huyền Đức tìm Khổng Minh hai phen
mà không gặp, bèn muốn đi một lần nữa. Quan Công thưa rằng : “Huynh
trưởng hai phen khẩn cầu, thì cũng đã quá rồi, em tưởng Khổng Minh
có danh dối chớ không thiệt giỏi, nên mới lánh mình, sao anh mê hoặc
lắm vậy ?”Huyền Đức nói : “Không phải, chúa Tề Hoàn Công xưa kia muốn
viếng Đông Quách là kẻ quê mùa kia, đi năm lần mới đặng, huống chi
ngày nay ta muốn ra mắt đại hiền.” Trương Phi nói : “ Đại ca nói sai
rồi , giá một kẻ thôn phu như vậy, có chi là đại hiền. Phen này
chẳng cần chi đại ca phải đi, như va không đến, thì để em đây lên đó trói
quách qua dẫn về. “ Huyền Đức nạt rằng: “ Vậy ngươi chẳng biết việc
vua Văn Vương cầu ông Khương Tử Nha sao ? Vua Văn Vương còn kính trọng
người hiền như thế ấy, sao người vô lễ lắm vậy ! Thôi ! phen này
người chớ đi, để ta với Vân Trường đi mà thôi. “ Trương Phi nói : “ Như hai anh đi hết, thì
lẽ nào mà em ở lại kìa?. Huyền Đức nói : “ Như người muốn đi thì
chớ nên làm cho thất lễ.” Trương Phi chịu, rồi đó ba anh em lên ngựa,
dắt kẻ tùy tùng mà thẳng lên Ngọa Long Cương.
Đi gần đến nhà Khổng Minh còn cách chừng
nửa dậm đàng, thì Huyền Đức xuống ngựa mà đi bộ. Vừa gặp Gia Cát
Quân, Huyền Đức vội vả làm lễ mà hỏi rằng : “Lệnh huynh hôm nay có
ở nhà chăng ?” Quân thưa rằng : “Mới về hồi chiều hôm qua. Tướng quân
phen này chắc gặp anh ta đặng.” Nói rồi bỏ đi mất. Huyền Đức nói : “
Phen này may lắm mới đặng gặp Tiên sinh.” Trương Phi nói : “Người ấy vô
lễ quá, lẽ thì dắt bọn ta về nhà mới phải, sao lại dám bỏ đi như
vậy kia.” Huyền Đức nói : “Ai có việc nấy. Chẳng thể ép người
ta chuyện ấy.” Nói rồi đến thẳng trước nhà mà gỏ cửa. Đồng tử ra
hỏi . Huyền Đức nói : “ Xin tiểu đồng làm ơn thưa với Tiên sinh, rằng
có Lưu Bị đến xin ra mắt.” Đồng tử nói : “ Tiên sinh hôm nay tuy có ở
trong nhà song còn đang ngủ chưa dậy.” Huyền Đức nói : “Nếu vậy thì
người khoan vào thưa đã.” Bèn căn dặn Quan, Trương ở ngoài cửa mà đợi,
Huyền Đức khẽ lén vào. Thấy Tien sinh nằm ngữa trên ghế mà ngủ, thì
Huyền Đức vòng tay mà đứng dưới thềm. Giây lâu Tiên sinh chưa dậy.
Quan, Trương đứng ngoài đợi đã lâu mà chưa thấy động tịnh, lén lén
bước vào, thấy Huyền Đức đang đứng hầu, thì Trương Phi nổi giận nói
với Vân Trường rằng : “Lão này thiệt khinh dễ chúng ta quá, lão thấy
đại ca đứng hầu dưới thềm, lão lại nằm ngay chơn giò mà giả đò
ngủ. Thôi để em ra phía sau kia nổi lửa đốt chòi coi thử lão dậy hay
không.” Vân Trường la hết sức mới chịu thôi. Huyền Đức bảo hai người
ấy ra ngoài mà đợi, rồi ngó lên ghế thì thấy Tiên sinh ấy trở mình
muốn dậy, rồi lại day mặt vào vách ngủ lại. Đồng tử muốn kêu.
