Tài nguyên tái tạo
được tỉnh Thừa Thiên
TS
Thái Công Tụng, Canada
1.
Tổng quan.
Trong khoa học về tài nguyên, người ta thường phân loại tài nguyên tái
tạo được (renewable resources) và tài nguyên không tái tạo
(non-renewable resources).
Bài tham luận
này chỉ giới hạn trong phạm vi các tài nguyên tái tạo được tỉnh Thừa
Thiên, do đó sẽ trình bày về đất đai, nước, rừng, nói khác đi đến các
hệ sinh thái chính và đồng thời vai trò các tài nguyên này trong sự
chi phối đến sự sử dụng đất đai của con người và làm thế nào để có
phát triển bền vững (sustainable development) .
Thừa Thiên, theo thống kê 1997, có 1.1 triệu người với 30% ở thành phố Huế. Có chừng 43 000 người sống ‘dưới nôốc’. Số dân còn lại sống tại nông thôn, chủ yếu sống về trồng trọt, chăn nuôi; ngoài ra có một số dân sống quanh phá Tam Giang thì vừa sống về nông lẫn ngư nghiệp (tôm, cá ..)
Tỉnh có diện
tích 500 000 ha, gồm:
một thành phố
tức Huế, 8 huyện , 124 xã và 935 làng.
Trong 8 huyện:
·
2 huyện thuộc đồng bằng: Quảng Điền (157km2), Phú Vang (263.2 km2)
·
4 huyện vừa đồng bằng, vừa đồi núi nhưng đồi nhiều hơn đồng bằng:
Phong Điền (1 071 km2), Hương Trà (403 km2), Hương Thủy (497 km2), Phú
Lộc (693 km2)
·
2 huyện miền núi là A Lưới (1 159 km2), Nam Đông (699 km2)
Tổng số xã là 124 xã, nhưng chỉ có 54 xã có điện . Chỉ 2.5% nhà là có nước máy và 72% nhờ nước giếng. Dân số 1.1 triệu người (1997)
2.
Địa hình
Thừa Thiên có hai loại địa hình rõ ràng: miền núi và miền đồng bằng
Nếu làm một phẫu diện từ Trường Sơn đến biển Đông, ta có thể phân biệt
nhiều loại địa hình sau đây:
a/ miền núi , giáp giới với Ai Lao, địa hình dốc nhiều.
Dãy núi Trường Sơn ở Thừa Thiên có nhiều đỉnh với nhiều cao độ khác
nhau, nhiều địa danh quen thuộc như A Sao, A Lưới . Từ các vùng này,
núi dốc đổ xuống rất nhanh: các sườn núi vừa dài, vừa dốc nên xói mòn
dễ xẩy ra, sự chảy tràn rất mạnh, nhất là trong các điều kiện triền
dốc lớn và khi không có rừng cây che chở. Do đó, dễ có lụt lội ở miền
hạ lưu .Sườn Đông dãy Trường Sơn rất dốc, sườn Tây thoải nên các sông
ngòi như sông Hương có đầu nguồn ở độ cao 500m, chỉ qua vài km đã hạ
thấp xuống gần mực cơ sở nên vách thung lũng dựng đứng xâm thực rất
mạnh.
Trên dãy núi Trường Sơn ở Thừa Thiên, có thể kể các loại đá sau đây:
·
đá hoa cương
(granite)
trên các rặng núi cao phân chia Ai Lao và Việt Nam.
·
các loại đá acid khác
như diệp thạch, phiến thạch, sa thạch.
Hình 1. Sơ đồ các địa mạo chính của Thừa Thiên
b/ miền gò đồi chân núi
Miền gò đồi là vùng giáp giữa núi non và đồng bằng duyên hải., có
nhiều thung lũng ngang (vallées latérales) ... được cải biến thành
ruộng luá. Các đồi thấp thường có đỉnh bằng, sườn thoải và vì không
xa vùng đồng bằng nên ‘thượng gia hạ điền’, đây là nơi được khai phá
tích cực nhưng cũng là nơi dễ bị xói mòn nhiều nên lắm khi đồi trọc
trơ sỏi đá với nhiều khe rảnh...
c/ miền thềm phù sa cổ
Ngày xửa, ngày xưa, đồng bằng Thừa Thiên còn nằm dưới biển ! Bằng
chứng địa chất hùng hồn nhất là các giãy đá vôi Vân Xá, Long Thọ hiện
vẫn ‘trơ gan cùng tuế nguyệt’. Đá vôi do các rạn san hô tạo
thành.
Hiện nay trong đồng bằng còn vài đồi còn sót lại như Núi Ngự, ‘trước tròn, sau méo’, các đồi Thiên An, Vọng Cảnh. Mà các núi Thiên An, Núi Ngự này trước kia cũng chỉ là những hải đảo, ngày nay sát nhập vào bờ .
Với thời gian địa chất trôi qua, biển rút từ từ, cọng thêm phù sa trầm tích từ các rặng núi trên cao lấp dần các vịnh biển, tạo thành nhiều thềm biển (terrasses marines) ở các cao độ khác nhau 40mét, 25 mét, 20mét..; càng ra gần biển thì các thềm biển cứ thấp dần và tuổi địa chất cũng trẻ dần .
Trong các thềm phù sa cổ, ở dưới lớp đất mặt luôn luôn có những cuội
sỏi . Thềm phù sa cổ lâu ngày đã bị tác động xâm thực gọt rũa, nhiều
nơi có dạng lượn sóng và có nhiều sỏi laterit kết thành đá ong. Chính
các tảng đá laterit này khi mới đào lên còn rất mềm có thể gọt rủa được
để làm các công trình còn để lại của người Chàm ( tháp) ; nhưng khi
khô thì trở nên cứng lại vì bị oxythoá.
d/ miền đồng bằng bồi tích sông biển có cồn cát củ (như
Phú Bài) và đầm củ. Các đồng bằng đều là những châu thổ rộng hay hẹp
của các dòng sông như sông Hüong, sông Bô...; vì các dòng sông thường
ngắn nên trầm tích phù sa đệ tứ kỷ khá mỏng, không giống như đồng bằng
sông Cửu Long có bồi tích rất dày vì sông này dài cả hàng ngàn cây số
chảy qua 5 nước như nam Trung Hoa, Miến Điện, Lào, Kampuchia và Việt
Nam. Các trầm tích bồi lấp các vũng biển; các vũng biển này được tạo
nên trong các giai đoạn biển tiến do băng hà thế giới tan hoặc do các
dao động của các thời kỳ băng hà (période glaciaire) và tan băng
(période interglaciaire) của thời kỳ đệ tứ nguyên đại Pleistoxen.
Vậy nền địa chất chủ yếu là bồi tích phù sa, vừa nguồn gốc sông, vừa
nguồn gốc biển: nguồn gốc biển vì có những vật liệu thô
của các dải cồn cát lẫn lộn với các vỏ sò ốc biển trong các lớp đãt,
nguồn gốc sông vì sông bào mòn các
rặng núi Trường sơn gồm nhiều loại đá khác nhau (đá granit, đá bazan,
đá vôi) .
Ngoài hai nguồn gốc trên, các đồng bằng duyên hải miền Trung nói chung
và đồng bằng Thừa Thiên nói riêng lại vừa chịu ảnh hưởng các vật liệu
feralit từ các vùng đồi di chuyển xuống; vì nhiều nguồn gốc nên trắc
diện đất phức tạp . Đó là các đồng bằng do các sông ngòi phù sa bồi
đắp như:
-
đồng bằng sông Ô Lâu
ngăn cách hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, có sông Ô Lâu chảy qua đổ
vào phá Tam Giang .
-
đồng bằng sông Bồ
do sông Bồ bồi đắp; trong đồng bằng này, có nhiều kinh rạch, gọi là
hói; một hói lớn có tên là hói Sịa.
