Chùa Vắng Trong Đặc Khu
Nguyên Giác
Có thể phiên âm Xishuangbanna là Tây Song Bản Nạp, và Dai là chỉ về sắc tộc Thái. Prefecture là đơn vị hành chánh được cai trị theo quy chế đặc biệt, nằm dưới cấp tỉnh, nhưng bao gồm nhiều huyện. Chữ Autonomous có nghĩa là tự trị, nhưng không có nghĩa tự trị theo nghĩa quốc tế, mà chỉ có nghĩa là cán bộ lãnh đạo đặc khu tự trị có toàn quyền hành động rồi báo cáo về thiên triều Bắc Kinh sau - kiểu tiền trảm hậu tấu. Bởi vì, đặc khu luôn luôn là nơi phức tạp.
Trung Quốc có một vài đặc khu để cai trị theo quy chế đặc biệt, thường là ở biên giới, nơi có hơn 50% sắc dân thiểu số. Báo chí thế giới gần đây chú ý tới một số biến động ở các đặc khu Tây Tạng – như Ganzi Tibetan Autonomous Prefecture ở tỉnh Sichuan (Tứ Xuyên), Diqing Tibetan Autonomous Prefecture ở tây bắc tỉnh Yunnan (Vân Nam) – và các đặc khu ở tỉnh Xinjiang (Tân Cương).
Tuy nhiên, Đặc khu Tây Song Bản Nạp lại rất mực bình yên, nơi phẳng lặng không gợn sóng, và là nơi đại đa số dân tu theo Phật Giáo Theravada.
Trung Quốc là nơi có nhiều tông phái Phật giáo, trước kia và cả bây giờ. Câu hỏi có thể nêu lên rằng, hệ phái Phật giáo nào tại TQ thường bị chính phủ Bắc Kinh bỏ quên nhất? Câu trả lời: Phật giáo Thượng tọa bộ, còn gọi là PG Nam Tông, còn gọi là Theravada ở Trung Quốc.
Thậm chí, đối với nhiều người quan sát tin tức trên thế giới, Phật giáo TQ thường được nhắc tới là Bắc Tông và PG Tây Tạng. Không có bao nhiêu bản tin nói về hệ phái PG Nam Tông TQ. Một phần, vì họ là thiểu số, nhưng phần lớn vì khu vực họ tập trung rất êm ả, không có nhiều biến động để các nhà báo quốc tế chú ý. Có một lý do nữa: có thể vì đa số họ thuộc sắc tộc thiểu số ở phía nam, và tinh thần Đại Hán của các quan chức Bắc Kinh dễ dàng bỏ quên họ. Một thời, dân tộc Đại Hán đã chinh phục miền Nam tỉnh Vân Nam từ nhiều thế kỷ trước, đã trấn áp khốc liệt nhiều cuộc nổi dậy của các sắc tộc địa phương, và bây giờ các nhóm sắc tộc khu vực này không còn sức nào để đối kháng hay đòi ly khai, tuy rằng văn hóa rất mực dị biệt.
Bái viết nơi đây dựa vào nhiều nguồn, trong đó phần chính dựa vào bài “Theravada Buddhism and Dai Identity in Jinghong, Xishuangbanna” (PG Nam Tông và Căn Cước Người Thái ở thị trấn Jinghong, Xishuangbanna) của GS James Granderson trên khóa mùa Xuân 2015 của SIT Study Abroad, và bài “The Soft Power Limits of Chinese Theravada Buddhism” (Hạn Chế Quyền Lực Mềm của PG Nam Tông TQ) của học giả Zi Yang trên tạp chí The Diplomat ngày 15/8/2017.
Nói một lời ngắn gọn là: PG Nam Tông TQ không là cái gì trong mắt triều đình Bắc Kinh.
Trong nhiều thế kỷ, Vân Nam là cửa ngõ của TQ để vào Đông Nam Á. PG Nam Tông tiến vào tỉnh Vân Nam từ thế kỷ thứ 7, xuyên qua Miến Điện và ảnh hưởng sâu đậm trong các sắc dân Dai, Blang, và Palaung trong khu vực này.
