Lê Diễn
Đức
Kể
về bản thân là chuyện nên kỵ. Nói về cái dở thì không sao, nhưng nói cái hay,
dễ bị coi là khoe mẽ. Vì thế, tôi thỉnh cầu trước một sự châm chước.
Một
kinh nghiệm.
Khi
mới ở tuổi lên mười, tôi đã đạt danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ”. Năm 1967 tôi
được Hồ Chí Minh trao phần thưởng cho kết quả học tập xuất sắc với tất cả 14
môn học đạt điểm cao nhất. Đó là một cuốn sổ tay kích thước khoảng 20 x 15cm,
giấy trắng tinh, bìa cứng láng bóng, màu xanh dương, có in hình Hồ Chí Minh
chụp thẳng và dòng chữ phía dưới “Giải thưởng của Hồ Chủ Tịch”. Với tôi, gia
đình, trường học và chính quyền địa phương, giải thưởng này là một vinh dự, vì
không phải tỉnh, thành phố nào cũng có thưởng, và nếu có thì chỉ có một hoặc
hai người. Buổi trao giải thưởng được tổ chức hào hứng trên sân kho của hợp tác
xã, dưới ánh trăng (vì lúc bấy giờ máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc dữ dội, học
sinh đi sơ tán ở thôn quê, ban đêm không dám nổi lửa, thắp
đèn).
Bà
con làng xóm tụ hội rất đông. Ba tôi cảm động đến phát khóc. Tôi nâng niu cuốn
sổ tay đến mức không dám xài, lâu lâu lấy ra ngắm nghía ! Tuy nhiên cũng chưa
tức cười thảm hại bằng thằng bạ
Năm
1968, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thăm trường, tặng cho mỗi đứa được cử đi gặp một
cục kẹo Hải Châu (thứ cao cấp, hiếm hoi, xa xỉ với lũ học sinh nghèo trong
những ngày chiến tranh). Thằng bạn thèm rỏ dãi nhưng trân trọng quá, không dám
ăn, để dành làm kỷ niệm. Trời nóng, chỉ vài hôm, cục kẹo chảy nhão nhoẹt dính
bê bết với giấy bọc, phải vứt đi. Hắn đi Đông Đức, về nước giảng dạy ở Bách
khoa Hà Nội, cho đến giờ. Tôi tin chắc hắn không quên chuyện này!
Tôi
sang Ba Lan năm 1969. Cả đoàn du học sinh chúng tôi phải vào nằm viện để bác sĩ
khám, tẩy giun sán trước khi được sống chung với người ta tại Trung tâm học
tiếng Ba Lan dành cho người nước ngoài. Trong bệnh viện, được báo tin Hồ Chí
Minh từ trần, chúng tôi khóc thảm thiết ! Mấy cô y tá Ba Lan ngơ ngác, lúng
túng chẳng biết chuyện gì xảy ra !
Chúng
tôi đã yêu Đảng, yêu Bác Hồ đến thế ! Đã một thời ngây thơ, ngây ngô như thế !
Đến
năm 1994, Kim Nhật Thành chết, xem TV thấy dân Bắc Triều Tiên đứng đông nghẹt
hai bên đường ôm nhau gào khóc. Lúc này thì tôi đã bật cười ! Cười cả chính
mình ! Tôi cũng đã y chang vậy ngày nào, bị ngu hoá, bị lừa gạt mà không biết.
Phải
công nhận các chế độ cộng sản đạt mức siêu đẳng về chuyện nuôi trồng con người
theo ý đồ của mình.
Thế
hệ tôi và cả xã hội miền Bắc, mỗi một con người được nhào nặn, rèn luyện, nhồi
nhét tư tưởng vào trí não, để không còn là mình nữa, chỉ biết suy nghĩ và hành
động theo những lời dạy dỗ của Đảng và Bác, đi theo con đường mà Bác và Đảng
vạch ra, như con rối, như cái máy. Cái bóng Đảng, Bác…bao trùm lên đời
sống.
Phản
ứng của chúng tôi chẳng khác gì những con cá trong ao của ông Hồ ở Phủ Chủ
Tịch. Không hơn, không kém.
Vào
năm 1958, theo yêu cầu của ông Hồ, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đã thiết kế cho
ông ngôi nhà sàn theo kiểu của người miền núi, cùng với vườn cây, ao cá.
Ngôi
nhà sàn có hai tầng, tầng trên ông Hồ dùng làm phòng ngủ và phòng làm việc
trong mùa đông, tầng dưới là nơi ông làm việc vào mùa hè, họp Bộ Chính trị.
