I.Tham nhũng chính trị tại Việt Nam
Tham nhũng chính trị chính là
sự lạm dụng quyền lực mà các chính trị gia được giao phó để thu
lợi riêng, với mục đích tăng quyền lực hoặc tài sản.
Tại Việt Nam xuất phát từ nền trị
chính bất minh, luật pháp không dựa trên các giá trị phổ quát nhưng chỉ là nghị
quyết của Đảng, nhất là qua chiêu bài Quốc tế vô sản song thật sự chỉ là hình
thức của chủ trương nô lệ thời mới!
Họ Hồ khẳng định như sau: “Các cô chú nên nhớ điều nầy, ai có thể sai, nhưng Bác Staline, Bác Mao thì không bao giờ sai cả”! Hảo tề! Đã làm người mà không sai lầm chỉ là NGỢM!
Tố Hữu làm thơ “Bên nầy biên giới là nhà, bên kia biên giới
cũng là quê hương”. Quê hương của ngàn năm nô lệ giặc Tàu đầy sự mỵ dân thời
mới!
Kẻ bán nước, ôm chân đế quốc chính là Hồ Chí Minh và Phạm
Văn Đồng. Bán nước có văn tự, có giấy tờ (công hàm) ký ngày 14-9-1958 cho Trung
Cộng.
Nên hà tất dẫn đến một chế độ với bao hệ lụy tham ô, nhũng
lạm! Thượng bất chánh, hạ tắc loạn! Qua sự kiện gây ồn ào một thời gian việc
cha con thứ trưởng thường trực Bộ Thương mại bị bắt vì cáo buộc nhận tội hối
lộ. Các vụ khác được công khai như các tổng công ty Dầu khí, Hàng hải, Thủy
sản, Điện lực…và đặc biệt Vinashin đến Vinalines với người đứng đầu là những kẻ
thẩm quyền của chế độ!
Ông Phan Diễn, nguyên ủy viên
Bộ Chính trị, thường trực Ban bí thư Trung ương Đảng, được trích lời
nói: “Nếu chúng ta thực hiện được dân chủ thật sự ở các cơ quan, nâng cao tinh
thần dám phê bình, nhận xét, đấu tranh vì lợi ích chung thì những vụ việc tiêu
cực, tham nhũng sẽ khó thực hiện hơn.”
Mối quan hệ giữa tham nhũng
và dân chủ đã được nhiều nhà nghiên cứu xác nhận, vì tham nhũng phá
hủy các nguyên tắc giúp cho một xã hội dân sự phát triển!
Trong các báo cáo hàng năm của
tổ chức Transparency International đều đặt trọng tâm vào vấn đề tham nhũng
chính trị. Trong bản báo cáo 2004, Peter Eigen, Chủ tịch Transparency
International, tuyên bố báo cáo là lời kêu gọi “Đưa sự liêm chính
và trách nhiệm vào việc trị quốc, chấm dứt tệ hối lộ của các công
ty đa quốc gia, và ngăn dòng lưu chuyển tài sản đánh cắp vào các
trương mục ngân hàng bí mật tại phương Tây.”
Ông Chủ tịch viết tiếp: “Việc
lạm dụng quyền lực chính trị để thu lợi riêng khiến những người
nghèo nhất mất đi các dịch vụ xã hội cần thiết, tạo nên mức độ
tuyệt vọng khơi mào cho xung đột và bạo lực.”
Vậy tham nhũng chính trị
chính là sự lạm dụng quyền lực mà các chính khách được giao phó để
thu lợi riêng, với mục đích tăng quyền lực hoặc tài sản.
Rõ hơn, Robin Hodess, một trong
các tác giả báo cáo, đã nhấn mạnh: “Tham nhũng chính trị không
nhất thiết dính đến việc tiền trao tận tay; nó còn có thể mang hình
thức của việc ‘trao đổi ảnh hưởng’ hoặc ban phát đãi ngộ để khiến
nền chính trị bị đầu độc và dân chủ bị đe dọa.”
Như vậy tham nhũng chính trị - political corruption - khác
với tham nhũng ‘cò con’ của các viên chức ở chỗ chỉ xảy ra bởi các lãnh tụ
chính trị, những người có thẩm quyền chi phối hoặc chủ động các quyền lợi của
người dân.
Theo báo cáo 2004 của Tổ chức Transparency International,
tham nhũng chính trị sẽ tác hại đến toàn xã hội như sau:
“Tại các nước đang phát
triển, tham nhũng chính trị đe dọa sự sống còn của nền dân chủ, vì
nó khiến cho các định chế dân chủ trở nên yếu ớt.
“Việc vén màn các vụ tham
nhũng có thể gây sốc cho toàn xã hội. Nhưng một thực tế là trên thế
giới, rất khó trừng phạt các lãnh tụ bị nghi ngờ tham nhũng.
“Nhiều lãnh đạo đã rời
nhiệm sở hoặc qua đời trước khi tội của họ bị phanh phui.
Transparency International đưa
ra một bảng những bị cáo tai tiếng, với ước tính tài sản họ đã
lấy đi. Nó nhắc nhở người ta về tác động của sự lạm dụng quyền
lực đối với một đất nước.
Ví dụ, cựu tổng thống
Indonesia, Suharto, bị nghi đã biển thủ từ 15 đến 35 tỉ đôla. Slobodan
Milosevic, cựu tổng thống Nam Tư, bị nghi đã lấy đi từ 2 đến 5 tỉ
đôla.
Người đứng số mười trong
danh sách, cựu tổng thống Philippines Joseph Estrada, bị nghi cuỗm
khoảng từ 78 – 80 triệu đôla sau ba năm cầm quyền.
Tham nhũng của các chính
trị gia là vấn đề gây bức xúc nhất trong dân chúng.
Phong vũ biểu đo lường
thái độ người dân đối với tham nhũng - một phương pháp đo của
Transparency International – thấy rằng nếu người dân có cây gậy thần cho
phép loại bỏ tham nhũng trong một định chế duy nhất trong xã hội,
thì đa số sẽ chọn việc diệt trừ tham nhũng trong các đảng phái
chính trị.
Giới doanh nhân cũng cảm nhận các tác động của
tham nhũng chính trị.
