Kiều của
NGUYỄN DU (1766-1820),
một gia sản văn hóa nhân loại
Nguyễn Đăng Trúc
Vĩ nhân không chỉ là người nắm bắt thời đại bằng tư duy của mình,
mà còn giúp con ngời nơi cõi nầy đụng chạm đến vô tận.
Vì thế tự căn nét siêu việt trong tác phẩm và nơi cuộc sống người
ấy cống hiến một tấm gương soi dẫn mọi thời đại, mỗi một người trong toàn thể
nhân loại.
Thi phẩm Kiều của Nguyễn Du là một lời
được cảm hứng, một tư tưởng.
Vì là lời được cảm hứng, thi phẩm
đó ở bên kia bờ của việc mô tả hay biện minh cho một thời đại hay một xã
hội nào bất kỳ. Lời ấy không bị ràng buộc bởi những định chế và các giá trị
đang chi phối nếp suy tư của xã hội, nhưng đặt vấn đề về ngay chính nền tảng
của chúng nhân danh một quyền uy khác hơn quyền uy đương đại, đó là quyền uy
của sự thật, của ý nghĩa về nhân tính con người. Vì vậy lời
được cảm hứng không quan tâm đến việc mô tả những thực tại xã hội, những
tập tục của một cộng đoàn, những sáng kiến, giấc mơ hay tình cảm của một nhân
vật. Nhưng đưa tòan bộ thực tại con người, kể cả những nền tảng và định chế xã
hội, trực diện với một câu chất vấn duy nhất và căn đế : chất vấn về ý
nghĩa của nhân tính.
Con người là vấn nạn cho chính mình, đó là một câu chất vấn duy nhất gợi hứng
cho đạo lý các thánh hiền, cho minh triết của những nhà tư tưởng đi tiên phong
trong các nền văn hoá khác nhau của nhân lọai.
Khi tiếp cận được lời thi ca,
lời vượt lên trên những kiến thức giới hạn của con người, hoặc khi cảm hứng được câu chất vấn đến từ bờ bên kia, các
thánh hiền và các nhà tư tưởng
chạm đến con tim con người
bất cứ nơi đâu và bất cứ thời đại nào. Sứ điệp của họ được tiếp nhận như là gia
sản văn hóa đối với toàn thể nhân loại và đi vào Đại Ký Ức của các dân tộc.
Nếu gia sản văn hoá của nhân loại không
chuyển đạt điều gì khác hơn là ý nghĩa về nhân tính, thì sứ điệp văn hóa ấy
cũng hé lộ cho thấy thân phận con người tự căn vốn kỳ lạ và mâu thuẫn. Nét kỳ
lạ ấy là dấu chỉ linh ư vạn vật của nhân tính buộc con người phải dấn
thân vào Cuộc Chiến bi thảm, nhưng hào hùng để có thể chu tòan Mệnh
làm người của mình.
Dưới ánh sáng của lời được cảm hứng từ
bên kia bờ, Cuộc Chiến ngoại thường nầy, văn hóa Hy Lạp xưa gọi là Khôn
Ngoan về nhân tính (άνθρωπίνη σοφία) hay Đức Lý (Ήθος):
Cuộc Chiến vượt lên trên các hình thái đối nghịch của vũ trụ, trên
các biện chứng tư duy và tranh chấp xã hội, trên mọi hình thức tự phủ định ý
chí muốn sống hay con đường khổ hạnh để tu thân…, Cuộc Chiến mà thánh
hiền Đông Tây chuyển đạt như là sứ điệp cao cả nhất, nếu không nói là duy nhất
:
·
Cuộc
Chiến giữa Đạo sâu kín, chân thực, đối nghịch với những đạo giả tạo
do trí năng con người tự vạch ra (xem Đạo Đức Kinh của Lão-tử, quyển 1,
chương 1).
·
Cuộc
Chiến giữa nhân tính ảo tưởng đặt nền tảng trên Ngã đơn độc và tự mãn bên
nầy bờ của bến mê và nhân tính đích thực (Phi Ngã) được soi dọi từ
Ánh Sáng đến từ bên kia bờ, trong đạo lý Phật giáo.