Ngôi nhà sàn xây dựng xong vào ngày 1/5/1958, bằng gỗ loại bình thường, chiếu
theo căn dặn của ông – báo chí viết như thế.
Tuy
nhiên, trong thực tế, mãi sau này tôi mới biết, gỗ được sử dụng để làm ngôi nhà
sàn “giản dị” thuộc loại tốt. Ngoài ra, sự giản dị này cũng đáng bàn… Bởi vì,
ngôi nhà tọa lạc giữa phong cảnh hữu tình, đầy cây cỏ, hoa lá xanh tươi, chim
bay, cá lượn bốn mùa. Bác ngồi thư giãn, hút thuốc lá 555 hay xì-gà của Fidel
Castro gửi tặng thì còn gì bằng ! Đấy là chưa nói đến chuyện có các nàng tới
hầu hạ (như cô Nông Thị Xuân chẳng hạn)! Ngay giữa thủ đô chật hẹp, ồn ào, bụi
bặm mà hưởng thụ một dinh cơ tao nhã, thanh bạch như vầy, thì khác gì cuộc sống
của Tiên ông dưới trần, quả là chưa có tiền lệ.
Vào
thời buổi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lắm đại gia tư bản đỏ
“chơi độc” theo gương ông Hồ, cũng xây những dinh thự to rầm theo kiểu nhà sàn
bằng toàn gỗ quý, vườn tược được trồng nhiều loại cây kiểng mà một chậu trị giá
hàng chục ngàn đôla. Cũng ngay trong lòng Hà Nội.
Hồi nhỏ tôi
được nghe nhiều huyền thoại về ông Hồ. Với chúng tôi, tên Hồ Chí Minh đồng
nghĩa với đấng siêu nhân, thánh thiện và lòng tôn kính. Ở Nghệ An, có bài đồng
giao xem ông Hồ, Tướng Giáp sinh ra như là tất yếu của Trời Đất:
“Đụn Sơn phân dái
Hòn Đái thất thanh
Nam Đàn sinh Thánh
Đông Thành sinh Tướng”
Mỗi
lần nghe ai kể về đời sống của Bác, nói đến đàn cá trong ao của Bác, lũ trẻ
chúng tôi xuýt xoa, phục lăn. Số là đàn cá đông đúc được ông Hồ luyện công phu.
Sau một thời gian nhử mồi cám dỗ, ông đã thành công. Khi cho cá ăn, ông chỉ cầm
cái que gõ gõ vào cái hộp đựng mồi hay thành bờ ao gì đó.. là cả đàn lúc nhúc
bơi lại.
Khi
lên cấp 2, bắt đầu học vật lý, tôi không còn phục cao kiến luyện cá của ông Hồ
nữa, mà chỉ phục ông ở tính kiên nhẫn. Tôi cúc cục mãi mới tập gọi được đàn gà.
Còn dạy cá đâu phải giỡn ! Té ra ông Hồ chỉ thực hành lý thuyết từ xửa xưa của
nhà khoa học người Nga Ivan Pavlov, Giải thưởng Nobel Y học năm 1904.
Ivan
Pavlov nổi danh từ việc thí nghiệm phản ứng tiêu hoá trên cơ thể chó. Qua
nghiên cứu sinh lý học của nước bọt, ông khẳng định rằng, nước bọt không chỉ
tiết ra lúc ăn, mà cả trong phản ứng trước bữa ăn. Thức ăn gây chảy nước bọt
được gọi là “kích thích ban đầu”, còn tiếng chuông gõ hoặc ánh sáng của cái đèn
xuất hiện trước bữa ăn, gọi là loại “thức ăn phụ trợ”. Kích thích chó liên tục
một thời gian dài bằng “thức ăn phụ trợ”, cùng lúc với “kích thích ban đầu” để
tạo thói quen, ông đã làm chó tiết nước bọt chỉ còn qua sự kích thích thứ cấp.
Hiện tượng này được gọi là phản xạ có điều kiện của Pavlov, trái ngược với sự
chảy nước bọt bẩm sinh, là phản xạ vô điều kiện.
Thì
ra, những con cá của ông Hồ chỉ là một phiên bản nhỏ từ con chó của Pavlov.
Phiên
bản lớn mới thật hãi hùng.
Người
ta nói Việt Nam là một nhà tù lớn, hay cả quốc gia đang bị nhốt trong cái cũi.