-
đồng bằng sông Hương
là đồng bằng lớn nhất, chảy qua thành phố Huế và cũng có rất nhiều
sông đào như sông đào chảy từ Sông Hương xuống Bao Vinh ngang qua phố
Nhà Bè-Gia Hội, sông An Cựu v.v
e/ miền các giải đồi cát duyên hải, có nhan nhãn từ
Phong Điền đến Quảng Điền. Các động cát rất cao vì bờ biển nằm thẳng
góc vơi gió đông bắc và gió tây nam ngược chiều nhau. Các giải đồi cát
trắng này với nạn cát bay vào mùa hạ tạo nên sa mạc hoá, nếu không cố
định bằng các thảo mộc như dứa dại (Pandanus) hay filao (Casuarina)
sẽ gây tai hại đến môi sinh.
f / miền đầm, hồ, đất sình lầy nằm kẹp giữa các giải đồi
cát duyên hải và đồng bằng phù sa. Dạng địa hình này không nối dài
liên tục, do sự di động của các cồn cát cắt ngang. Còn gọi là cát nội
đồng .
g/ ven bờ biển có bãi triều lầy (tidal
marsh), có rừng ngập mặn gồm những loại cây sú, vẹt, đước, vùng
cửa sông (estuary), đầm phá (lagoon) ăn thông với biển
phía ngoài qua một hay nhiều cửa như Cửa Thuận, cửa Tư Hiền là các cửa
trước trận lụt lịch sử cuối 1999
Trong dạng địa
mạo này, Thừa Thiên có phá Tam Giang.
Phá Tam Giang rất dài vì chiều dài là 30 km và rộng từ 1 đến 6 km, có
3 sông chảy vào: sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương. Ở phía Nam, phá ăn
thông với các đầm: Thanh Lam, Hà Trung, Thủy Tú, Cầu Hai .Đầm Cầu Hai,
toả rộng dưới chân núi Bạch Mã (1444m) ngắn và rộng thông thương với
đầm (‘phá’) Tam Giang và đổ ra biển ở cửa Tư HiềnẠ.
Nhìn vào bản đồ, phá Tam Giang tương tự như một dòng sông, còn đầm Cầu
Hai giống như một cái hồ lớn. Các đầm phá Cầu Hai, Tam Giang này, qua
các trận lũ lụt cuối năm 1999, đã có thêm nhiều cửa biển nữa. Riêng
phá Tam Giang-Cầu Hai này đã chiếm 1/3 diện tích toàn tỉnh Thừa Thiên
và 30% dân số Thừa Thiên sống quanh vùng phá-đầm này. Phá Tam Giang đã
trở thành bất hủ với câu ca dao:
Nhớ em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
3.
Khí hậu
Như trên cho thấy, có 2 dạng địa hình chính là vùng núi và vùng đồng bằng.
Vùng núi có nhiều vi khí hậu (microclimate) khác nhau do sự khác biệt vi địa hình (microrelief): có sườn núi hướng về phía Bắc, có sườn hướng về phía Nam, sườn đón gió Đông v.v Bạch Mã có cao độ lớn nên rất mát mẻ. Tuy nhiên miền núi Thừa Thiên mưa rất nhiều
Riêng trên dãy núi Trường Sơn tại Thừa Thiên, khí hậu cũng khác nhau: mùa hè, phía tây giải Trường Sơn (phía Ai Lao), mùa mưa đã khởi sự từ tháng 5 trong khi phần phía đông giải núi này (phía Viet Nam) còn khô nóng.
Vùng đồng bằng mưa nhiều và mưa muộn: thay vì mưa khởi sự từ tháng 7 như ở Hanoi thì ở đây phải chờ đến tháng 9, tháng 10 mới mưa.
Mưa nhiều nhất từ tháng 9 d.l. đén tháng 11 d.l. (430-740 mm/tháng). Trung bình vũ lượng hàng năm 3 000 mm, nói khác đi, lớn hơn mọi vùng ở đồng bằng đất nước
(Đồng Hới : 2111mm, Quảng Trị : 2535 mm, Huế :
2890 mm, Phan Rang: 650 mm, Saigon: 1900mm, Hanoi:
1678mm)
Mùa nắng từ tháng 3 d.l. đến nửa đầu tháng 8 d.l
Miền đồng bằng, từ tháng giêng đến tháng 3 có gió mưa nhẹ lất phất, có
sương muối, sau đó là nắng. Vào mùa hè, nhiệt độ trung bình ban ngày
28 độ (những ngày nóng nhất, nhiệt độ lên đến 38-39 độ), vào mùa đông,
nhiệt độ trung bình ban ngày 20 độ (hạ xuống còn 13-14 độ vào ngày
lạnh nhất)
4.
Tài nguyên đất
Ở đây, ta cũng phân biệt đất đai theo các địa hình nói ở phần 2.
Miền núi:
Đất feralit vàng đỏ
trên đá axit (sa thạch, hoa cương, phiến thạch ..) là đất
thường gặp tại các vùng núi thấp, dưới 1000 mét, trên các thượng
nguồn sông ngòi và trong điều kiện khí hậu mưa nhiều....
Đất
feralít có mùn ở núi cao chiếm các vùng núi cao như ở Bạch Mã
cũng như suốt vùng biên giới Lào-Việt thuộc Thừa Thiên và là nơi có
người Thượng với cuộc sống du canh.
Địa hình bị chia cắt mạnh, nhiều dốc
Vì đốn rừng bừa bãi nên sự xói mòn trên các triền dốc đất này khá mạnh
và hiện nay có nhiều lớp laterit gần mặt đất .
Miền gò đồi:
Đất phù sa cổ sinh,
nằm trên các phù sa cổ sinh có độ cao biến thiên 10-20 mét; đặc biệt,
trong trắc diện đất có nhiều cuội sỏi . Thềm phù sa cổ thường bị xoi
mòn gọt rũa nên nhiều nơi có dạng lượn sóng. Đất phù sa cổ thường dễ
thoát nước, nghèo hơn phù sa mới và thường là nơi có làng mạc, trồng
hoa màu phụ hoặc chỉ bỏ hoang vì sỏi laterit ngay mặt đất và ở trên
các gò đồi với nhiều dạng khác nhau:
- có gò đồi đất có độ dốc cao, tầng đất dày, phát triển trên granit,
chân đồi thì đất nhiều chất hữu cơ, càng lên cao cây phát triển chậm,
do đó chỉ nên trồng bạch đàn dưới 1/3 từ chân đồi
- có gò đồi bát úp bỏ hoang sau sản xuất nông nghiệp, đất bị bạc màu
nhưng đất còn dày
- có gò đồi trơ
sỏi đá, đất phát triển trên đá phiến (schist), đá cát
(sandstone): bạch đàn mọc xấu, tàn lụi dần...
Vì lớp laterit gần lớp đất mặt nên các loại đất này nghèo nàn
và thảo mộc thiên nhiên phần lớn chỉ là những lùm bụi thấp với các
loại sim, mua, móc, chủi rành, cỏ `tranh...Những đồi hoa sim rất nhiều
không những ở Thừa Thiên mà ở khắp các đất nghèo nàn miền duyên hải
Trung Việt :
Những đồi hoa sim,
Những đồi hoa sim,
Màu tím hoa sim,
Tím cả chiều hoang biền biệt
(thơ Hữu Loan)
Miền đồng bằng bồi tích:
Đất phù sa cận đại
là những loại đất được nước chuyên chở và dần dà lắng tụ xuống. Vì từ
nhiều nguồn gốc nên sắc thái cũng rất đa dạng: có đất phù sa chảy qua
các rặng núi đá vôi nên pH của các đất này khá cao; có đất phù sa do
các rặng núi đá hoa cương phong hoá nên gồm nhiều vật liệu thô vì
cứng. Đó là những đất bồi, men theo các dòng sông để trồng lúa là nông
sản chính mà đã trồng luá thì yếu tố nước là chính.