·
Cuộc
Chiến giữa Vương Đạo của chính nhân quân tử và Bá Đạo của tiểu nhân, theo Khổng
giáo (xem Trung Dung).
·
Cuộc
Chiến giữa Tài (Τέχνη) và Mệnh
(Μοίρα) trong Bi Triết của Hy Lạp, đặc biệt trong Prométhée bị trói
của Eschyle và trong Œdipe-Vua của Sophocle:
Tài
(Τέχνη –
giả tạo) có là gì
trước uy quyền của Mệnh.
Cuộc chiến vinh quang mang nguồn sinh lưc
cho quê hương, xin Trời đừng dẹp tắt.
·
Cuộc
Chiến (Πόλεμος) giữa Lời siêu việt (Λόγος) và lý lẽ
con người trong tư tưởng của Héraclite.
·
Cuộc
Chiến giữa một bên là Đạo Công Chính và Chân Lý, Đạo
được linh hứng bởi Thần Khí và được hướng dẫn bởi những ái nữ của Thần Mặt
Trời , và bên kia là con đường bế tắc của mê lầm mà mọi người đang đi,
không trừ một ai trong Thi Ca của Parménide.
·
Cuộc
Chiến mà Socrate là một chứng tá sống động trong cuộc sống, trong cái chết bi
thương nhưng vinh quang, trong lời giáo huấn ngược đời của ông.
·
Cuộc
Chiến giữa nhân tính đặt nền tảng trên (Tài), trên lý của trí năng
đo lường các sự vật, và một nhân tính siêu phàm được cảm hứng bởi « Lý
của Con Tim » (Đạo Tâm) trong tư tưởng Pascal...
Chính cuộc chiến đấu bi hùng đó đã khơi
nguồn cảm hứng cho tư tưởng gia-thi sĩ Nguyễn Du và được diễn đạt qua hai câu
thơ đầu tiên của truyện Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau (Kiều, c. 1-2)
Toàn bộ thi phẩm Kiều là một sự triển khai
trực giác độc đáo nầy.
Nhân vật Kiều thể hiện cuộc chiến giữa hai
căn tính con người, một căn tính đặt nền tảng trên chữ Tài và căn tính
kia trên chữ Mệnh, ở ngay giữa cuộc sống.
Lời thi ca nơi Âm vọng Khổ Đau từ bờ bên kia
(qua bóng dáng Đạm Tiên) thức tỉnh Kiều nhận ra một Kiều hồng
nhan gắn liền với Nghiệp (Tài), và một Kiều chân thực bên trong (thanh cao) của Mệnh mà Giác Duyên sẽ khai
mở, sau cái chết rốt ráo của
Nghiệp nơi sông Tiền-Đường, giao thoa giữa Tài và Mệnh.
Con đường của Tài xuyên qua những
hình ảnh tượng trưng như :
·
Sự tự
vẫn, con đường vô sinh,
vô cảm.
·
Thúc
Sinh, biểu tượng cho
khóai lạc cá nhân và lòng trắc ẩn thường tình.
·
Con
đường khắc kỷ ở trong một am thất,
·
Từ
Hải,biểu tượng sự giải
phóng xã hội...
Những con đường giải thoát ấy của Tài đều bế tắc.
Tuy nhiên Lời từ bên
kia bờ không ngừng âm thầm nhắc rằng thế giới Ảo-tưởng của Tài sẽ tàn, và Con Đường khác của Mệnh sẽ hé lộ nhờ Giác Duyên :
·
Đạo
của Mệnh, Đạo-Tâm tuyệt đối ở
bên kia bờ của Tài và đòi hỏi cái chết tận căn của Tài : Kiều hồng
nhan phải chết trên sông Tiền Đường để sống lại một Kiều được Giác Duyên
khai mở.
·
Đạo
của Chữ Tâm là Đạo duy nhất của sự cứu rỗi, Đạo tuyệt hảo (Chữ Tâm kia mới
bằng ba chữ Tài). (Kiều c.3252).