Một khảo sát của Diễn
đàn kinh tế thế giới cho thấy giới doanh nhân tin rằng việc tài trợ
tiền có ảnh hưởng lớn đến chính trị, và hối lộ là phương thức đạt
các mục tiêu chính sách tại 20% các nước được khảo sát.”[1]
II.
Viễn cảnh chính trị ở Việt Nam
Có khuynh hướng cho rằng phát triển kinh tế dẫn đến
mở rộng không gian chính trị, cho nên chính trị Việt Nam sẽ thay
đổi theo chiều hướng nào đã là chủ đề tranh luận của nhiều nhà
nghiên cứu nước ngoài cùng các nhà dân chủ trong nước.
Một xu hướng khá phổ biến phát triển kinh tế sẽ giúp tiến
trình dân chủ hóa nhanh chóng hơn, nhiều người trở nên khá giả và chính họ sẽ
có những nhu cầu đòi hỏi nhà nước chuyên chế phải rộng mở hơn. Thế nhưng mọi
thứ ngược lại, tầng lớp mới càng lệ thuộc vào nhà nước và cùng nắm tay đồng
hành của tầng lớp mới Tư bản đỏ!
Nghĩa là trong kỳ vọng về một xã hội dân sự lành mạnh từ
khát vọng của giới trung lưu mới với các giá trị khác với nhà nước. Qua tác
phẩm kinh điển của Barrington Moore, Social Origins of
Dictatorship and Democracy (1966). Moore và nhiều người sau này như
Rueschemeyer, Evelyne Stephens cho rằng thay đổi chính trị không chỉ phụ
thuộc vào sự thay đổi bản chất của từng nhóm xã hội...mà còn phụ
thuộc vào mối quan hệ giữa các nhóm này và nhà nước.
Theo Martin Gainsborough viết trên tạp chí Asian Survey
năm 2002 thuộc trường nghiên cứu châu Phi và phương Đông (SOAS) của Anh,
cho rằng: “viễn cảnh thay đổi chính trị ở Việt Nam cần được nhìn
qua các thay đổi bên trong bộ máy nhà nước, hơn là nhấn mạnh sự xuất
hiện của các lực đẩy bên ngoài nhà nước.”
Bài tiểu luận này có tựa đề “Political Change in Vietnam:
in search of the middle class challenge to the state.” Tóm tắt như sau:
- Tầng lớp trung lưu mặc dù trong lịch sử là
lực đẩy dân chủ hóa, nhưng cũng lại thường liên minh với chế độ
chuyên chế.
Do đó, thực tế vì quyền lợi gắn liền với thế lực cầm quyền
khiến họ có xu hướng chống lại tiến trình dân chủ hóa cho đến khi một chế độ
mới dân chủ thật sự ra đời, thành phần nầy vẫn còn nhiều tư hữu để trở nên giàu
có trong một chế độ hoàn toàn tự do. Đây là tầng lớp được hưởng lợi khấm khá và
thật sự chỉ có người nghèo vì nhiều lý do phải nghèo là thành phần bị thiệt
thòi nhất!
“Trong trường hợp Việt Nam,
nhìn bề ngoài có vẻ như rõ ràng giai cấp này không tồn tại. Những
đại địa chủ đã bị loại bỏ tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc
Việt) trong thập niên 1950, và việc này lại tiếp tục ở các khu miền
Nam giải phóng trong thập niên 1960 và sau chiến thắng của đảng Cộng
sản năm 1975. Chiếu theo lý thuyết, việc thiếu vắng giai cấp này có
vẻ sẽ hỗ trợ một quá trình chuyển tiếp dân chủ.”[1]
“Tuy nhiên, phải chăng Việt Nam
không có các địa chủ? Bất chấp quy định hạn mức đất nông nghiệp ở
nông thôn, nhưng những năm đổi mới đã đi kèm với tình trạng không có
ruộng đất ngày càng tăng. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là sự
tái trỗi dậy của các nhà địa chủ.
Người ta cũng có thể nói
rằng mặc dù những người chủ đất của chính thể cũ đã bị loại bỏ,
nhưng thay vào chỗ của họ là sự xuất hiện của một tầng lớp chủ
đất mới, đó là các cán bộ và viên chức chính quyền. Thông thường
chính họ, hoặc thành viên gia đình họ, là người nắm ưu thế trong nền
kinh tế nông thôn. Nếu phân tích này là chính xác, thì viễn cảnh cho
sự mở rộng không gian chính trị không sáng sủa lắm.”[1]
“Hải Phòng là một trong những thành phố văn minh
trước tiên của vùng vùng đồng bằng Bắc bộ và sau đó tỏa đi khắp nơi. Bây giờ
vào đầu thế kỷ 21, tại làng Tiểu Bàng, Đại Hợp, Kiến Thụy, Hải Phòng – ‘một
luồng văn minh mới’ cho dù đang mùa tuyển sinh nhưng không còn nghe thấy chuyện
thi cử đại học, thiếu nữ của vùng này đều lo học ngoại ngữ, học đi đứng, học
làm đẹp… học sao cho thật tốt ‘vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề’ để ôm
mộng lấy chồng ngoại hầu đổi đời!
Các “Lò luyện” lấy chồng ngoại quốc ở Hải
Phòng nở rộ như hoa phượng đỏ, các cô gái từ làng quê đến thành phố
đều tham gia theo học những khóa đào tạo ngắn ngày này, họ dạy về ngoại ngữ
theo nhu cầu gồm tiếng Hàn, tiếng Anh… vừa nói vừa ra dấu miễn sao đạt mục đích
đó là phương cách ‘giáo dục thực hành’ của các trường loại này!
II.1 Nông dân và người lao động ở nông thôn
“Giai cấp thứ hai là nông dân
và người lao động nông thôn. Theo lý thuyết, người nông dân trong lịch
sử quan tâm đến dân chủ hóa, nhưng không phải là sức mạnh tạo ra nó,
chủ yếu vì họ thiếu tổ chức.
Gần ba thập kỷ sau đổi mới,
Việt Nam tiếp tục là xã hội nông nghiệp dường như bao hàm ý là chỉ
có một lực đẩy tương đối yếu cho dân chủ hóa.