Miền duyên hải:
Đất mặn
tuy không nhiều, nhưng cũng chiếm trên 14 000 hecta và ven các vùng
cửa biển. (Phú Vang, Lăng Cô). Trên các giải đất mặn, cần nghiên cứu
các mô hình sử dụng đất khác nhau: có nơi ngư lâm kết hợp, có nơi chỉ
nuôi tôm sú, có nơi mô hình rừng sú vẹt vừa giữ đất, vừa nuôi trồng
các loại thủy sản, có nơi vuông tôm chuyên canh trên đát trũng bùn mềm
..
Đất cát trên cồn cát duyên hải
thì vừa khô hạn, vừa nghèo nàn. Trong nhóm này, có thể kể:
. đất cồn cát trắng vàng, thường có nơi cồn cát khá cao (Quảng Điền),
có nơi còn tình trạng di động, có nơi chảy theo suối cát vào đồng lấp
đất trồng hoa màu (Phong Điền). Những cồn cát này thường có hai sườn
dốc: sườn dốc đứng quay về phía đất liền, sườn dốc thoai thoải về phía
biển. Gió biển thổi cuốn các hạt từ sườn thoai thoải, rơi xuống sườn
dốc đứng và lấp dần vào bên trong nội đồng. Vì gió mạnh nên nhiều đồi
cát ở Thừa Thiên từ Phong Điền đến Quảng Điền lấn vào đất, vào ruộng,
vào đuờng, gây nên hiện tượng sa mạc hoá. Mức phì nhiêu các loại đất
này kém vì khả năng giữ nước yếu
·
đất cát biển ở địa hình bằng, do sự bồi lắng phù sa và tham gia của
quá trình lấn biển, tạo thành các dải rộng hẹp khác nhau, có màu trắng
xám, pha vỏ sò, vỏ ốc..Một phần loại cát biển này đã được sử dụng
trong nông nghiệp như trồng rau, khoai lang biển ...
·
đất cát nội đồng (groundwater podzols) còn gọi là đất cát glây. Trên
các loại đất này, mức thủy cấp gần mặt đất, chỉ ở độ sâu cách lớp mặt
40-60 cm có lớp than bùn, nhiều chất hữu cơ màu đen dày 30-40cm, tạo
ra môi trường không thích hợp nên bạch đàn trồng sau vài năm cây
ngừng phát triển, đọt chính bị thui chột, vàng rồi chết. Riêng keo lá
tràm (Acacia auriculiformis) trồng trên cát nội đồng có sức
chịu đựng chua phèn cao hơn so với phi lao hoặc bạch đàn, nhưng có
nhược điểm là sức chịu gió kém, gặp bão hàng năm bị gảy đổ
Như vậy, so
với diện tích đất (không kể mặt nước như đầm, phá ..) của tỉnh Thừa
Thiên là 466 400 ha, các đất vùng núi đã chiếm 66% tức 2/3
diện tích, các đất vùng đồi thấp, bực thềm..13% , các đất vùng đồng
bằng chỉ chiếm 21% diện tích mà trong đất đồng bằng này, ta đã rộng
lượng gom luôn các giải đồi cát trắng dọc duyên hải, vốn không sử dụng
được trong nông nghiệp.
Sau đây diện
tích các loại đất chính ở Thừa Thiên (theo bản đồ đất đai trước 1975,
do Bộ Canh Nông xuất bản):
Đất phù sa: 53 850 ha
Đất mặn: 14 350 ha
Đất đồi cát trắng ven biển: 28 950 ha
Đất podzolic vàng đỏ trên đá acid: 57 200 ha
Đất podzolic vàng đỏ trên phù sa cổ sinh: 6 950 ha
Đất núi: 305 100 ha
Tổng cọng là 466 400 ha . Nếu thêm diện tích đầm Cầu Hai, phá Tam
Giang và diện tích sông ngòi, ta sẽ có diện tích toàn tỉnh Thừa Thiên
5 Tài nguyên nước
(water resources)
Lưu vực:
Vì đồng bằng Thừa Thiên vừa nhỏ, lại gần núi non nên các dòng sông
như sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương không dài lắm, so sánh với các
dòng sông khác của miền Trung như sông Mã ở Thanh Hoá hay sông Thu Bồn
ở Quảng Nam có lưu vực rộng hơn nhiều: Sông Mã, dài 410 km, lưu vực
rộng 28.400 km2; Sông Ba ở Phú Yên dài 388 km, lưu vực 13.800 km2,
ngay cả sông Thu Bồn chảy qua đồng bằng Quảng Nam dài 205 km và lưu
vực rộng 10.496 km2.
Lưu lượng:
lưu lượng của các dòng sông miền đồng bằng Thừa Thiên thay đổi theo
mùa: muà nắng, lưu lượng nước rất nhỏ, nên có thể lội bộ qua sông ở
nhiều chổ, nhiều cồn bãi hiện ra giữa dòng. Các dòng sông Thừa Thiên
chuyên chở phù sa ít hơn các dòng sông lớn khác. Ví dụ Sông Hồng cuồn
cuộn chuyên chở lượng phù sa là 940 g/m3. và màu đỏ đúng như tên gọi.
Mùa mưa, lưu lượng rất lớn dễ gây nạn lụt.
Vì các dòng sông trên không dài nên nước mưa, vốn tập trung vài tháng
trong năm, dễ gây ra lụt, nhất là khi không có kinh rạch để xả bớt
nước lủ. Mùa nắng thì nhiều đoạn trên sông có thể lội qua được. Nói
khác đi, lượng nước mưa mùa lụt và lượng nước mưa mùa nắng (lưu lượng
kiệt) chênh lệch nhau rất lớn. Nếu có các công trình giữ nước trên núi
hay vùng gò đồi thì vào mùa kiệt mới có thêm nước sông để tưới ruộng
và vào mùa mưa, bớt được lũ lụt ở hạ lưu . Ngoài ra, vì trên núi hiện
nay còn lại rất ít rừng, nên nước mưa xâm thực trong phạm vi lưu vực
các dòng sông trên đã đem theo cả sỏi đá lẫn cát bùn nên vào mùa lụt,
các dòng sông trên rất đục. Như vậy, các cửa gần sông cũng như các hồ
chứa nước, cũng dễ bị bít và cạn, phải nạo vét định kỳ.
Nguồn gốc:
ta phải phân biệt hai loại nước: đó là nước mặt (surface water)
và nước ngầm (underground water)
Nước mặt do các dòng sông cung cấp:
·
Sông Hương
do hai nhánh Hữu và Tả Trạch, bắt nguồn ở vùng giáp giới giữa hai tỉnh
Quảng Nam và Thừa Thiên, trong huyện Nam Đông và gặp nhau ỏ ngã ba
Tuần- Bãng Lãng. Sông chảy qua các vườn cây trái Nguyệt Biều, Long
Thọ; chảy qua Thiên Mụ
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Rồi xóm đạo
Kim Long:
Thuyền về Đại Lược, duyên ngược Kim Long
Đến đây là ngã rẻ đôi dòng
sau đó phố Huế với cầu Trường Tiền ‘sáu vài, mười hai nhịp’,
Cồn Hến, Vĩ Dạ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên’
(Hàn Mặc Tử),
xuôi về Bao Vinh, bồi đắp phù sa cho các Làng Sình
Đò từ Đông Ba, đò qua Vỹ Dạ
Đò từ Vỹ Dạ thẳng ngã ba Sình
Lờ đờ bóng ngã trăng chênh
Tiếng hò xa vắng nặng tình nước non
Và tiếp tục về Dương Nổ trước khi ra phá Tam Giang. Ở đây, tưởng cũng
nên mở dấu ngoặc: Đông Ba, vừa tên một cửa thành, vừa tên chợ ở Huế
trước có tên là Đông Hoa, sau do kị húy, nên vua Minh Mạng đổi là Đông
Ba
·
Sông Ô Lâu
khi về đến đồng bằng, gặp ngay các đồi cát cao Quảng Điền, phải chật
vật tìm đường về phiá Bắc để sau đó trở ngược xuống phá Tam Giang
·
Sông Bồ
cũng phát xuất từ phía đông giãy Trường Sơn, từ vùng núi huyện A Lưới,
chảy qua đất Phong Điền rồi đổ vào sông Hương ở huyện Phú Vang..