Dân tộc Dai, dịch ra tiếng Việt là người Thái. Sắc tộc Thái là một trong các sắc dân chính trong Khu Tự Trị Xishuangbanna Dai (người Thái Tây Song Bản Nạp). Sắc tộc Thái cũng sống rải rác ở Lào, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện. Dân tộc Palaung dịch ra tiếng Việt là Đức Ngang hay Băng Long. Dân tộc Blang, dịch ra tiếng Việt là Bố Lãng. Tổ chức truyền giáo Asia Harvest USA của Tin Lành Hoa Kỳ đưa ra cuộc nghiên cứu nói rằng người Blang và các dân tộc khu vực này phần lớn, có thể là 80%, theo PG Nam Tông, đôi khi cùng lúc thờ tổ tiên và vật tổ. Tuy nhiên, GS Granderson cho biết tỷ lệ Phật tử phải đông hơn nhiều, ít nhất là với sắc dân Thái, có lẽ đại đa số theo PG Nam Tông, vì đi đâu trong đặc khu cũng nhìn thấy người dân có xâm chữ trong Kinh Phật trên cổ, vai, lưng bàn tay, cổ tay, cánh tay.…
Phật Giáo Nam Tông tại Trung Quốc như thế chỉ ảnh hưởng khu vực biên giới gần Miến Điện và Lào. Nhiều thập niên trước, PG Nam Tông tại Trung Quốc cũng bị thiệt hại lớn trong thời kỳ đầu chủ nghĩa CS với cớ chống phong kiến, đập phá chùa chiền, bắt nhiều vị sư hoàn tục, trong khi sinh hoạt nghi lễ PG bị cấm. Khởi đầu đàn áp là cuối thập niên 1950s, nhưng cao điểm là Cách Mạng Văn Hóa, lúc đó nhiều kinh văn trên lá cũng bị đốt, chùa tháp điêu tàn trong toàn bộ khu vực PG Nam Tông tại Hoa Lục này. Ngôi chùa có tên The Xishuangbanna General Buddhist Temple, là ngôi chùa Nam Tông lớn nhất tại TQ xây từ thế kỷ thứ 8 lúc đó bị xóa sổ hoàn toàn, sau đó xây lại theo kiến trúc Thái Lan.
Và rồi sau Cách Mạng Văn Hóa, chùa mới cho xây lại, nhưng sự hồi phục của các sinh hoạt tôn giáo rất chậm. Chính thức, nhiều ngôi chùa được phép xây lại, nhưng chính quyền địa phương từ chối trả lại một số khu đất các ngôi chùa bị tịch thu thời Mao. Việc học Phật cũng chậm rãi, phần vì các cán bộ quan sát, nghi ngờ, phần vì kinh sách khu vực này viết bằng ngôn ngữ Cổ Thái (Old Dai language), kết hợp chữ Thái cổ thời pha trộn chữ Pali – nghĩa là, những gì các cán bộ không hiểu, vì cán bộ từ thế giới rất khác của tiếng Hán.
Nhưng chữ Cổ Thái cũng chính là căn cước Phật giáo Nam Tông, là tự hào về nền văn minh cổ thời của dân trong Đặc Khu Xishuangbanna.
Trên đường phố Jinghong, thậm chí ngay trên khu vực làng mạc êm ắng ở Manzhang, dễ dàng nhìn thấy ảnh hưởng Phật Giáo Nam Tông trên làn da cư dân: nhiều người, già lẫn trẻ, nam lẫn nữ, xâm trên da từ cồ trở xuống các câu kinh Phật bằng ngôn ngữ hình tượng của họ. Người thường có khi không hiểu hết các câu kinh Phật đó trên da họ, hiểu tận tường chỉ là các vị sư trong Xishuangbanna và dọc biên giới Thái Lan và Miến Điện.
Phật giáo Nam Tông tại TQ đang gặp nan đề là thiếu tăng sĩ. Trung bình tại Vân Nam, cứ hai ngôi chùa PG Nam Tông chỉ có một nhà sư. Vì thiếu tăng sĩ, nhiều chùa phải đóng cửa, chỉ trừ trong các ngày lễ lớn của Phật giáo. Hiện nay thống kê cho thấy 18.8% các ngôi chùa trong khu vực Xishuangbanna Prefecture là “chùa trống” (nghĩa là, chùa không có tăng sĩ ở trong). Tại các thị trấn Pu’er và Lincang, tỷ lệ chùa trống là 40%. Trong khi đó, tại Dehong Prefecture, tỷ lệ chùa trống là 90.1%, và tại Mang City, 98.2%.
Hãy hình dung tới con số 90% chùa không có sư, và hãy hình dung tới 98.2% chùa không có sư.
Các vị sư ngoại quốc từ Miến Điện và Lào thường được mời sang các chùa Vân Nam để làm các nghi lễ hay thuyết giảng. Tuy nhiên, chính phủ nhìn họ bằng cặp mắt không tin tưởng, bởi vì họ không được tin cậy về chính trị, không hiểu gì và cũng không ca ngợi gì về chính sách nhà nước TQ về xã hội chủ nghĩa, về thống nhất quốc gia và về hòa hợp sắc tộc.