Kể từ thập niên 1990, bất ổn
ở nông thôn có vẻ trở nên thường xuyên hơn. Còn thiếu các nghiên cứu
về nguyên nhân của điều này, nhưng dường như chúng thường liên quan đến
các tranh chấp đất đai với giới nắm quyền ở địa phương, và đi kèm
các cáo giác tham nhũng. Mặc dù không có bằng chứng về sự tài trợ
trực tiếp từ nước ngoài cho bất ổn nông thôn, nhưng các nhóm phản
kháng đặt ở nước ngoài và các tổ chức nhân quyền nhanh chóng ủng hộ
những cộng đồng nông thôn chịu khó khăn, còn các chính phủ nước
ngoài, bao gồm Mỹ, đã chỉ trích cách đối phó của chính phủ Việt
Nam trước các vụ việc này.
Nhưng ngoài các trường hợp
kiện tụng cá nhân, sẽ là sai lầm nếu người ta nói về một sự đối
lập tại nông thôn hiểu theo nghĩa là một tổ chức có nền tảng thể
chế chung và một lý luận chặt chẽ chỉ trích sự cầm quyền của
đảng. Một số học giả nhắc đến sự phát triển của các nhóm độc lập
đại diện cho nông dân, nhưng có ít bằng chứng cho điều này.
II.2 Người lao động thành thị
Giai tầng thứ ba là người lao
động ở thành thị. Đây được xem là lực lượng quan trọng cho dân chủ
hóa. Ở Việt Nam, số người này vẫn còn ít. Tuy nhiên, thời kì đổi
mới đã đi kèm với việc đô thị hóa nhanh chóng.
Về khía cạnh lao động có tổ
chức, giai cấp lao động thành thị chưa tỏ ra có sức mạnh. Quan hệ lao
động đã trở nên phức tạp hơn kể từ đổi mới, và các cuộc đình công
cũng phổ biến hơn. Tuy nhiên, không có các công đoàn độc lập, và Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam tỏ ra vẫn chia sẻ nghị trình của nhà
nước là khuyến khích kinh tế và bảo đảm ổn định chính trị, hơn là
thật sự đại diện cho người lao động.
“Trên bình diện xã hội, số thanh
niên nam nữ trộm cướp giết người ngày càng nhiều không thể đổ cho chế độ miền
Nam trước đây, từ quan niệm trong cuộc đấu tranh này ‘nếu có mất là mất mảnh
vải che thân’, nên bọn ăn cướp thời đại ngày nay cũng vậy đã nảy sinh tệ xin
đểu ngay tại Trung Tâm Sài Gòn và Hà Nội, chúng có băng đảng và tổ chức hẳn
hoi, và tất nhiên đến mọi ngõ ngách các khu dân cư theo các phóng sự ngay nơi
các máy rút tiền lẻ, công nhân, sinh viên trên đường về nhà nhất là tại các bến
xe, phố đêm vắng người… Quả là tâm trạng hoang mang của người dân vô cùng. Vai
trò của công an và quân đội ngày nay không hết việc và thật cao cả với sứ mệnh
ngày đêm vì an ninh của người dân, nhưng các bạn sẽ không mang lại được hiệu
quả tốt nhất cho người dân vì chúng ta đang là nạn nhân của một cơ chế lỗi
thời. Mọi chuyện phải được giải quyết trên bình diện quốc gia khi tập đoàn
thống trị phải trả ngay thẩm quyền lại cho người dân. Công an quân đội không
phải công cụ của một đảng phái bè nhóm nào nhưng là phục vụ cho người dân và dù
chế độ nào.” (trích tham luận Xin đểu
ngày nay của Nguyễn Quang)
II.3 Tư sản
Giai cấp thứ tư là tư sản, ở
đây được hiểu là tầng lớp kinh doanh hoặc sở hữu vốn. Quan niệm thông
thường xem những doanh nhân là một phần của tầng lớp trung lưu, và vì
thế là lực đẩy cho dân chủ hóa.
Tuy nhiên, theo quan điểm của
Moore, Rueschemeyer và nhiều người khác, tư sản được xem là có quan
điểm không rõ ràng đối với dân chủ hóa. Ví dụ, tác giả Richard
Robison nhắc tới một “hiệp ước cùng thống trị” giữa
tầng lớp doanh nhân và chế độ chuyên chế Suharto ở Indonesia – một quan
hệ dựa trên các quyền lợi chung.
Dù giới doanh nhân là hiện
tượng mới nếu xét về các quan tâm kinh doanh của họ, nhưng họ lại là
cũ khi xét về quan hệ chính trị.
Tại Việt Nam, những năm qua
đã có sự xuất hiện của một giới tinh hoa mới trong kinh doanh.
Tuy nhiên, mặc dù giới tinh
hoa này là hiện tượng mới nếu xét về các quan tâm kinh doanh của họ,
nhưng họ lại là cũ khi xét về quan hệ chính trị. Nghĩa là, nhiều
người trong số các doanh nhân mới này xuất thân từ bên trong hệ thống
hiện nay, đang là hoặc từng là viên chức, hoặc là con cái của giới
lãnh đạo.
Để làm ăn thành công, các
công ty vẫn phụ thuộc nhà nước để có giấy phép, hợp đồng, tiếp cận
vốn và đất, và cả sự bảo vệ. Như thế, Việt Nam vẫn thiếu “một giai cấp tư sản độc
lập hoặc lớn mạnh” mà Moore
xem là yếu tố cần thiết cho dân chủ hóa.
Lý thuyết về dân chủ hóa
cũng nhấn mạnh sự quan trọng của quan hệ giữa tư sản với người lao
động thành thị. Nếu giới trung lưu cảm thấy bị đe dọa bởi người lao
động đô thị, họ có khả năng trở nên bảo thủ hơn. Nếu không, họ có
thể liều lĩnh hơn.
Không có mấy bằng chứng là
có sức ép mạnh mẽ đòi thay đổi chính trị từ cộng đồng kinh doanh.
Đã có những kêu gọi như cần có sân chơi bình đẳng cho mọi công ty, mở
rộng thông tin, bớt sách nhiễu – người ta có thể nhìn thấy ở đây giai
đoạn đầu của một sự phân rẽ giữa tư sản và nhà nước. Tuy nhiên,
những kêu gọi như thế không lớn khi so sánh với việc cũng chính
những công ty này rất nhiệt tình (vì bắt buộc) khi tìm kiếm ưu đãi
từ nhà nước.