Trong
cái cũi này, giống như đàn cá trong ao, ông Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp
dụng muôn vàn “thức ăn phụ trợ” để “trồng người” vì “hạnh phúc trăm năm” của…
Đảng.
Bằng
quản lý trong tay sổ hộ khẩu, sổ gạo, sổ dầu, phiếu thực phẩm, phiếu vải, học
đại học; nay thêm sổ đỏ, chứng minh nhân dân, hộ chiếu, giấy chủ quyền xe, v.v…
– ông Hồ và Đảng từ lúc cầm quyền đến nay đã biến đất nước thành một phòng thực
nghiệm vĩ đại của “phản xạ có điều kiện”, biến dân tộc thành một bầy đàn ngoan
ngoãn. Hàng chục triệu người Việt đã, đang và tiếp tục trở thành những con cá
trong ao hay là những con chó của Pavlov.
Ngoài
ra, còn một “thức ăn phụ trợ” khác công hiệu. Đó là bộ máy tuyên truyền khổng
lồ, chằng chịt từ trung ương xuống thôn xã, bản làng, liên tục đập vào não
trạng con người ngay từ thưở thiếu thời. Bất kỳ nguồn thông tin nào bất lợi cho
sự độc quyền cai trị của Đảng đều bị ngăn chặn. Những mầm mống phản kháng ngay
lập tức bị đè bẹp, đời sống của gia đình, người thân bị phong toả đến bần
cùng…
Cho
nên, lúc còn là học sinh, tay còn vương mực tím, khi ông Hồ chết, tôi và các
bạn tôi cùng thời đã chảy dài nước mắt, cũng không có gì là lạ. Đúng ra, chúng
tôi nên được chia sẻ, được thương hại, tội nghiệp.
Nhưng
nhờ Trời, ngay trong năm thứ nhất học đại học, tôi đã nhanh chóng nhận ra lẽ
thường phải có ở đời, sự bất công và bất nhân của chế độ cộng sản. Nó tước đi
của con người đời sống riêng tư, cá tính và những quyền tự do tối thiểu nhất.
Chúng
tôi bị Toà đại sứ Việt Nam tại Ba Lan cấm không được yêu đương, không được mặc
quần jeans ra ngoài đường, không được khiêu vũ, không được đến thăm nhà người
bản xứ, không được đi lao động kiếm thêm tiền trong dịp nghỉ Hè, v.v… Một ngàn
lẻ một thứ cấm ! Hàng tuần họp chi đoàn, viết bản tự kiểm. Lơ mơ là bị trục
xuất về nước !
Và
tôi lơ mơ, xé rào nên bị trục xuất thật. Vừa đặt chân tới ga xe lửa Hàng Cỏ, Hà
Nội, chưa kịp xuống tàu, hai công an đã xông lên chỗ ngồi và áp tải tôi vào
trại giam, sau đó lãnh án tù hai năm về tội yêu và trốn ở lại nước ngoài. Ra
tù, lận đận mãi tôi mới xoay được việc làm và quay lại Ba Lan năm 1989, đúng
lúc chế độ cộng sản Ba Lan sụp đổ.
Làm
nhân chứng của 20 năm xây dựng thể chế dân chủ ở Ba Lan với muôn vàn khó khăn
nhưng thành quả phát triển giành được thấy rõ qua từng năm tháng, nhãn quan
chính trị của tôi thay đổi hoàn toàn. Tôi được tỉnh ngộ qua liệu pháp điện áp
của thực tế một xã hội từ chế độ cộng sản chuyển sang dân chủ tự do, cho mình
cơ hội nhìn nhận, phân biệt Ác và Thiện. Quy trình tiến hoá bình thường của tôi
được tái hiện, từ “con cá của Bác Hồ”, “con chó của Pavlov” lên làm người. Tôi
lột xác cùng với những thăng trầm của tiến trình dân chủ hoá ở Ba Lan và Đông
Âu.
Ba
Lan tự do đã đưa sự thật lịch sử ra ánh sáng và công lý. Quá khứ đã chứng minh
không thể chối cãi rằng, chế độ cộng sản tồn tại thực chất nhờ dối trá và bạo
lực. Những người cộng sản không thèm nghe ai khi thấy phương hại đến độc quyền
lãnh đạo của họ, cho dù những lời khuyên đó có mang lại lợi ích cho đất nước
đến đâu. Chỉ khi bị áp lực tranh đấu mạnh mẽ của quần chúng, bị thất bại, bị
dồn vào thế cùng, họ mới làm ra vẻ hướng thiện hoặc nhượng bộ.