·
Hai con sông Nong và Truồi phát xuất từ núi Truồi và đổ vào đầm
Cầu Hai.
Nước ngầm không phải chổ nào cũng có mà phân phối phụ thuộc
vào một số yếu tố. Nước ngầm phong phú là ở vùng đồng bằng, ven các
dòng sông hay các cồn cát duyên hải .Đặc biệt, tại các đồi cát này,
chỉ có thể khai thác nước ngầm từ từ, vì nếu bơm nước nhiều quá, nước
mặn sẽ vào nước ngầm và như vậy, không thể sử dụng cho nông nghiệp hay
cho nước uống..Vùng đất đá vôi như ở Long Thọ, cũng có nhiều nước
ngầm, nhưng dự trữ nước ở quá sâu vì đá vôi có nhiều khe nứt nên việc
khai thác có phần khó khăn hơn. Dù sao, để tránh tình trạng mực nước
ngầm (thủy cấp) tụt quá sâu trong lòng đất khó khai thác tài nguyên
này, vẫn phải tránh tình trạng phá rừng, vì rừng giúp các dòng nước
thấm sâu xuống đất giúp phong phú hoá nước ngầm.
Nếu nói về chất
lượng của nước,
ta có: nước ngọt (freshwater), nước lơ lớ (brackishwater)
và nước mặn (saline water); cả 3 loại hình này có thể gặp từ
thượng lưu đến hạ lưu một dòng sông
Nước ngọt là
nước của các khe suối và sông ngòi phía thượng lưu. Nước lợ là nước
pha giữa nước ngọt và nước mặn và gặp các vùng gần cửa biển hoặc khi
mùa nắng, nước mặn xâm nhập sâu lên dòng sông thì nuớc sông bị nhiễm
mặn. Nước mặn ở ngoài biển. Nếu nưóc biển có những đặc điểm nhất định
như độ mặn, thì chất lượng nước sông lại biến thiên rất nhiều vì phụ
thuộc vào nhiều thông số như địa chất của lưu vực, thảo mộc trên lưu
vực và vật liệu do con người đổ vào lưu vực. Vài ví dụ:
Sông Hương chảy qua một vùng đá vôi (Long Thọ) do đó nưóc sông Hương
rất trong vì vôi (Calcium hoá trị 2) kết tủa các sét. Nhiều
suối chảy qua vùng lam sơn chướng khí, đầy chất hữu cơ mục nát của
thảo mộc thì nước không uống được.
Con người với
các hoạt động nông nghiệp và kỷ nghệ cũng đổ xuống sông suối nhiều
chất độc, gây ô nhiễm cho nước.
Môi trường nước ngọt
Trong ba thứ nưóc: ngọt, lợ, mặn thì loại nước ngọt quan trọng nhất vì
nước ngọt sử dụng trong nhiều đối tượng khác nhau như phục vụ sinh
hoạt (nấu cơm, tắm rửa, giặt ), phục vụ nông nghiệp (tưới cây, nuôi
cá, chăn nuôi), phục vụ kỷ nghệ (các công nghệ chế biến, sản xuất
giấy, thuộc da, phân bón..)
Trong môi trường nước ngọt có nhiều loại thủy sản cung cấp nguồn
protein qúy giá; có thể kể nhiều loại cá: cá lóc, cá rô, cá trê, cá
trạch, cá chài, cá chép v.v.
Môi trường nước lợ
Tại vùng này, ta nhận thấy kiểu địa hình hỗn hợp sông biển như các
cồn cát và các vùng trũng giữa cồn xưa kia là các đầm phá nay được
biến thành ruộng lúa.
Môi trường
nước lơ lớ (nước lợ) có:
- bãi triều lầy (tidal marsh),
- rừng ngập mặn gồm những loại cây sú, vẹt, đước, mắm..
- đầm phá (lagoon) là những vực nước được tạo ra do một hệ
thống những cồn cát ngăn với biển và ăn thông với biển phía ngoài qua
một hay nhiều cửa dẫn nước. Vùng đầm phá này có nhiều loại cá trong đó
phải kể các loại sau đây: cá dày, dìa, đối, cơm, bống thệ, cờ chấm
..Và có nhiều loài chim di trú vào mùa đông từ các vùng lạnh miền Bắc
đến như : sâm cầm, vịt trời, ngỗng trời, cò ...tạo nên những sân chim
lớn ở cửa sông Ô Lâu. Hệ thực vật thì ngoài rong tảo còn có cỏ biển
mọc thành thảm lớn ở vùng cửa biển Thuận An, Tư Hiền, các lạch sâu ở
đầm Thủy Tú và các bãi cỏ nông dưới mặt nước ở đầm Cầu Hai
Môi trường nưóc mặn
Thừa Thiên có
nhiều loài cá biển, tuy không nhiều như Bình Thuận vì thềm lục địa
nhỏ, sông ngòi ngắn, ít phù sa
Trong môi trường nước mặn, có thể kể:
- vùng vịnh nhỏ (embayment);
- các rạn san
hô (coral reefs)
Tuy nhiên, các nơi có độ mặn ít thay đổi có tiềm năng nuôi tôm sú .
Các chân ruộng trũng vùng đất ven phá Tam Giang tại Quảng Điền, Phú
Vang, Phú Lộc, nếu trồng lúa thì rất dễ bị ngập khi gặp mưa; nên đắp
đê bao nuôi tôm cùng ống cống rãnh quản trị nước ra vào của thủy triều
Những dải rừng ngập mặn là nơi nhiều loài tôm cá có giá trị sinh sôi
nẩy nở: thực vậy khi lá cây rụng xuống bị vi sinh vật phân hủy sẽ tạo
thức ăn cho sinh vật; ngoài ra dải rừng này có khả năng chống gió bão
. Khi các giải rừng này mất đi, đất bị khô thiếu nước ngọt thì đất
sẽ bị xì phèn, tạo nên thêm đất phèn. Do đó nhiều giải đê lấn biển
được tạo ra để có thêm đất khai khẩn nhưng chỉ vài năm sau, đất lại bị
bỏ hoang vì đất bị phèn . Có những nơi phá rừng ngập mặn để nuôi tôm
nhưng nhiều nơi đắp bờ bao nên đất không được ngập nưóc do đó đất bị
oxydhoá và làm độ chua đất giảm xuống, nên đất phải để hoang không còn
nuôi tôm được nữa.
6. Tài nguyên thực vật
Tài nguyên thực vật vùng núi Thừa Thiên , vì là nơi hội tụ của hệ thực
vật Himalaya và hệ thực vật Ấn-Mã nên rất đa dạng: rừng nguyên thủy có
nhiều tầng đại mộc, trung mộc, tiểu mộc , chưa kể một số tre rừng và
vài dương sĩ cao; thấp hơn có nhiều loại mây và lan mọc .Như vậy
rừng nguyên thủy vừa dày, vừa rậm rạp, có nhiều hệ thống rễ đi xuống
nhiều lớp đất khác nhau nên nước mưa không chảy tràn mà trái lại, dòng
chảy bị chậm lại và có thì giờ ngấm vào đất sâu, làm nước ngầm trong
đất được sung mãn hơn. Những cây như lim (Erythrophloeum fordìi),
kiền kiền (Hopea pierrei), táu (Vatica tonkinensis) rất
thường gặp trong các rừng nguyên thủỵ. Ngoài ra, có những cây bản địa
khác có giá trị kinh tế như : lát hoa (Chukrasia), muồng đen (Cassia
siamea), trám (Canarium Album), huỷnh (Tazrietia
Javanicakos), vạng trứng (Endospermum chinensis), bời lời (Litsea
sp), giổi (Talauma), lim xanh, quế .