Riêng trên đất nước này có thể nói rằng vẫn chưa
có một hệ thống tiền tệ minh bạch: tiền được làm nên đó là thứ phương tiện,
đúng hơn là thứ vũ khí của tầng lớp thống trị với mục đích cuối cùng là thu vén
tài sản của nhân dân, người dân hoan hỷ tưởng chừng như là phương tiện thanh
toán tốt nhất vào mỗi thời nhưng thật sự chính mình là nạn nhân, sự luân chuyển
của đồng tiền chẳng qua chỉ là hình thức gián tiếp cống nạp cho kẻ thống trị vì
cuối cùng đồng tiền chạy vào ngân khố của tập đoàn vua chúa hay đảng trị, họ
muốn thu hồi từ dòng chảy trong bàn tay của chúng bất cứ lúc nào mà không có
một sự giám sát của nhân dân!
Hiện nay dưới sự thống trị của tập đoàn đảng trị
CSVN, sau khi con tàu quốc doanh Vinashin không còn khả năng trả nợ, người ta
mới giật mình, đặt câu hỏi: ai đã quản lý, kiểm tra, giám sát các nguồn vốn của
Vinashin?
II.4 Giới công chức và trung lưu
Nhóm xã hội thứ năm là giới
công chức và trung lưu. Tại Việt Nam, nhóm này bao gồm những cán bộ,
công chức nắm giữ các vị trí trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà
nước, mặc dù có thể có một số sự chồng chéo với tầng lớp kinh
doanh hoặc sở hữu vốn. Một nhóm khá mới trong phạm trù này là các
nhân viên Việt Nam làm việc cho công ty nước ngoài.
Một vài năm trước, một số
học giả nhấn mạnh đến khoảng cách ngày một tăng giữa các nhóm như
vậy với nhà nước, cho rằng con người ngày càng tổ chức đời sống
tách biệt khỏi ảnh hưởng của nhà nước. Mặc dù việc một người làm
cho công ty nước ngoài có thể quan trọng, nhưng Martin Gainsborough lại
nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ liên tục giữa nhóm này và nhà nước,
xét về nguồn gốc tương đối đặc quyền của họ, cũng như trọng tâm
trung thành của họ, hay sự sẵn sàng gia nhập đảng...Như vậy, giống
như giới tư sản, các nhân viên người Việt làm cho nước ngoài vẫn
“thuộc về hệ thống”.
Nếu nói về khả năng thay đổi
trong khu vực này, có thể nghĩ rằng khi giới trung lưu ngày càng có
cơ hội ra nước ngoài, họ sẽ đối mặt với các cách sống và làm việc
khác, khiến họ bớt kiên nhẫn với cách hành xử ở Việt Nam. Hiện
tượng này có thể là những quan sát về giá cả hàng hóa đắt ở Việt
Nam so với các nước khác trong vùng, hay so sánh về tệ quan liêu và
tham nhũng.
Qua bộ phim Đường
Tới Thành Thăng Long hiển hiện rõ: Cả một dân tộc đến gần con số trăm triệu
người, hàng ngàn tiến sĩ gọi là được phong hàm giáo sư… nhưng để tâm vào chuyện
gì? Quả là nhân cách cá nhân do sợ hãi trở nên ngu muội đưa đến vong thân về
tinh thần mà vốn truyền thống của dân tộc này hào hùng, khí khái, hiên ngang,
bất khuất!
Từ tiến sĩ đến các nghệ sĩ, nào phong cho nhau
những mỹ từ danh giá ‘nhân dân, ưu tú..’ Và trên một ngàn nhà văn theo con số
chính thức nhưng quá hèn không viết nổi, không đạo diễn nổi, không đóng nổi các
vai…nên đành đoạn ‘giao trứng cho ác’, ‘bán mình cho quỷ dữ’ !
Không có trận Chi Lăng, Bạch Đằng, vậy lịch sử
dân tộc này là dân tộc nào, cảnh chém giết tàn ác của Tàu thể hiện trong
phim thành gia sản của người Việt như một bộ lạc hoang dã! Một sự phỉ báng Tổ
Tiên dân tộc này!
II.5 Nhà nước yếu hay mạnh?
Bên cạnh việc phân tích thái
độ của các tầng lớp xã hội và quan hệ giữa các nhóm này, người ta
cũng cần phân tích bản chất của quyền lực nhà nước để soi sáng câu
hỏi liệu một nước có dân chủ hóa hay không.
Nhiều năm qua, bản chất của
quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã thu hút những cách phân tích khác
nhau.
Quân đội và công an vẫn
chiếm vị trí quan trọng trong đời sống chính trị Việt Nam
Ví dụ, Joel Migdal (1988) mô
tả Việt Nam là “nhà nước mạnh”, đặt nó chung với Israel và Nhật
cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác. Migdal cho các nhà nước này
là mạnh vì theo ông, chúng có khả năng điều động các định chế nhà
nước thực hiện các công việc chính sách bất chấp sự tồn tại của
các trung tâm quyền lực khác. Một số người khác lại cho rằng khả
năng của nhà nước Việt Nam không mạnh như người ta nghĩ.
Martin Gainsborough lại cho rằng
tựu trung nhà nước ở Việt Nam mạnh, nhưng nó phụ thuộc vào từng
hoàn cảnh, vì thế mà tạo nên các phân tích khác nhau. Nếu quan sát
công việc hàng ngày của các định chế và bộ máy nhà nước, người ta
thấy thói thường quyền lực ở các định chế nhà nước bị phân lập,
và các cơ quan cao hơn trong bộ máy chỉ có khả năng hạn chế khi muốn
điều động các cơ quan bên dưới ('trên bảo dưới không nghe'). Vì thế
quyền lực bị phân tán. Nhà nước ở thế yếu. Tuy nhiên, nếu quan
sát vai trò của công an trong cuộc sống hàng ngày của người dân, nhà
nước lại có vẻ mạnh.
Ngoài ra, trong các cuộc thanh
tra định kỳ (periodic) nhắm vào các hoạt động kinh doanh khả nghi, và
trong việc truy tố các vụ tham nhũng lớn, nhà nước chứng tỏ khi bộ
máy cảm thấy phải chuyển động, nó có thể rất mạnh mẽ.