Huyền Đức bảo đừng, rồi cứ việc đứng đợi suốt giờ. Thì Khổng Minh
mới thức dậy mà ngâm thơ., ngâm rồi quay lại hỏi đồng tử : “ Có
thằng cha khách rài nào đến đây chăng ?” Đồng tử thưa rằng :”Có Lưu
hoàng thúc đứng đợi thầy đã lâu.” Khổng Minh ngồi dặy mà quở rằng :
“Sao mi không kêu ta ?” Bèn vào nhà sau đặng sửa soạn áo mão. Giây lâu
mới ra rước Huyền Đức. Huyền Đức xem thấy Khổng Minh mình cao tám
thước, mặt như mão ngọc, đầu bịt khăn be, mình mặc áo rộng trắng,
phong thái tựa thần tiên. Huyền Đức quỳ lạy nà rằng : “ Tôi là ngu
phu dòng dõi nhà Hán, nghe danh Tiên sinh như sấm rền tai, đã hai phen
đến viếng mà không gặp, nên tôi có để lại một bức thư, chẳng hay Tiên
sinh đã xem chưa? Khổng Minh đáp rằng : “ Tôi là kẻ quê mùa đất
Nam Dương, tính tình thưa lạc, mong ơn tướng quân đến đây mấy phen, thì
tôi lấy làm áy náy.” Bèn mời Huyền Đức uống trà. Uống rồi thì Khổng
Minh mới nói : “Hôm qua tôi xem ý ông thì cũng biết ông hết lòng giúp
nước, ngặt vì tôi tuổi nhỏ tài hèn, nhọc lòng tướng quân hỏi đến.”
Huyền Đức nói : “Lời Tư Mã Đức Thảo với Từ Nguyên Trực nói lẽ nào
lại sai sao ? Xin Tiên sinh đoái nghĩ mà dạy bảo một hai điều.” Khổng
Minh nói: “Đức Thảo với Nguyên Trực thông thái trên đời, còn tôi đây
là đứa cày ruộng, dám đâu nói đến việc thiên hạ ? Hai người ấy chỉ,
làm sao tướng quân bỏ ngọc mà đi tìm đá vậy ?” Huyền Đức nói: “Đấng
trượng phu có tài kinh bang tế thế, ở nhà làm chi trong chốn lâm
tuyền, xin Tiên sinh lấy thiên hạ sanh linh làm trọng, khai đường chỉ
nẻo mà dạy tôi.” Khổng Minh cười rằng : “ Chí ông muốn thế nào
xin nói cho tôi rõ.” Huyền Đức thưa
rằng : “ Nhà Hán nghiêng ngữa, gian
thần trộm lệnh. Lưu Bị chẳng biết lượng sức mình, nên muốn ra
nghĩa cả cùng thiên hạ lắm. Nhưng tài trí thưa thớt, làm không xong
việc, xin nhờ Tiên sinh mở lòng mà cứu nguy, thiệt là ơn trọng !” Khổng Minh nó: ” Từ Đổng Trác làm nghịch đến nay, bốn
phương hào kiệt đều nổi dậy. Tào Tháo không thể bằng Viên Thiệu, mà
lại thắng Thiệu được, ấy chẳng những là thời trời, mà cũng nhờ có
nhân mưu nữa. Nay Tào Tháo cầm binh bá vạn, lấy thế thiên tử mà sai
khiến chư hầu thì chưa nên tranh phương với va. Tôn Quyền chiếm cứ Giang
Đông đã ba đời rồi, nước đã hiểm mà dân lại theo, ấy thì nên dùng
làm binh viện chớ không nên đánh. Đất Kinh Châu phía Bắc có sông Hán
ngăn trở lợi trọn Nam Hải, phía Đông liền với Ngô Hội, phía Tây thông
với đất Ba Thục ấy là một chỗ dụng võ, nếu không đáng Chúa thì
giữ không được chổ ấy là chỗ trời cho, tướng quân có ý đó chăng ?