Những loại cây
lâm nghiệp du nhập và trồng có thể kể:
bạch đàn (Eucalyptus
camaldulensis và Eucalyptus tereticornis), keo lá tràm (Acacia
auriculiformis), keo tai tượng (Acacia Mangium), thông nhựa
(Pinus Merkusìi ), gần đây hơn là thông Caraibe (Pinus
caribeae) tỏ ra sinh trưởng nhanh ở vùng gò đồi, phi lao (Casuarina
equisetifolia)
-Trên các đồi cát thường gặp các cây phi lao (Casuarina
equisetifolia), vừa giữ được cát, vừa dùng làm nguyên liệu (xây
nhà, làm cột kèo) hoặc các loài dứa dại (Pandanus), xương rồng
(Opuntia)
-Trên các loại đất nghèo nàn trong nội địa là các loại trảng nhiều lùm
bụi thấp như sim (Rhodomyrtus tomentosa), mua (Melastoma
), móc, chủi rành (Baecka frutescens)..Trước kia là rừng nhưng
vì loài người đốn phá làm củi nên rừng bị thoái hoá .
7 Sử dụng đất đai
Thừa Thiên-Huế có diện tích đất tổng cọng trên 5000km2 ( 500 920 ha)
trong đó chỉ có 49 107 ha là đất nông nghiệp gồm đất trồng cây hàng
năm như lúa, hoa màu là 45 888ha, còn lại là nhà cửa, cây ăn trái . Vì
đất nông nghiẹp rất nhỏ, nên cùng một thửa đất, nông dân phải trồng
nhiều vụ trong năm như có thể là 2 vụ lúa, hoặc một vụ lúa và một hoa
màu (bắp, đậu phụng, khoai lang ..) v.v.
Tùy theo ruộng
cao, ruộng thấp mà các giống lúa cũng khác nhau.
Lúa tháng 3 (tức lúa Đông Xuân) , gieo sạ vào tháng 11 âm lịch và gặt
vào tháng 3 âm lịch. Năng suất lúa này tùy mức độ phì nhiêu của đất
phù sa.. Diện tích ước lượng 26 000-27 000 ha mỗi năm .
Lúa tháng 8 (tức luá Hè Thu) gieo sạ vào tháng 4 âm lịch trên các
chân ruộng thấp và gặt vào tháng 8 âm lịch, trước khi muà lụt đến
(thường vào tháng 9 âm lịch), do đó nông dân phải sử dụng các giống có
chu kỳ sinh trưởng chỉ từ 90 đến 100 ngày. Diện tích 22 000 ha mỗI năm
Hiện nay, trong chiều hướng thâm canh, nông dân sử dụng các giống
chu kỳ sinh trưởng ngắn , năng xuất cao hơn nên sử dụng phân đạm rất
nhiều so với phân lân và kali .Vì vậy, mất cân bằng nên làm đất suy
thoái nhanh chóng. Thực vậy, phân đạm làm tăng lượng hút P, K lên.
Ngoài các loại ruộng làm được hai vụ lúa, cũng có các loại ruộng chỉ
làm được một vụ lúa và một vụ hoa màu như đậu phụng, bắp, rau cải.
Ven thị xã Huế, nhiều vườn chuyên canh trồng rau cải và cây gia vị vì
có một thị trường tiêu thụ quanh năm..
Ngoài lúa, Thừa Thiên có nhiều loại đậu như đậu xanh, đậu đen, đậu ván (Dolichos lablab), đậu ngự (Phaseolus lunatus), đậu nành
-
Các loại rau cải và gia vị: ớt, tiêu, gừng, sả, kinh giới, tía
tô, rau thơm, rau cúc v.v,
-
Các loại cây ăn trái: qúit, bưởi, chanh, khế, sapotier, mít,
ổi, vú sữa, chưa kể vài đặc sản như dâu núi vừa chua, vừa ngọt; bồ
quân, trái tròn như viên bi .
-
Các loại củ : khoai lang, sắn, khoai môn, khoai tia, khoai lùng
và đặc biệt có củ nưa
Vài đặc sản liên hệ đến các địa danh ở Thừa Thiên:
Qúit giấy Hương Cần
Cam đường Mỹ Lợi
Vải trạng Cung Diên
Nhãn lồng Phụng Tiên
Đào tiên Thế Miếu
Thanh trà Nguyệt Biều
Dâu da rừng Truồi
Hột sen Hồ Tịnh
8 Các vấn đề của tài nguyên đất .
Tài nguyên đất
đai Thừa Thiên có nhiều vấn đề: nạn sa mạc hoá, nạn hoang hoá, nạn mặn
hoá, nạn bờ biển bị xâm thực, nạn đất dốc bị xói mòn, nhưng để hệ
thống hoá tư tưởng, ta cũng nên phân loại theo phần địa hình nói ở
phần 2, nghĩa là phân chia vấn đề của tài nguyên đất theo miền núi và
miền đồng bằng
81 Miền núi
Trước hết là
nạn xói mòn (erosion) và rữa trôi (leaching) trong mùa mưa.
Đất dốc vùng núi rất nhiều . Xói mòn phụ thuộc vào nhiều thông số như
chiều dài của độ dốc, độ dốc nhẹ hay nặng (trên 25 độ), độ che phủ
thực vật. Xói mòn trên các lưu vực sẽ làm các hồ chứa nước bị lắng tụ
rất nhanh và làm lòng sông cạn dần, khiến lưu lưọng nước chảy ít đi.
Nên có nông lâm
kết hợp, cọng thêm các biện pháp công trình (bực thềm, hố ) và biện
pháp sinh học (băng cây, trồng cây đậu phủ đất làm phân xanh..). Nhưng
nếu chỉ bảo vệ đất không thôi thì cũng chỉ mới là biện pháp sơ khởi
vì mới cải thiện phần hữu cơ do đó vẫn cần bón thêm phân vô cơ (hoá
học) trên các cây đa niên, rễ sâu. Đất hẹp, người đông mà nếu đất
không được sử dụng hợp lý thì con ngưòi tự làm hại đến mình: đất thoái
hoá thêm, nghèo thêm
Mùa nắng, độ ẩm đất sụt xuống nhanh, do đó trong các vườn trồng cà phê, trà, điều, cây ăn trái vẫn cần các biện pháp giữ ẩm độ .
Sau đó là nạn hoang hoá . Các gò đồi nay trơ sỏi đá rất nhiều nhưng trước kia là rừng; phá rừng làm đất mặt bị trôi chảy hết, chỉ còn lại lớp đất sâu vớI sỏi laterit trên đất mặtkhông trồng trọt được, ngoại trừ vài lùm bụi thưa thớt
82 Miền đồng
bằng
cũng nhiều vấn
nạn:
-
nạn sa mạc hoá
(desertification). Nhìn các đồi cát trắng mênh mông ở Phong Điền, Quảng
Điền, tưởng chừng ta đang ở Mauritanie! Thực vậy, cát bay đã khiến
nhiều ruộng vườn bị cát che lấp ; nếu không cố định bằng các thảo mộc
như dứa dại (Pandanus) hay filao (Casuarina) sẽ gây tai
hại đến môi trường sinh thái các làng duyên hải . Chính vì cát bay,
nên diện tích đất nông nghiệp bị giảm đi mỗi ngày và chi phối đến cảnh
nghèo đói các quận như Quảng Điền, Phong Điền.
-
nạn mặn hoá
(salinisation):
Vì lưu lượng
sông Hương mùa nắng không nhiều và thêm tưới nước ruộng đồng cho hoa
màu nên nước biển xâm nhập sâu lên thượng nguồn. Đầu tháng 5, nước
sông Hương tại cầu Cồn Hến, cách nhà máy nước Giã Viên 3,8 km là 117,
5mg NaCl/l (trên 100mg NaCl/l nước đã có vị mặn và ảnh hưởng đến nước
sinh hoạt
-
nạn
bờ biển bị xâm thực :bờ biển Thừa Thiên bị ít đi từng ngày: với
chỉ một trận lụt cuối 1999 và các trận lũ trong năm 2000 đã làm hàng
chục cột đèn điện, hàng trăm mét đường dọc bờ biển Thuận An bị nhận
chìm và cuốn trôi ra biển. Bãi cát trên bờ trước kia rộng 300-400m,
nhưng ngày nay, sau một thời gian bị xâm thực, bờ biển gần như bị xoá
sổ trên bản đồ; nhiều nhà trước đây xa mép nước biển hàng trăm mét thì
nay nước biển đã mấp mé chân tường.