Như vậy, 30 năm sau đổi mới,
việc nhà nước vẫn có một quyền chủ động tương đối có vẻ không
thuận lợi cho tiến trình chuyển tiếp dân chủ. Lý thuyết về dân
chủ hóa nhấn mạnh rằng sự có mặt thường xuyên của quân đội và công
an trong nhà nước đặc biệt bất lợi cho một sự chuyển tiếp. Tại
Việt Nam, hai định chế này đã luôn có mặt trong các vị trí lãnh đạo
chủ chốt.
Song, môi trường giáo dục của
Việt cộng đang hỏng trầm trọng, từ chuyện học sinh nữ đánh nhau, thầy mua dâm
học trò, đổi tình lấy điểm, mua điểm... Quà Ngày Nhà giáo phát nổ trong khu tập
thể giáo viên vừa qua là trái bom nổ chậm kinh hoàng đến thời điểm không còn
thuốc chữa.
Những người có điều kiện tầm vóc
quốc gia, ngay cả trong ngành giáo dục đều tìm cách cho con đi học ở nước
ngoài, mặc cho nền giáo dục nước nhà theo kiểu ‘nước chảy bèo trôi’ !
Con người của Hà Nội cổ xưa thanh
lịch và sâu sắc từ dáng đi, lời ăn tiếng nói, đến cư xử giữa người với người là
vậy. Trí tuệ của Hà Nội xưa cũng uyên bác và thực chất hơn nhiều. Dưới trào
cộng sản mở đầu câu chuyện là câu láo khoét giả dối làm đầu nào ‘nhờ ơn Bác Đảng…mà
em thế này… nhà u nó ra sao?’
Hà Nội đang rồng rắn lên mây,
những giá trị ảo đó rồi cũng tan biến theo thời gian, những hàng mã trong lễ
hội càng tiêu nhanh, tất cả sẽ qua đi, nhưng ‘văn hóa là những gì còn lại’,
những giá trị nhân văn thể hiện qua nhân cách, trí tuệ người Hà Nội sẽ còn mãi
và không biến mất trong máu huyết người Việt. Nhân sĩ và trí thức Hà thành đang
cất cao tiếng gọi, nhân quyền không còn là chuyện phê phán người khác, cũng
không chỉ với vài bài viết của một tờ tạp chí gọi là làm chuyện nhân quyền.
Nhân quyền là dấn thân, hành động thiết thực qua giáo dục để nhằm biến đổi con
người rồi tự thân con người biến đổi xã hội.
II.6 Các lực lượng xuyên quốc gia
Lý thuyết về dân chủ hóa
cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các lực lượng xuyên quốc gia trong
vấn đề thành công hay thất bại của một tiến trình chuyển tiếp.
Sự chấm dứt chiến tranh lạnh
cũng chấm dứt cái nhìn xem Đông Nam Á là các quân bài domino trong
cuộc tranh đấu ý thức hệ. Vì thế, các nước này đã chịu sức ép từ
Mỹ và EU quanh các vấn đề nhân quyền và cai trị. Việt Nam cũng chịu
sức ép này. Nhưng mặt khác, dường như Việt Nam không đến mức dễ bị
đe dọa trước các luồng xâm nhập tư tưởng từ ngoài – khác với Lào,
chẳng hạn.
Vị trí của Việt Nam ở Đông
Nam Á và việc là thành viên của ASEAN cũng đem lại một tấm đệm nhất
định ngăn sức ép thay đổi từ Mỹ và EU. Dù có sự khác biệt giữa hệ
thống các nước trong ASEAN, nhưng các thành viên đều bộc lộ một mức
độ chuyên chế nhất định và duy trì nguyên tắc không can thiệp chuyện
nội bộ của nhau.
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc góp phần củng cố chế độ
tại Việt Nam.
Dù hai nước này có khác biệt thế nào, họ đều có chung sự không tin
tưởng trước quyền lực toàn cầu của Mỹ và cả hai đều theo quan điểm
cải tổ kinh tế mà không mất quyền kiểm soát chính trị.
Ngoài ra, một thiên hướng
phổ biến là nhấn mạnh rằng trong thời đại toàn cầu hóa, việc hòa
nhập vào nền kinh tế thế giới thường bất lợi cho chế độ chuyên chế.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, tài trợ nước ngoài và vốn tư bản đổ vào lại
giúp củng cố quyền lực nhà nước, vì chính các định chế và công ty
nhà nước thường là người hưởng lợi chính.
Năm mươi năm qua vẫn chưa đủ đã
làm nghèo đất nước này đến dường nào so với mức tăng trưởng kinh tế thế
giới, hãy bần cùng đến nhiều thế hệ hơn nữa, cương lĩnh hứa hẹn ‘Từ nay đến giữa
thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa’ !
Từ định hướng đến phương hướng là
phương nào khi báo cáo đưa ra 8 danh mục cơ bản mà bất cứ một học sinh phổ
thông nào cũng nói được có khi càng bốc hơn, xin ghi lại nguyên văn cho rõ với
phản đề ngắn gọn của người dân trên chữ đậm, nghiêng:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Kinh
tế tri thức: hiện nay Việt Nam
là sân sau, một bãi rác của Trung Quốc!
- Môi
trường tài nguyên thiên nhiên: Thảm họa môi trường và an ninh quốc gia qua
bauxit Tây Nguyên vẫn đang ám ảnh người Việt Nam yêu nước! Rừng vàng biển bạc
đều dần dần rơi vào tay Trung Quốc trong một chiến lược thôn tính lâu dài của
Đại Hán!
Hai là, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Lịch sử từ cổ chí kim chưa ai biết
cái định hướng này là gì, sẽ đưa dân tộc về đâu? Hiện chỉ thấy các cán bộ, đảng
viên Cộng sản hành động càng ngày càng xằng bậy!
Ba là, xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
-Nghĩa là Tàu sao ta vậy! Tàu cộng đưa
ra ‘Xã hội hài hoà’, ta cũng ‘Hài hoà xã hội và sáng tạo thêm chữ Hoà giải nữa!
Nay Võ Tòng đả hổ, ta cũng đã theo!