Từ hai thế kỷ nay, thi phẩm Kiều của Nguyễn Du đã cảm hứng tâm hồn và qui
hợp con dân Việt-nam. Trong tương lai, hội ngộ nguồn cảm hứng tư tưởng thi ca của nhân
lọai, thi phẩm Kiều hẳn sẽ cống hiến cho mọi dân tộc trên thế giới một lời mời gọi cấp bách để có thể nhận ra bí nhiệm vô tận, đó chính là CON
NGƯỜI.
*
* *
Một bí ẩn từ
Truyện Kiều của Nguyễn Du
Trong gần hai
thế kỷ, Truyện Kiều của Nguyễn Du đi vào Đại Ký Ức của người Việt. Mỗi
người, mỗi sinh hoạt tiếp nhận những lời thơ Kiều như một nguồn cảm hứng, một
kho tàng tài liệu hay một lời biện minh.
Nguồn sinh lực của Truyện Kiều khó mà cạn, vì
đây là một lời thơ, một lời cảm hứng đến từ ‘Vô Phương’ bên kia bờ của không
gian và lịch sử. Tuy nhiên điều đáng làm cho chúng ta hôm nay ngạc nhiên, đó là
qua gần hai trăm năm, nguồn cảm hứng đến với Truyện Kiều của Nguyễn Du, nguồn
cảm hứng còn được gọi là Lời-Mới-Làm-Đứt-Ruột - Đoạn Trường Tân Thanh -
mà Đạm Tiên là hiện thân làm sứ giả truyền đạt cho Kiều, nguồn cảm hứng kỳ lạ
ấy dường như không một bậc thức giả nào lưu ý. Mà nếu có nhắc đến, thì người ta
cũng chỉ biết lặp lại lời của Vương Quan, một con người ở-bên-ngoài
cảm thức của nỗi-đau-làm-người mà Nguyễn Du muốn truyền đạt qua
nhân vật Kiều.
Trong Truyện
Kiều, người nghe được từ miệng Đạm Tiên lời làm đứt ruột nhắc nhở ý nghĩa làm
người, người hoàn thành cái chết của thế giới mê lầm do Tài đã được Đạm Tiên
loan báo, người nhận ra Đạm Tiên là lời cứu độ khi gián tiếp cho hay Đạm Tiên
cũng là Giác Duyên, người duy nhất ấy trong truyện Kiều không ai khác hơn là
Kiều, kẻ hữu-tình-ta-lại-gặp-ta với Đạm Tiên.
Thế nhưng, Đạm
Tiên, lời làm cho cổ nhân bên-kia-bờ miệt mài say đắm, nay con
người bên-nầy-bờ đã đẩy lui vào dĩ vãng xa xăm, nếu không nói là đã
biến lời âm thầm làm đứt ruột nầy - lời của lương tri, lời đạo nghĩa -
thành một con điếm, một nấm mộ bị lãng quên bên lề đường.
Hai trăm năm
ca tụng mối tình Kim Trọng-Thúy Kiều đến độ quên tương-giao-hữu-tình-bên-trong
giữa Đạm Tiên và Kiều; hai trăm năm tôn vinh Từ Hải hiệp nghĩa giang hồ khí
phách đến độ quên đi cuộc-vượt-qua uy dũng từ cõi chết của Tài đến ơn cứu độ của
Mệnh! Phải chăng hai trăm năm đó cũng là nghiệp quên lãng của phận làm
người ‘đã mang lấy nghiệp vào thân’ (Kiều, c. 3249)!
Trước bỉ ẩn
lịch sử nầy, thử hỏi có lời nào của Đạm Tiên giúp ta nêu lên hai vấn
nạn nầy :
·
Kiều là gia sản văn hóa của dân Việt Nam và của nhân loại, phải
chăng chỉ vì Nguyễn Du có công chọn được một truyện tình cảm xã hội của một tác
giả người Tàu và đã chuyển được qua tiếng Việt một cách hết sức văn chương?
·
Hay đã đến lúc chúng ta lại cần một « lới mới làm đứt
ruột » để đọc lại Truyện Kiều và tiếp nhận được sứ điệp tư tưởng của
nhà văn hóa Nguyễn Du?
____________________