Bờ biển thuộc
xã Hải Dương, huyện Hương Trà nằm phía bắc thị trấn Thuận An : biển
xâm thực với chiều dài hơn 1500m, sâu vào đất liền cả gần 200m; nhiều
đồi cát cao hơn 20m xem như con đê an toàn bảo vệ cho ngư dân nay nước
biển cũng xâm thực. Cột hải đăng Thuận An có nguy cơ bị sập đổ vì chỉ
còn cách mép nước khoảng 4m . Sóng biển xâm thực theo sau trận hồng
thủy cuối 1999 cũng đã mở ra thêm 2 cửa biển mới nên hàng trăm mẫu
ruộng ở Bàu Ô ngập sâu trong nước mặn. Nhiều nhà phải dời nhà
-
nạn sụp lở bờ
sông:
nạo vét sạn qúa
sức lòng sông với những phương pháp máy nổ hút cát sạn sẽ làm cho lòng
sông Hương sâu xuống, tạo thành nhiều vực nguy hiểm và gây cảnh sụp lở
nghiêm trọng làm cho nhiều vườn tược ven sông sẽ đổ xuống dòng sông.
Chân bến bị khoét nên nhiều bến nước bên bờ sông là chỗ người dân si
nh hoạt sẽ không sử dụng được. Như vậy nhiều đập chắn cũng có thể bị
vỡ, nguy hiểm tính mạng dân chúng.
-
nạn
lũ lụt.
Trời hành cơn lụt mỗi năm...
Các dòng sông chảy qua đồng bằng Thừa Thiên thường ngắn và có một
lưu vực hẹp. Do đó, nước sông lên rất nhanh. Mùa lụt đi sát với mùa
mưa lớn, vào tháng 11, cùng với các trận bão nhiệt đới thổi từ Thái
Bình Dương .
Câu tục ngữ của dân gian cũng nói lên điều ấy:
‘Ông tha mà bà chẳng tha, làm cho cái lụt 23 tháng mười ‘.
Vì lưu vực các
dòng sông thường nhỏ và độ dốc lưu vực rất lớn nên mưa xuống làm nước
mưa dâng cao rất nhanh. Lũ lụt thường đến bất thình lình và thay đổi
tùy năm.. Có lúc mưa bão gây ra một lượng mưa rất lớn, có thể vài trăm
mm trong 24 giờ . Ảnh hưởng của giãy núi cũng gây ảnh hưởng. Một phần
thì rặng núi gần đồng bằng, mặt khác, núi có triền dốc rất lớn, nên
vận tốc của dòng chảy cũng rất mạnh.
Thừa Thiên năm nào cũng có lụt, lụt lớn, lụt nhỏ, lụt sớm, lụt muộn.
-lụt đầu mùa (vào tháng 5 ) có thể làm hư hại lúa tháng
3 còn gọi là lúa Đông Xuân sắp gặt, hư hại hoa màu như đậu phụng, ớt,
bắp ;
-lụt trễ
thì làm hư hại lúa tháng 3 mới gieo.
-lụt nhỏ thì các xã vùng trũng bị ngập trước.
-lụt lớn
thì ruộng cao cũng bị hư, chưa nói đến ao nuôi cá bị vỡ trôi, đê bao
bị vỡ hoặc bị sạt lở, nhà cửa bị cuốn phăng ra biển, mở thêm các cửa
biển như trận lụt cuối năm 1999 đã chứng tỏ.
Nhưng trận lụt
lịch sử cuối năm 1999 đã gây tai nạn khủng khiếp nhất vì cường độ bão
lụt đã tạo thêm cửa biển mới và hiện nay, nước biển ra vào đầm phá Tam
Giang-Cầu Hai qua 5 cửa, còn trưóc đó chỉ phần lớn qua cửa Thuận An và
Tư Hiền. Các hệ đê bao, đê biển đều bị phá hủy, làm đảo lộn môi trường
nước. 44 xã quanh vùng đầm phá thuộc các huyên Phú Vang, Phú Lộc, Hương
Trà với hơn 300 000 dân bị ảnh hưởng vì đang có biến đổi về môi trường
sinh thái quanh vùng
Tóm tắt:
đất đai Thừa Thiên bị thoái hoá do 4 tác nhân sau đây:
do nước
( xói mòn, sụp lở, bờ biển bị xâm thực),
do gió
(đồi cát bị gió bay gây sa mạc hoá),
do hoá học
(mặn hoá),
do lý học
(đất dốc, địa hình núi cao, vực thẳm, do bị nén cứng (soil compaction)
vì trâu bò dẫm chân qúa tải).
Tùy địa phương, tùy vùng, các tác nhân trên gây thiệt hại nhẹ hay nặng
9 .Thiết lập một hệ thống địa lí
(Geographical Information system)
Ngay từ thời Việt Nam Cọng Hoà (trước 1975), chúng ta đã có các bản
đồ địa hình tỉnh Thừa Thiên với nhiều tỷ lệ xích khác nhau: có cái
1/100 000; có cái 1/250 000; có cái khá chi tiết như ở đồng bằng. Bộ
Nông Nghiệp Viet Nam Cọng Hoà cũng có bản đồ đất đai tỷ lệ xích 1/
1000 000 (từ sông Bến Hải trở vô Nam). Nên mã số hoá (digitalize) các
bản đồ trên. Ngày nay, các điều kiện môi trường như đất, nưóc, rừng,
lưu vực, cần được nghiên cứu thêm trong chi tiết bằng cách thiết lập
các trạm đo, các trạm nghiên cứu vì các số liệu về khí hậu, độ dốc,
thảm thực vật, phì nhiêu, sử dụng đất đai như vậy sẽ rất có ích cho
một cơ sở dữ liệu (data base), từ đó sử dụng hệ thông tin
địa lý (geographical information systems). Với phần mềm (software)
của chương trình, ta có thể truy cập, lồng ghép, cải biên, biến đổi,
tạo bản đồ mới theo từng chủ đề (carte thématique) , tiết kiệm thời
gian tìm tòi và liên kết các số liệu, nói nôm na, là với ngân hàng dữ
liệu, ta có thể ‘xào nấu’ lại để tìm những thông tin mới. Một hệ thông
tin địa lý cho Thừa Thiên được luôn luôn cập nhật hoá sẽ giúp tư vấn
về mọi vấn đề sử dụng đất đai, từ sổ địa bộ cho đến quy hoạch đô thị,
chuyên chở, hạ tằng cơ sở, trồng rừng, chống cát bay.
Nói khác đi, phải áp dụng công nghệ thông tin (information technology)
trong vấn đề chỉnh trang, hoạch định .
10 Bảo vệ đất đai, quản trị lưu vực
(watershed
management)
và tăng cường độ phì nhiêu đất đai
Đất là cơ sở
của mọi thực vật và động vật: nếu đất nghèo, xói mòn thì thực vật mọc
trên đó không thể có năng xuất cao; do đó, cần phải gìn giữ gia tài
này, làm đất được phì nhiêu mãi mãi hầu có sản xuất bền vững.
. trên các gò
đồi
tức trên các đất feralít vàng đỏ rất nghèo nàn, nên trồng những cây.
Ngoài các loại cây này, có thể trồng các loại cây rừng sinh trưởng
nhanh như soan Ấn độ (Azadirachta indica) rất kháng hạn và chịu
được đất nghèo nàn, bạch đàn (Eucalyptus sp), cho củi cũng như
cho gổ. Nuôi bò chú trọng vào phẩm hơn lượng và phải quản lý các trảng
cỏ sao cho số lượng trâu bò không qúa sức tái sinh của cỏ, làm đất
chóng xói mòn thêm.