Bốn là, bảo đảm
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
-Ra
đường là kẹt xe, tai nạn giao thông…đó là trật tự an toàn xã hội! Quốc phòng và
an ninh quốc gia đã có Trung Quốc lo vì trên căn bản những gì đã ký kết ngầm
với Tàu cộng ‘chỉ mong sao trở thành một khu tự trị như Tân Cương, Tây Tạng…qua
mô hình một quốc gia nhiều chế độ!
Năm là, thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
-Cứ thỏa
mái ký kết và không thi hành vì bản chất của CSVN là thế!
Sáu là, xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
-Trong
lịch sử cũng chưa ai thấy dân chủ kiểu Việt cộng như thế này, sự thường nhân
loại gọi kiểu cai trị này là độc tài toàn trị!
Bảy là, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
-Pháp
luật chỉ là thứ trò chơi của giai cấp tư sản theo quan niệm của Mác, như vậy
kêu gọi tôn trọng pháp luật không khác gì chống lại học thuyết Mác!
Tám là, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
-Ngày
nay chống tham nhũng là chống đảng, vậy chỉ có thể diệt hết tham nhũng khi đảng
CSVN không còn, hay tồn tại trong chế độ đa đảng với sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các đảng sẽ giảm bớt lạm dụng quyền lực để tham ô!
II.7 Sau chế độ một đảng sẽ là gì?
Từ đầu, bài viết nhấn mạnh
sự quan trọng của việc thoát ra khỏi cách nghĩ rằng Việt Nam nhất
định sẽ đi trên con đường lịch sử hướng tới chế độ dân chủ kiểu
phương Tây. Như vậy, câu hỏi trong bài đặt ra là còn hướng đi nào khác
cho việc mở rộng không gian chính trị tại Việt Nam?
Một phần câu trả lời có thể
nằm trong việc xem lại các quan niệm như nhà nước và xã hội. Thay vì
đi tìm sự xuất hiện của một xã hội dân sự (civil society) lớn mạnh
đối lập với quyền lực nhà nước, bài viết muốn người ta tìm hiểu
những gì xảy ra bên trong nhà nước.
Một số học giả khác đã theo
quan điểm tương tự. Trong quyển Toward Illiberal Democracy in Pacific Asia
(1995), Daniel Bell và Kanishka Jayasuriya viết:
“Động lực cho cải tổ
chính trị xuất hiện không phải từ việc khẳng định các quyền lợi
độc lập của các giai cấp xã hội, mà từ xung đột bên trong nhà nước;
cải tổ chính trị liên quan việc đối phó với xung đột bên trong nhà
nước, hơn là liên quan sự tái cơ cấu căn bản quan hệ giữa nhà nước
và xã hội.”
Martin Gainsborough cho rằng
điều này thể hiện các nhà nước tại châu Á xây dựng trên một di sản
triết học và văn hóa khác phương Tây. Khi Lý Quang Diệu nói về nhu
cầu hạn chế “cách người dân dùng lá phiếu để mặc cả, ép buộc, xô
đẩy” chính phủ, ngôn từ đó không đơn giản là nói lấy được, mà thể
hiện một cách hiểu hoàn toàn khác về quan hệ giữa nhà nước và xã
hội.
Đã nhiều người nhấn mạnh
đến các yếu tố như xã hội dân sự, tầng lớp trung lưu, tôn giáo đối
lập, trí thức phản kháng, bất mãn của thanh niên, bất ổn ở nông
thôn.
“Sự mở rộng
không gian chính trị có nhiều phần khả năng xuất phát từ thay đổi bên
trong các định chế nhà nước, hơn là nhờ sự xuất hiện của một xã
hội dân sự năng động.”
Martin Gainsborough
Theo Martin Gainsborough, tất cả những điều này đều
là hiện tượng có thật, nhưng ở Việt Nam, đấu trường chính là ở bên
trong nhà nước. Vì thế, nếu quan sát một số các cuộc tranh luận
chính trị liên quan mối quan hệ giữa đảng và chính quyền, vai trò
Quốc hội, vấn đề tập quyền và tản quyền, hay cách thức điều hành doanh
nghiệp nhà nước, thì mức độ thay đổi hay việc mở rộng không gian
chính trị phải được xem trong quan hệ với các định chế nhà nước. Ví
dụ, đảng có thể vẫn giữ quyền tối cao, nhưng phải chấp nhận cho
phép các định chế chính quyền mạnh mẽ hơn, một Quốc hội mạnh mẽ
hơn.
Cũng như vậy, các quan tâm
của giới kinh doanh, thay vì tìm cách biểu đạt qua một tổ chức tách
khỏi nhà nước, thì lại chuyển vào kênh của các tổ chức như Phòng
Thương mại Công nghiệp hay Hiệp hội ngân hàng. Ngay cả nếu người ta dự
đoán một ngày nào đó các tổ chức này sẽ tách khỏi nhà nước, thì
có thể cho rằng họ vẫn duy trì một cách hiểu khác phương Tây về mối
quan hệ giữa nhà nước và xã hội.
Thay đổi chính trị ở Việt
Nam tất yếu sẽ diễn ra, nhưng một bài học từ châu Á là sự mở rộng
không gian chính trị có nhiều phần khả năng xuất phát từ thay đổi bên
trong các định chế nhà nước, hơn là nhờ sự xuất hiện của một xã
hội dân sự năng động như tưởng tượng tại phương Tây.
Bài viết kết luận: Liệu
điều này có tạo ra sự thoát khỏi hoàn toàn hệ thống độc đoán hay
không còn là điều bàn cãi. Có thể đoán rằng khả năng lớn hơn cả là
sẽ có sự nới lỏng dần dần những mặt cứng nhắc của hệ thống quản
lý nhà nước.” [1]
Đất nước Việt Nam đang đi trên con đường với
những khái niệm mù mờ rất đáng sợ, ngay chính những người soạn ra nó chắc chắn
cũng không hiểu nó là cái gì! Nên đã khiến mọi thứ khác xa tư tưởng Nguyễn Trãi
‘Hang cùng ngõ hẻm không còn tiếng khóc than’. Lời vọng từ năm xưa, đó là mục
tiêu của một chính quyền vì dân, đạo đức của những nhà lãnh đạo đất nước - ‘Cái
Đạo làm Vua!