Đất Ích Châu hiểm trở, đồng ruộng ngàn dậm, ấy là nước Thiên Phủ, Hán Cao Tổ
xưa kia cũng nhờ đó mà nên nghiệp đế. Nay Lưu Chương suy nhược, dân đông
nước giàu mà chẳng biết thương xót, kẻ trí người hiền đều ước ao
cho được Minh quân; Tướng quân là dòng dõi nhà vua, tín nghĩa rải
khắp bốn biển, tom góp anh hùng, trông người hiền như khát nước, nên
gồm cả Kinh Châu và Ích Châu, mà giữ lấy hiểm trở, phía Tây thì hoà
với mấy Mán Mọi, phía Nam thì gồm trí đất Việt, ngoài thì kết với
Tôn Quyền, trong thì trao dồi nhân chính, đợi thiên hạ sinh biến rồi,
thì sai một thượng tướng đem hết binh Kinh Châu qua Oản Lạc, còn Tướng
quân bản thân đẫn hết binh Ích Châu mà ra ngã Trần Xuyên, thì bá tánh
ai lại không đai cơm bầu nước mà rước Tướng quân? Được như vậy thì nghiệp cả ắt nên, nhà Hán
ắt dấy lại, ấy là chỗ tôi lo cho Tướng quân đó, xin Tướng quân liệu
lấy.” Nói rồi bèn khiến tên đồng tử lấy một bức bản đồ treo giữa
nhà, rồi chỉ mà nói với Huyền Đức rằng : “ Ấy là bản đồ phía Tây
Châu, hết thảy năm mươi bốn châu đó. Tướng quân muốn nên nghiệp bá, thì
phía Bắc phải nhường cho Tào Tháo chiếm Thiên thời, phía Nam thì
nhường cho Tôn Quyền chiếm chổ Địa lợi , còn Tướng quân chiếm lấy
chỗ Nhân hoà, vậy thì trước phải lấy Kinh Châu làm căn bản, sau sẽ
lấy Tây Xuyên khai cơ lập nghiệp, làm cho nên thế đỉnh túc (ba chân
vạc) rồi sau sẽ đánh thốc qua Trung Nguyên. “ Huyền Đức nghe nói đứng dậy chắp tay
xá mà thưa rằng : “Lời Tiên sinh nói như mở chông gai, mà làm cho Lưu
Bị này như rẽ mây thấy ngút trời xanh, hiềm vì Kinh Châu Lưu Biểu,
Ích Châu Lưu Chương, cũng đều tôn tộc nhà Hán, Lưu Bị đâu nỡ thâu đoạt
cho đành.” Khổng Minh nóí: “Tôi xem thiên văn, biết Lưu Biểu sống chẳng
được lâu, còn Lưu Chương thì không phải Chúa mà lập nghiệp đặng, sau
này ắt về tướng quân.” Huyền Đức nghe nói liền tạ ơn. Huyền Đức quì lạy thỉnh Khổng Minh
rằng : “Bị tuy danh hèn đức mỏng xin Tiên sinh chớ nệ, rán mà giúp
sức, thì Bị nguyện vòng tay mà nghe lời dạy.” Khổng Minh nói : “Tôi
quen vui thú cày bừa, không ưa thế sự , thật tôi không dám vâng lời. “
Huyền Đức than rằng: “Tiên sinh không ra thì sanh linh trong thiên hạ
biết nhờ ai ?” Nói rồi nước mắt như mưa, ướt cả vạt áo. Khổng Minh
thấy có lòng thành như vậy mới nói rằng : ‘ Tướng quân có lòng đoái
tưởng như vậy. Thôi thì cũng rán sức khuyển mã mà giúp cho.” Huyền
Đức cả mừng, bèn khiến Quan, Trương vào lạy dâng lễ vật, Khổng Minh
từ chối không chịu. Huyền Đức nói : “Các lễ vật này không phải lễ
rước người đại hiền. Đó là làm rõ tất lòng của Bị đí thôi.” Khồng
Minh mới chịu. “
Khổng Minh chưa ra khỏi thảo lư mà biết
được việc thiên hạ chia ba thế chân vạc, thật là xưa nay chưa ai bì
kịp. Lưu Bị trong chuyện Tam Quốc chẳng thấy tài cán gì ngoài những
màn khóc lóc như mưa ? Vì đâu Lưu Bị dựng được nghiệp lớn tồn tại
được 50 năm ?
Cái hay của Lưu Bị là biết mình tài hèn
sức mọn, chỉ có cái danh là dòng dõi nhà Hán, nhưng biết trau dồi
nhân chính, luôn luôn cầu khẩn người hiền tài giúp sức mình. Tài năng
võ nghệ Lưu Bị không bằng Quan Công, Trương Phi nên kết nghĩa làm anh
em, lấy sức anh em làm sức mình. Mưu trí thì cầu khẩn Khổng Minh. Lưu
Bị hơn người ở chỗ nhẫn nại cầu người hiền, đích thân ba lần đến
cầu khẩn, đến nơi thấy Khổng Minh còn ngủ vòng tay đứng đợi.
Lưu Bị không sai Trương Phi trói quách
Khổng Minh đem về, cũng không nhờ Quan Vũ đi hộ mà đích thân cầu
hiền. Nếu không dùng Khổng Minh, Lưu Bị chắc không làm nên trò trống
gì. Lòng nhân nghĩa của Lưu Bị chắc không dám nghĩ tới lấy Kinh Châu
nơi Lưu Biểu đang làm Thái thú, Ich Châu nơi Lưu Chương trấn nhậm thì
làm gì xây dựng được thế chia ba thiên hạ, Tuy nhiên không có Lưu Bị
Khổng Minh cũng không làm được việc, khi Lưu Bị mất rồi Khổng
Minh phò con Lưu Bị ba lần ra khỏi Kỳ Sơn đánh quân Tào, lại bị ông vua trẻ con triệu về, thế
là hỏng hết kế hoạch.
Paris, 19-6-2018
Ts PHẠM TRỌNG CHÁNH