Phân
xanh kháng hạn (Desmodium, Pueraria, Mucuna), có tính cách bao
phủ đất để vừa có được nhiều chất mùn trong đất, vừa tạo một sinh khối
tươi nuôi bò
-trên đất cát
ven biển:
điều chỉnh dinh dưõng phải đi song song với chặn cát bay, tạo băng cây
mọc nhanh để có nguồn tại chỗ, tăng keo hữu cơ cho đất bằng mọi phương
pháp trước khi dùng phân hoá học
.Vùng
cát : cát lấp làng, lấp ruộng, lấp đường giao thông do đó phải lập
rừng , cố định cát, nâng cao độ che phủ rừng trên vùng cát di động :
trồng dứa dại (Pandanus sp), phi lao
(Casuarina), trồng dừa với những băng cây xanh như đậu triều (Cajanus
cajan), ở giũa các hàng dừa để chống nạn cát bay
-trên các chân đất cao, nhiều cát ít giữ nước , cần trồng những
cây ít cần nước như đậu phụng, đậu triều (Cajanus cajan), và
nên lập các cơ sở hạ tằng như nhà máy ép dầu đậu phụng tại chổ thay vì
xuất cảng đậu phụng hột .
- trên đất mặn ven phá : nuôi tôm các vị trí thuận lợi ven phá,
nuôi các thủy sản như cá, cua. Tùy vị trí, làm đê ngăn mặn, giữ ngọt
- trên đất dốc :
Loại đất núi này sau khi khai hoang thì mất chất hữu cơ nên khả năng
giữ dinh dưỡng của đất sẽ không cao. Chất hữu cơ giảm sẽ kéo theo một
loạt suy thoái: suy thoái về dung tích hấp thu (cation exchange
capacity), về đạm, về cacbon. Các loại đất dốc thường nghèo dinh
dưỡng, chua, nghèo đạm, lân và kali dễ tiêu. Cần tạo băng chắn cây
xanh bảo vệ đất dốc, giảm độ dốc để chống xói mòn và rửa trôi, cải
thiện độ phì nhiêu đất dốc, nông lâm kết hợp, tăng ẩm độ. Giúp
các xã lân cận rừng bảo vệ rừng bằng cách giao đất cho xã tự lo liệu
lấy việc quản trị bền vững vì ‘cha chung không ai khóc’.
Thông nhựa Pinus merkusii là cây rừng trồng được trên gò đồi
núi thấp trên đất này, dù đất thoái hoá mạnh, đồi trọc (Thiên An, Núi
Ngự). Nhược điểm của rừng thông thuần loại là dễ cháy, dễ bị dịch sâu
bệnh, nhát là dịch sâu róm thông và ong cắn lá
. trên đất phù
sa:
Vì đây là vùng đất có nhiều tiềm năng sản xuất thực phẩm cao độ, nên
cần lập các bản đồ đất đai trong chi tiết vì nhờ vậy, mới có thể bón
phân hoá học chính xác được, giúp bớt ô nhiễm đất và nước. Thực vậy,
bón phân thái qúa cũng không phát huy hiệu qủa tốt mà lại tốn nhiều
tiền. Bón phân hoá học cân đối nghĩa là không chỉ sử dụng quá nhiều
đạm và lân mà còn chú trọng thêm phân kali và các vi lượng
(oligoelements). Tăng cường phân hữu cơ và tận dụng các phân mục
(compost) từ rác rến trong thành phố và các thị trấn.
11 Đa dạng sinh học và bảo vệ đa dạng sinh học
Nhiều loài cây rất thân thương quen thuộc nhưng thật ra, trước kia không có ở Thừa Thiên vì có nguồn gốc từ các xứ khác: cây khế, cây xoài, cây vú sữa, cây cao su, cà phê , cây xapochê v.v xuất xứ từ Nam Mỳ, từ Ấn Độ, từ khu vực Mã lai.
Sau đây là vài
loại cây thường gặp ở Thừa Thiên với nguồn gốc không phải Đông Nam Á:
Tiếng Việt
|
Tên khoa
học
|
Nguồn gốc
|
đậu phụng
|
Arachis
hypogaea
|
Nam Mỹ
|
đậu triều
|
Cajanus
cajan
|
Ƒn Độ
|
Ớt
|
Capsicum
annưm
|
Nam Mỹ
|
Khoai lang
|
Ipomea
batatas
|
Nam Mỹ
|
Cà chua
|
Lycopersicum esculentum
|
Nam Mỹ
|
Khoai mì
|
Manihot
esculenta
|
Nam Mỹ
|
Thuốc lá
|
Nicotiana
tabacum
|
Nam Mỹ
|
Bắp
|
Zea mays
|
Nam Mỹ
|
Thơm
|
Ananas
comosus
|
Nam Mỹ
|
Ủiều
|
Anacardium
occidentale
|
Nam Mỹ
|
Mít
|
Artocarpus
heterophyllus
|
Ấn Độ
|
Khế
|
Averrhoa
carambola
|
Indonesia
|
Đu Đủ
|
Carica
papaya
|
Trung Mỹ
|
Düa hấu
|
Citrillus
lanatus
|
Phi châu
|
Cà phe
|
Coffea
robusta
|
Phi châu
|
Xapochê
|
Manilkara
zapota
|
Trung Mỹ
|
Xoài
|
Mangifera
indica
|
Ấn Độ
|
Tiêu
|
Piper
nigrum
|
Ấn Độ
|
ỔI
|
Psidium
guava
|
Trung Mỹ
|
Lựu
|
Punica
granatum
|
Ba Tư
|
Mía
|
Saccharum
officinarum
|
Papua New
Guinea
|
Me
|
Tamarindus
indica
|
Ấn độ
|
Cây phi lao
|
Casuarina
equisetifolia
|
Úc châu
|
Cây phượng
vĩ
|
Delonix
regia
|
Madagascar
|
Bạch đàn
|
Eucalyptus
(camaldulensis, tereticornis, ..)
|
Úc Châu
|
Các loài thực
vật hiện tại đều có nguồn gốc hoang dại nhưng lại có quan hệ họ hàng
với các loài đã được con người thuần dưỡng.
Nhiều giống cây, nhiều giống hoa màu hoang dã nhưng lại chứa đựng
một quỹ gen rất phong phú . Nhờ quỹ gen đó mà có thể thay đổi hay cải
thiện các giống hiện có, bằng cách lai giống, ghép cây, để tạo ra các
giống mới thích nghi với môi trường mới, kháng sâu hơn, giúp cải thiện
môi trường. Sự đa dạng sinh học là điều kiện cần thiết để có một
quỹ gen phong phú . Nhiều giống luá kháng lạnh, kháng hạn, kháng
mặn có rải rác ở mọi nơi .
Nhờ đa dạng
sinh học, nhất là thảo mộc hoang dã trên núi, giúp cải thiện khí hậu,
bảo vệ đất chống xói mòn, điều hoà dòng chảy; nhiều dược phẩm mới có
khả năng được phát hiện qua các khảo cứu các thảo mộc thiên nhiên
trong rừng. Và nhất là Thừa Thiên, các khu rừng có đặc tính đa dạng
sinh học rất cao vì vừa là nơi các hệ thực vật Nam Hoa và Nam Á giao
thoa lẫn nhau . Nếu ta hủy hoại rừng, vô hình chung tài sản gen của
nhân loại bị phá vỡ luôn
Tính cách đa dạng các nông sản đã tạo nên văn hoá ẩm thực đa dạng. Chỉ
nói về chè ở Thừa Thiên, ta
có : chè hột sen, chè đậu ván , đậu ngự , đậu quyên, chè bắp, chè đậu
xanh, đậu đen, chè môn, chè khoai tía, chè kê ..Các gia vị đa dạng
cũng vậy : ớt, tiêu, hành lá, tỏi, kiệu, rau tầng ơ, thì là, rau răm,
rau thơm, rau húng quế, quế, sung, vả ..
12 .Dân số , phát triển và môi sinh .