- ‘Hãy ngồi vào bàn ăn mới biết ngon hay dở’ như
ngạn ngữ Phương Tây đã viết! Người Việt chúng ta còn rất hoài nghi chưa chịu
ngồi vào bàn, vì những tỵ hiềm đố kỵ hận thù do lịch sử để lại quá nặng nề! Hãy
ngồi vào bàn để biết thật rõ bạo quyền là cái ác, độc tài đảng trị là gian trá,
biết rằng bàn ăn có nhiều món vẫn thích hơn chỉ một món lại là khoai mì, nhất
là loại khoai mì có tên Ấn Độ H34 gì đó vẫn mãi mãi là nỗi kinh hoàng với các
tù nhân trong các trại tù CSVN. Loại khoai đó ăn vào thường ngộ độc ói mửa,
tháo dạ nhưng phải cứ ăn!
Hãy ngồi vào bàn có nhiều món vẫn thích hơn! Các
anh muốn hạnh phúc và chúng tôi cũng vậy ‘…tuy là khác giống nhưng chung một
giàn’. Giàn bầu, giàn bí, giàn nho…đều cần phải có những nhà kỹ thuật nông
nhiệp hướng dẫn việc cắt tỉa mới sinh hoa trái hầu được mùa. Không thể kêu chú
đánh trâu dạy kỹ thuật nông học, chăn trâu chỉ có thể thống lĩnh trâu bò, càng
không thể là lái bò, thiến heo lên làm lãnh đạo quốc gia! Một dân tộc như thế
dù cho có ít người vẫn đang rơi vào mạt vận!
II.8 Đất nước rồi sẽ chỉ còn trơ lại khung xương.
“Nghĩ đến các mối quan hệ xã hội
ngày nay, tương lai dân tộc VN trong 10, 20 năm nữa, Luật pháp không được thực
thi, có tiền/ có quyền hoặc cả hai, Tiền/Quyền chính là công lý, là đạo đức.
Thày cô giáo, cha mẹ ngày càng ít nói đến những chụẩn mực đạo đức vì làm không
đúng như thế thì nói đến sao được? Thay vào đó là dạy cách kiếm tiền, cách để
đoạt quyền, cách hòa nhập với chung quanh, hoặc nói một cách mơ hồ chung chung,
biến dạng.
Các em sẽ không còn nhận ra đâu
là luật pháp, công lý, đâu là những giá trị văn hóa đạo đức, công bằng ...cũng
như trật tự của chính xã hội đang sống mà sự bảo vệ hỗ tương dưới những hiến
chế luật pháp thật cần thiết vế an ninh cho con người!
Doanh nghiệp Nhà nước là "két sắt" giấu tiền tham
nhũng. Thậm chí nhiều khi có cả doanh nghiệp của lực lượng vũ trang tham gia
cạnh tranh thị trường với doanh nghiệp tư nhân trong các dự án từ ngân sách nhà
nước, thực chất là tiền của dân được gọi là "dân chủ, công bằng". Kết
quả là doanh nghiệp tư nhân thua, lực lượng vũ trang thắng két sắt lại đầy. Làm
kinh tế dân chủ, công bằng kiểu gì lại mang cả lực lượng súng đạn ra cạnh tranh
thị trường thì ai thắng? Sau đó nghe thua lổ, giải thể, sát nhập. Lại có một
doanh ngiệp Nhà nước...mới... ra đời, mà không giải thích được.
Muốn tồn tại thì một số DN tư nhân buộc phải kết hợp
với doanh nghiệp nhà nước, tạo ra những nhóm lợi ích độc quyền, ngạo mạng nhưng
đóng góp ngân sách lại thấp nhất. Số DN tư nhân còn lại phải ngụp lặn, đơn độc
với vai trò thật bé nhỏ, nhưng đóng góp ngân sách lại cao nhất. Thật là khôi
hài !
Tham nhũng ở VN đã trở thành quốc
nạn từ lâu, nó xảy ra mọi lúc, mọi nơi, mọi ngành nghề, mọi lãnh vực, nhiều mức
độ, từ dưới lên, từ trên xuống, không thể kể xiết! Chính quyền các cấp đã hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ "dạy" cho mọi người dân ai cũng biết lo lót,
hối lộ!”[1]
Và chuyện làm luật của các cảnh
sát giao thông với chủ xe diễn ra hằng ngày trên khắp mọi nẻo đường của đất
nước, hành khách trên xe cũng như người tham gia giao thông mỗi khi gặp xe phóng
nhanh vượt ẩu, tất cả đều mong chờ sự xuất hiện của cảnh sát giao thông, thế
nhưng khi các quan thường là bụng bự, tay bỏ túi quần, mắt nhếch nhìn cú vọ
xuất hiện chỉ kiểm tra giấy tờ... song nếu có đính kèm những tờ giấy thật mỏng
thời chuyện làm luật thông qua rất nhanh. Họ đã nhận hối lộ và bỏ qua mọi vi
phạm của nhà xe. Trong trường hợp nếu bị bắt quả tang thì giữa cảnh sát giao
thông, viện kiểm sát, tòa án... họ cùng bắt tay nhau làm trái những gì họ tự
qui định gọi là pháp luật. Như cơ quan tỉnh ủy Bình Phước có văn bản gởi Toà án
nhân dân tối cao về việc một chánh án Toà án nhân dân huyện với hàng loạt các
sai phạm do ông này gây ra như hợp thức hóa hồ sơ xin giảm án cho bị can sớm ra
khỏi trại giam, chỉ đạo cấp dưới kê khống nhằm rút tiền ngân sách chia nhau
tiêu xài hàng trăm triệu... những vi phạm có liên quan đến các quan tham thuộc
viện kiểm sát, chánh án, phó chánh án Tòa án nhân dân tỉnh và các cấp chính
quyền cao hơn đều một phường tham ô, nhũng nhiễu dân lành. Trên Quốc lộ Hai
mươi xuất phát từ Sài Gòn đi về Tây Nguyên, một con đường nếu được bảo quản tốt
chỉ mất có năm đến sáu tiếng đồng hồ, nhưng trước những năm chín mươi phải mất
cả ngày và đầu thế kỷ hai mươi mốt vẫn còn đầy những ổ gà nên việc di chuyển
bằng xe ô tô thật khó khăn, nhất là vào mùa mưa với bao tai nạn khi đổ đèo. Khi
xe chạy ngang qua những vùng đường bộ do Lâm Đồng quản lý hành khách như ngồi
trên các khối sắt bay nhảy chuẩn bị ra ngoài vũ trụ, có lúc nín thở đến cả tim
muốn rớt ra ngoài, còn đoạn đường nào do tỉnh bạn Đồng Nai cai quản thì các chủ
xe cũng như tài xế chuẩn bị sẵn tiền trong túi để hối lộ công an vì dù chạy
kiểu gì chúng cũng thổi còi, may ra trong cả chặng đường chỉ có một, còn sáng
ba chiều bốn cho mỗi vòng đi về như thế với ít nhất là hai mươi đô cũng là
chuyện chưa có gì ấm túi các quan cảnh sát giao thông Đồng Nai. Và thấy Đồng
Nai là biết phải hối lộ rồi, đó là một tâm lý chung bao trùm lên hết thảy mọi
công dân ở đây, chuyện ấy xảy ra kể từ ngày đất nước thống nhất và cho dù có
thay đổi ở cấp lãnh đạo đến tử hình Giám đốc Công an, thời Đồng Nai vẫn
vậy.