Nhưng
khi có sức mạnh và nhất là lúc thành công, họ tự mãn, cao ngạo, và độc ác gấp
bội. Bản chất lưu manh, cướp giật của họ, theo thời gian càng ngày càng lộ
liễu. Họ biến thù thành bạn, biến bạn thành thù tuỳ theo tình huống có lợi cho
sự bảo đảm quyền lực. Họ là bậc thầy của sự tráo trở, lật lọng và bội bạc. Quan
điểm phải hợp tác với cộng sản để cải tạo cộng sản, có cách nói cho cộng sản
nghe, đã chứng tỏ tính chất xuẩn ngốc của nó qua hậu quả việc làm của rất nhiều
người từ hàng chục năm nay. Chưa có vị “quân sư” nào làm cộng sản thay đổi được
bản chất, ngược lại, họ thường bị phản phé, ngược đãi và chịu chung một bi kịch
giống nhau. Rốt cuộc họ chỉ là những kẻ bị phấn khích hoặc có tâm thức bất bình
thường, thích đi theo vết xe đổ.
Thiếu
tự do và thông tin với bên ngoài, con người không thể nào có đủ kiến thức để
nhìn nhận, so sánh các mô hình sinh hoạt xã hội khác, cho nên đại bộ phận người
Việt trong chế độ cộng sản, nhất là nông dân, cứ tưởng rằng, cái ao, cái cũi mà
trong đó mình đang được Đảng ban phát là “đỉnh cao chói lọi” rồi.
Mẹ
kiếp! Nhốt người ta lại, bưng tai, bịt mắt, chỉ mở cho nhìn, cho nghe những gì
mình muốn áp đặt, cùng với sự đe doạ mạng sống thường trực – rồi bảo “dân trí
thấp”, “dân tộc chưa trưởng thành”. Nói thế có khác gì trói chân, buộc tay thằng
bé, cho ăn uống nhỏ giọt, cách ly với sông nước, rồi phán nó chậm lớn, không có
khả năng biết bơi. Đểu giả, mất dạy cỡ này là cùng!
Vậy
mà, lạ lùng thay, có những người không sinh ra trong chế độ ấy, đầu đã hai thứ
tóc, mà giờ đây bắt đầu muốn yêu Bác Hồ như thế hệ chúng tôi mấy chục năm trước
đây !
Lạ
lùng nữa, vì những người ấy đã tháo thân chạy khỏi chế độ cộng sản và được lớn
lên, ăn học, trở thành kỹ sư, giáo sư, tiến sĩ ở các quốc gia dân chủ, tự do.
Lạ
lùng hơn, vì những người ấy, được gọi là trí thức, không thể không biết đến tội
ác mà chủ nghĩa cộng sản toàn trị đã gây ra cho nhân loại nói chung và đối với
dân tộc Việt Nam nói riêng trong suốt gần một thế kỷ.
Lạ
lùng đến kinh ngạc, vì những bi kịch Cải cách Ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ
Xét lại Chống Đảng, Thảm sát Tết Mậu Thân Huế 1968, Cải tạo Tư bản, Tư thương
miền Nam sau 1975, Chiến dịch bán bãi thu vàng, các vụ án Minh Phụng-Epco, Năm
Cam, PMU 18, PCI, vân vân và vân vân… – chẳng mang đến cho họ một chút ý thức
gì về dã tâm khủng khiếp và ghê tởm của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.
Không
biết bị ám bởi phản xạ có điều kiện nào qua “thức ăn phụ trợ” của thời “đổi
mới”, “tăng trưởng”, “phát triển”, “vươn ra biển lớn”, mà giữa lòng Hà Nội xuất
hiện một sự đảo ngược tiến trình tiến hoá của loài người.
Cả
ngàn con người đang no cơm ấm cật, xiêm áo chỉnh tề, bỗng dưng biến thành đàn
cá Bác Hồ, bầy chó của Pavlov, “hân hoan”, “hồn nhiên” hát bài “Như có Bác Hồ
trong ngày vui đại thắng”. Và rồi sau khi kết thúc thắng lợi ra về, cùng nhau
đồng ca điệp khúc: “dân trí Việt Nam còn thấp”, “dân tộc ta chưa trưởng thành”
nên chưa thể vươn tới tiến trình dân chủ hoá.
Bệnh
này coi bộ hết phương cứu chữa !
Lê Diễn
Đức
Warsaw,
Ba Lan 20/1