Dâng Một Đóa Hồng
Cho Ngày Lễ Tạ Ơn
MƯỜNG GIANG
Lễ Tạ Ơn
hàng năm được tổ chức trọng thể vào ngày Thứ Năm cuối tháng 11, không
ngoài mục đích “Cám ơn” tất cả những người đã khai sinh và xây dựng Hiệp
Chủng Quốc, trở thành một Siêu Cường Quốc trên thếgiới ngày nay.
Như nhiều lễ hội
khác tại Âu Châu, “Ngày Tạ Ơn” phát sinh từ thời thượng cổ, qua nhiều lý
do khác nhau nhưng tựu trung không ngoài ý nghĩa “chúc mừng thành
công“. Đây là truyền thống của nhiều dân tộc trên thế giới, mong muốn có
một ngày đặc biệt trong năm để mọi người cùng hướng về cám ơn Trời Đất
và Quê Hương mình cũng như những Vị Anh Hùng,Liệt Nữ, những Ân Nhân..
“đã giúp cho dân tộc, quốc gia mình.
Tại Cổ Hy Lạp, hằng
năm đều có tổ chức Thanksgiving để Tạ Ơn Nữ Thần Demeter giúp họ trúng
mùa bắp. Người La Mã thì tổ chức Hội Chợ Cerelia sau mùa gặt chính. Còn
Do Thái thì tổ chức Lễ Mãn Mùa Gặt Hái Sukkoth sau khi thu hoạch.. Trước
khi phát hiện ra Gà Tây tại Tân Thế Giới, người xưa đã dùng Sừng Dê
làm biểu tượng chính trong cuộc lễ.với quan niệm sừng dê sẽ đem lại sự
phồn thịnh cho mọi người.
Hiện có tám nước tổ
chức lễ Thanksgiving hàng năm là Á Căn Đình, Ba Tây, Gia Nã Đại, Nhật
Bản, Nam Hàn, Libéria, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ.
Người Mỹ đã cử hành
ngày Thanksgiving đầu tiên tại miền đông bắc vào năm 1578 do nhà thám
hiểm Martin Frobished đề xướng. Kế tiếp là nhóm di dân trên tàu
Mayflower tại Plymouth Rock tổ chức Lễ Tạ Ơn Trời Đất đã cho họ sống sót
vào tháng 11-1621. Từ đó lễ này được cử hành khắp Hoa Kỳ nhưng không
đồng nhất vì có sự khác biệt phong tục tập quán giữa các nhóm di dân Âu
Châu.
Ngày 4 tháng 7 năm
1789, 13 tiểu bang ly khai sau thời gian chiến đấu đẫm máu chống thực
dân Anh, đã giành được độc lập cho Hoa Kỳ. Chính vị tổng thống đầu tiên
của Mỹ là George Washington đã chọn ngày 26 tháng 11 hằng năm là ngày lễ
Thanksgiving cho toàn quốc. Từ năm 1830 Hoa Kỳ đã bắt đầu chia rẽ vì
vấn đề nô lệ, mở màn cho cuộc nội chiến Nam Bắc. Chính Tổng Thống
Abraham Lincoln trong ngày lễ Thanksgiving năm 1863, đã đề cao “ công ơn
mở nước của nhóm di dân Hoa Kỳ đầu tiên trên tàu Mayflower“. Ông cũng
xác định thời gian cử hành lễ là ngày Thứ Năm cuối cùng của tháng 11
hàng năm. Thế chiến II bùng nổ, Hoa Kỳ đang trong thời kỳ chiến tranh.
Dịp này quốc hội đã biểu quyết chấp thuận ngày Thanksgiving năm 1940
dành “Cám ơn những chiến sĩ đã hy sinh” để bảo vệ đất nước. Tổng thống
Hoa Kỳ lúc đó là Franklin Roosevelt đã chọn ngay Thứ Năm của Tuần thứ tư
tháng 11 làm ngày lễ. Quyết định này được thi hành đến ngày nay.
Riêng Gia Nã Đại
mừng lễ Thanksgiving vào ngày Thứ Hai của tuần lễ thứ hai của tháng Mười
với ý nghĩa cũng giống như Hiệp Chủng Quốc.
Theo những tài liệu
còn lưu trữ, thì những người Hoa Kỳ đầu tiên mừng lễ Tạ Ơn tới ba ngày
nhưng họ ăn uống rất giản dị vì lúc đó thực phẩm quá khan hiếm (kể cả Gà
Tây), nên trong bữa tiệc thường được thay thế bằng gà rừng, chim trĩ,
vịt trời. Ngoài ra cũng không có khoai tây, bánh nướng vì không có bột
mì.
Ngày nay lễ Tạ Ơn
cũng là dịp để cho gia đình đoàn tụ và trong bữa tiệc thực đơn chính vẫn
là món Gà Tây truyền thống, mà những di dân đầu tiên trên tàu Mayffower
được thưởng thức do những người bạn Da Đỏ tạng vào năm 1620. Ngoài ra
cũng không thể thiếu món Bí Đỏ (thực phẩm đã cứu đói những người di dân
trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên khi tới Mỹ).