- Bất cứ tổ chức nào trên thế
giới không đánh giá VN là nước tham nhũng "nhất thế giới", tổ chức đó
chưa đủ "trình độ"!
Ở VN hiện nay, khi hỏi bạn nghĩ
sao về tham nhũng, thú thật tiếng Việt đã cạn từ!
Ngành nghề nào ư? -Mọi ngành!
Từ địa phương tới trung ương!
Ở địa phương thì cầu, đường,
trường học, bệnh viện, hay bất cứ công trình nào, nghiệm thu chừng một tháng là
bắt đầu xuống cấp! Nó bị rút ruột 60%!
Ở trung ương? -Nhỏ nhất là
Vinashin: cả trăm ngàn tỉ đồng, chưa kể tiền lời phát sinh, chưa kể vốn ban
đầu, đem thí điểm môt thời gian ngắn chỉ còn là "một đống sắt vụn"
như Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói tại QH! Và hiện nay ông bị vạch trần
như một ông trùm tham ô! Thiên hạ đồn
rằng còn bốn, năm cái Vinashin nữa chưa lộ diện! Nên các công trình có vay tiền
nước ngoài đổ vô cái gọi là doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn là tham nhũng
nhất vì không thể thanh tra được và không ai chịu trách nhiêm bồi thường cả!
Tham nhũng là con quỷ mà ĐCS
đã đẻ ra, nó càng ngày càng hung dữ hơn, nó sẽ không bao giờ ngừng cắn nát Tổ
Quốc Việt Nam!
Khi người dân phải nai lưng ra
làm và đều đều đóng thuế 10% VAT, đến đủ mọi thuế khác, kể không hết!
Công nhân viên chức nhà nước từ
đầu đến đuôi làm sao sống nổi với đồng lương "nhà nước", vì thế VN ta
mới có trò hề... bao cấp ngược, nông dân hay doanh nghiệp tư nhân thì tự túc mà
cày, mỗi lần đi xin cơ quan nhà nước cho cái gì từ bằng lái xe, cho con đi học,
giấy phép xây nhà... thì tự động đưa phong bì cho các quan!
Các ông trung ương thì sạch hơn,
không ăn tiền đút lót bôi trơn, nhưng họ rất thích hoa hồng của những chủ thầu
những dự án tầm cỡ quốc gia ODA, dự án Bauxite, thuê rừng, xây dựng nhà máy
điện, buôn bán vũ khí, đường sắt cao tốc...
Cuối cùng là con cháu dân đen sẽ
phải gánh nặng cái món nợ khủng lồ và VN ta không bao giờ ngóc đầu lên được.
III. Thời điểm đã đủ để thay
đổi - Time to change, time to say: That’s enough!
Từ sự khác biệt của một chính phủ
không do dân bầu, khởi đầu của chính quyền xây dựng trên nòng súng và nay tồn
tại trên sự tham nhũng, nên công cuộc chống tham nhũng là một mỹ từ trong nền
chính trị VN vì ai cũng biết từ cửa miệng này của các quan chỉ để trang trí
trên các diễn đàn hội nghị mà thôi. Khi một vị quan lớn lên phát biểu điều này
các quan bé ngồi ở dưới hội trường có thể nhẩm tính bất động sản hay dự án nào
có tên của ông ta, con cái du học Anh, Mỹ bao năm mỗi năm tiêu tốn mấy chục
ngàn Mỹ kim. Những dự án nào ông ta đã hớt tay trên của mình bao nhiêu phần
trăm... Các quan bé so sánh: ta với ông ấy hơn kém gì nhau mà tại sao quyền lực
và tài sản mình chưa thể bằng ông ấy.
Chuyện đang nóng tại Việt Nam, đó
là việc tịch thu dinh thự được tạo dựng một cách bất minh của ông nguyên Tổng
thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền và các đại quan tham khác đang nói lên
“cộng sản đang đào mồ chôn chính mình” qua các báo Người Cao Tuổi và Chân Dung Quyền Lực.
Thiên đường Cộng sản như niềm
mong ước của Mác đã dựng nên và ngày nay trở thành giấc mơ của người dân Việt,
đó là Nhà nước tiêu vong đã đến gần.
Tương lai VN không lành mạnh được
nền chính trị và xây dựng kỷ cương pháp luật tam quyền phân lập cũng như đệ tứ
quyền thì không thể nào thoát khỏi cái bóng của Phi, Thái, chứ nói gì đến giấc
mơ Hàn quốc và Đài Loan.
Trong xã hội, người nhân đức,
chân chính thì không thể giàu có được; còn người giàu có, xa hoa thì không thể
là người có lòng nhân ái và liêm chính- một câu nói của Tây phương tuy có vẻ
hơi quá, nhưng cũng đáng cho ta suy nghĩ.
Nguyễn Quang
*Chú thích:
[1]
Nguồn tổng hợp từ loạt bài về Tham nhũng trên thế giới của đài BBC.