Sơ đồ sau dây cho thấy các thành phần của sự thay đổi môi trường do ảnh hưởng của dân số, sự gia tăng dân số liên quan đến nông nghiệp, kỷ nghệ, đô thị hoá :
Dân số
Kỹ nghệ Nông nghiệp
Tăng CO2 Thay đổi thảm
thực vật
Thay đổi khí hậu Mất đa dạng sinh
học
Hình 4. Mô hình liên quan giữa dân số, nông nghiệp và kỷ nghệ
13.Vài đường hướng phát triển
A/ Theo góc độ tài nguyên thiên nhiên .
Giãy núi Trường Sơn liên hệ chặt chẻ với miền đồng bằng duyên hải vì
sự tàn phá môi sinh trên núi ảnh hưởng tại hạ lưu, do đó muốn có sự
phát triển bền vững, cần trùng tu, bảo vệ môi sinh của rặng núi này,
có thế mới có sự phát triển lâu bền miền hạ lưu . Cụ thể là:
-trồng các cây kỷ nghệ lâu năm, có hệ thống rễ ăn sâu vào đất như cà
phê, trà, cây ăn trái tại các triền dốc nhẹ ( dưới 10%) .
-tại các ven suối, khe có ẩm độ mát nên trồng chuối plantain như chuối
trồng tại các hệ thống canh tác truyền thống tiểu nông ở Cuba, Haiti
vì giống chuối này kháng bệnh và có tinh bột nhiều, ăn như cơm.. Chuối
giữ được đất, mau cho lợi tức và chống được xói mòn.
-trên các triền dốc trung bình ( từ 10 đến 35% ), có thể vừa trồng cây
hàng năm phối hợp vói cây lâu năm, có rễ sâu, trong hệ thống nông lâm
kết hợp để vừa có lương thực, vừa duy trì bảo vệ được môi trường.
-tại các triền dốc mạnh thì tuyệt đối phải trồng rừng hỗn hợp (bạch
đàn Eucalyptus, soan Azadirichta indica kháng hạn,
Acacia ..) để vừa có gổ cung cấp nhanh chóng cho đồng bằng vừa bảo
vệ đất
-tại các địa
điểm thuận tiện về mặt địa hình, nên thiết lập thêm các hồ chứa nước.
Các hồ này giúp giảm bớt nạn lụt ở hạ lưu, giúp tăng thêm lưu lượng
nước cho sông ngòi vào mùa nắng để có đủ nước tưới cho miền đồng
bằng.
-tại miền đồng bằng, trên các đất nào gần nguồn cung cấp nước, có khả
năng trồng rau cải hàng hoá (hành, tỏi, các loại cải ..) xử dụng máy
bơm từ các giếng cạn; trên các phù sa cận đại, có thể trồng các loại
cây ăn trái như vải thiều, nhãn Thái Lan . Gần đô thị, có thể trồng
hoa, trồng lan để xuất cảng
-miền phá, đầm.. nghỉ đến nuôi trồng thủy sản (cá, tôm...) bằng cách
tận dụng các phó sản nông nghiệp ở đồng bằng.
-miền cửa biển, vũng,.. Nghiên cứu khả năng phát triển
du lịch để tạo công ăn việc làm .
B/ Theo góc độ hoạt động phi nông nghiệp .
Nông dân không đất nên giúp phương tiện , đào tạo ngành nghề để họ
chuyển sang khu vực kinh tế ngoài nông nghiệp (off-the-land
activities) :cần phát triển kỷ nghệ tại nông thôn để giữ nông dân lại
tại nông thôn , nếu không họ tràn vào đô thị, gây thêm nhiều vấn nạn
xã hội .Các kỷ nghệ như biến chế nông sản, sản xuất và sửa chữa nông
cơ, nông cụ, kỷ nghệ xây dựng và các dịch vụ tại nông thôn (tín dụng,
ngân hàng, bảo hiểm, chuyên chở), buôn bán các phương tiện sản xuất
(phân bón, thuốc chủng, giống cây trồng..) cũng như thương mãi giúp
giảm áp lực dân số trên đất trồng trọt .Thừa Thiên với những trường
Đại Học, với những người cần cù hiếu học, có điều kiện phát triển các
công nghệ thông tin, các công nghệ sinh học, tóm lại các việc cần chất
xám, làm giảm được sức ép trên tài nguyên thiên nhiên
Đây là hướng đi trong tương lai, vì Thừa Thiên có tiềm năng nông
nghiệp quá hẹp . Các dịch vụ như
. kỷ nghệ du lịch:
Ngoài các du lịch cổ điển (thăm Đại Nội, lăng tẩm..), du lịch sinh
thái (tourisme écologique) ở những vùng rừng núi, qua suối, qua khe,
nhìn thác nước, nhìn trăng lên ở miền núi ..cũng là khía cạnh cần khai
triển trong các vùng giãy núi Trường Sơn ở Thừa Thiên .
. kỷ nghệ đóng đồ mộc,
do đó cần trồng cây gổ mọc nhanh, thân cây suông sẻ trên đất hướng
lâm.
. kỷ nghệ giao thông .
Thừa Thiên là cửa ngỏ đến các xứ thuộc ASEAN gần nhất vì với đường số
9 và cây cầu băng ngang sông Mékong ở Savannakhet theo kế hoạch dự
trù, sự trao đổi hàng hoá sẽ rất dễ dàng vì xa lộ này sẽ xuyên qua
Thái Lan đến hải cảng ở Miến Điện rất nhanh chóng, nối liền Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương.. Các kỷ nghệ phi nông nghiệp này kéo theo
một loạt các dịch vụ khác, tạo công ăn việc làm như trạm xăng, sửa xe
hơi, bảo hiểm, ngân hàng..
14 Thay lời kết
Không thể chối cãi rằng hiện nay, tài nguyên tái tạo được của Thừa
Thiên bị nhiều chấn thương quan trọng do nhiều yếu tố; ngoài yếu tố
thiên tai, con người đã tác động xấu đến môi trường do sức ép dân số
nên sự cân bằng sinh thái bị đảo lộn, trên núi với hiện tượng xói mòn,
duyên hải với sa mạc hoá, đồng bàng với nhiễm mặn .
Cải thiện môi trường đòi hỏi một tiếp cận sinh hệ, xem môi trường như
một hệ thống gồm nhiều yếu tố có tương quan lẫn nhau; cái này dẫn đến
cái kia, do đó muốn cải thiện môi trường, phải tác động lên toàn bộ và
đồng thời mới có hiệu năng. Tiếp cận sinh hệ nhằm bảo vệ và ngăn ngừa
các hậu qủa tai hại trước khi hậu qủa xấu xảy ra và không phải
chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là sản xuất mà còn phải kết hợp
với các chức năng khác như giải trí ngoài trời, du lịch sinh thái,
bảo vệ chất đẹp, chất thơ, chất hồn, nhưng cũng quan tâm đến nhu cầu
kinh tế chính đáng của các cộng đồng sống quanh hệ sinh thái, nói khác
đi, khai thác tiềm năng phát triển của Thừa Thiên, là vừa khai thác
khoa học tài nguyên thiên nhiên trên các miền đất đai khác nhau, vừa
tôn trọng cân bằng sinh thái, có như vậy thì mới có sự phát triển lâu
bền .
Tác động toàn bộ có nghĩa cụ thể từ giáo dục để nâng cao nhận thức bảo
vệ môi trường, đến sinh đẻ có kế hoạch, từ quản trị lưu vực trên núi
đến ngăn sa mạc hoá dưới đồng bằng, tóm lại phải làm đẹp cả hai loại
môi trường là môi trường cảnh quan thiên nhiên và môi trường cảnh quan
văn hoá. Chỉ khi mà cả hai loại môi trường thiên nhiên và sinh thái
nhân văn này được hài hoà, hài hoà giữa rừng và núi, giữa núi và sông,
giữa người và đất, giữa đồng bằng và núi thẳm thì con người mới thăng
hoa trong cuộc sống nghĩa là tiến bộ về vật chất và an bình trong tâm
hồn.
Thái Công Tụng
Thái Công Tụng