Bên cạnh yếu tố chính trị và thiếu tăng sĩ, nan đề với PG Nam Tông ở TQ còn là thiếu ngân sách và thiếu Phật học viện. Mỗi năm, chính phủ TQ cấp ngân sách lớn để tân trang các ngôi chùa PG Tây Tạng và giáo dục các tu sĩ PG Tây Tạng; một phần cũng vì Tây Tạng bị Bắc Kinh xem như nơi nhạy cảm chính trị. Nhưng PG Nam Tông bị Bắc Kinh bỏ quên, vì cộng đồng tôn giáo này được Bắc Kinh xem là “nhóm dân thiểu số gương mẫu.”
Bất kể quá nhiều dị biệt giữa sắc dân Thái và dân Hán tộc, sắc tộc Thái chưa bao giờ kích động ly khai. Ngay cả khi có người cùng sắc tộc bên kia các biên giới, sắc dân Thái tại TQ không hề bộc lộ ý định ly khai. Cũng vì không có vấn đề gì, cho nên Bắc Kinh không cấp nhiều ngân sách cho các ngôi chùa PG Nam Tông, trong khi cấp rất nhiều tiền cho các hoạt động của PG Tây Tạng.
Chỉ có 3 Phật học viện tại TQ dạy các môn học về PG Nam Tông. Nhưng cả 3 đều thiếu ngân sách. Thêm nữa, phẩm chất giáo dục lại kém so với các Phật học viện PG Nam Tông tại Thái Lan. Do vậy, ước mơ lớn của các học tăng trẻ là hoàn tất đại học tại một trong các đại học PG tầm cỡ thế giới ở Thái Lan, Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya University hay Mahamakut Buddhist University.
Cũng từng có những cuộc nói chuyện về việc xây trường dạy ngôn ngữ Pali cao cấp đầu tiên ở TQ tại Vân Nam kể từ 2012, nhưng có không gì xúc tiến chỉ trừ việc mua một khoảnh đất.
PG Nam Tông tại TQ không thể là một tác nhân quyền lực mềm tại Trung Quốc. Do vậy chính sách nhà nước Bắc Kinh cũng không đặt trọng tâm vào Phật giáo Nam Tông như một công cụ chính trị quốc tế. Cơ chế cũng không cho cộng đồng PG Nam Tông vận động được gì tại Bắc Kinh. Điều này dễ hiểu vì TQ là nơi các vị sư phải được chính phủ chấp nhận mọi thứ, dù là xin đi du lịch ra hải ngoại hay thực hiện một nghi lễ tôn giáo đơn giản trong khi đang ở hải ngoại. Và tình hình này thấy rõ sẽ còn như thế, kéo dài trong tương lai gần.
Thực ra cũng dễ hiểu. Chính phủ Bắc Kinh chú tâm vào PG Tây Tạng vì còn lo ngại sức lôi cuốn của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với người Tây Tạng trong và ngoài Hoa Lục. Bắc Kinh cũng chú tâm vào PG Bắc Tông vì xem như chiếc cầu để nối kết cộng đồng PG ở Đài Loan và ở các Phố Tàu khắp thế giới. Trong khi đó, PG Nam Tông không có sức mạnh mềm nào để Bắc Kinh bận tâm…
.
Xin được kết nơi đây với một bài thơ, được viết để tặng người bạn thân vừa mới xuất gia tại một ngôi chùa Nam Tông ở Florida. Một thời, bạn này hoạt động từ thiện, lập hội Vì Dân Foundation. Nhiều năm trước, trong một chuyến đi từ thiện ở Campuchia, bạn này bị người lạ đâm 3 nhát dao trọng thương. Việc từ thiện bây giờ bạn này đã bàn giao cho nhà văn Tưởng Năng Tiến. Bây giờ, bạn là Sư Minh Trí. Sau đây, xin có vài dòng thơ tặng sư.
.
Tiễn sư qua bờ kia
.
Ôm bình bát, sư đi
khắp mây trời đắp y
tiễn sư về góc núi
kiếp này mấy phân ly
.
Đứng ngồi đều vì dân
ngực còn đau dao đâm
nước mắt ngập ba cõi
Quan Âm hóa toàn thân
.
Một thuở ra đi vương lụy
chân mỏi hai bờ Sông Hằng
quay đầu mới hay Minh Trí
tóc rơi theo bụi bên đàng.
- https://vietbao.com/a282576/chua-vang-trong-dac-khu