Năm 2000 nhân loại
bước vào thiên niên kỷ mới. Dịp này Liên Hiệp Quốc trong ngày đầu năm
Dương Lịch 1-1 đã tuyên bố “ Đây là năm quốc tế “Thanksgiving”.
1-DÂNG MỘT ĐÓA HỒNG TRONG NGÀY THANKSGIVING ĐỂ : :
- CẢM ƠN NHỮNG NGƯỜI ĐẦU TIÊN ĐÃ TÌM RA CHÂU MỸ:
Trong lần kỷ niệm
500 năm, đánh dấu ngày Christophe Colomb đã tìm ra Châu Mỹ hay Tân
LụcĐịa. Dịp này đã có nhiều học giả, sử gia, nhà khoa học và khảo cổ
khắp thế giới đưa ra thắc mắc ‘Phải chăng Colomb là người đầu tiên đã
tìm ra Tân Lục Địa hay ông chỉ là người đầu tiên tổ chức cuộc họp báo để
hợp thức hóa sự có mặt của Châu Mỹ trên bản đồ thế giới ?
Christophe Colomb
hay Columbus có gia thế bình thường, cha làm thợ dệt tại Gêne (Tây Ban
Nha). Là một vĩ nhân của thế giới nhưng cuộc đời gặp nhiều bất hạnh vì
sự đố kỵ của thế nhân nên lúc đương thời,đến nổi đã không lưu lại được
một bức chân dung nào của nhà thám hiểm.Điều này đã chứng minh tại sao
những bức chân dung của Colomb hiện đang lưu hành không đồng nhất và ít
giống ông vì các họa sĩ của thế kỷ XVI đã vẽ bằng phương pháp
‘Identikit‘, tức là dựa theo lời kể của những người quen biết, trong đó
có con trai nhà thàm hiểm là Ferdinand. Đại để thì lúc sinh thời Colomb
có nước da và tóc màu đỏ, mắt xanh, cao lớn trên 1,65m.
Thời gian qua, rât
nhiều học giả đã tìm đủ mọi cách phủ nhận công trình thám hiểm của
Colomb nhưng tới nay cũng chỉ là những giả thuyết hoang đường, khó lòng
đánh đổ được một sự thật đã được cả thế giới công nhận và ngưởng mộ.
Nhưng dù gì chăng nữa, thì công trình thám hiểm của Christophe cũng đã
đi vào lịch sử và tâm khảm của mọi người, trong đó có Hiệp Chủng Quốc và
các quốc gia thuộc Châu Mỹ. Ngoài ra từ những khai quật được do các nhà
khảo cổ tìm thấy gần đây, dựa theo niên lịch khảo sát, có thể xác định
đã có nhiều người tới đây trước Colmb, gồm những ngư dân Nhật, nhà sư
Hui Sen, hoàng tử Madoc, Bjarni, Leif và người Do Thái. Nhưng chính
Colmb lại là người đầu tiên đã công bố sự hiện hữu của Tân LụcĐịa Châu
Mỹ cho cả thế giới biết.
- CÁM ƠN NHỮNG NGƯỜI ĐÃ TRANH ĐẤU CHO NỀN ĐỘC LẬP HOA KỲ:
Sau thời gian dài
chiến đấu đẳm máu với thực dân Anh. Cuối cùng 13 Tiểu Bang trong Liên
Hiệp Anh ly khai, cũng đã dành được Độc Lập cho xứ sở, mà ngày nay chúng
ta trang trọng đón mừng hằng năm. Đó là ngày 4-7-1776, lần đầu tiên
‘BẢNG TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN‘ được công bố trước quốc dân đồng bào..
Cũng từ đó, ách nô
lệ của Anh tại đây chấm dứt. Để tạo nên niềm tự hào của một dân tộc có
độc lập và tự do thật sự, năm 1789 Webster Noah là người đầu tiên ấn
hành quyển Tự Điển Tiếng Mỹ, nói lên ngôn ngữ riêng của dân tộc mình.
Cùng lúc Benjamin Franklin cũng đã phát minh ra những mẫu tự đơn giản.
Nhận thức được tương lai của đất nước, sẽ mở rộng bờ cỏi và đón nhận
nhiều sắc dân tới lập nghiệp tại Hiệp Chũng Quốc với nhiều nền văn hóa
khác nhau. Bởi vậy Noah Webster càng chú trọng rất nhiều tới ngôn ngữ
học bằng cách phát hành nhiều loại sách giáo khoa, giảng dạy về ngữ
pháp, chính tả.. tới nay vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong dời sống người
Mỹ.
Sau này có M.Guffey
hợp tác với Noah, đã bộc lộ tinh thần ái quốc và đạo đức, qua các tác
phẩm được phổ biến, làm cho mọi người cảm động và càng ý thức rõ hơn bổn
phận trách nhiệm của một công dân đối với xã hội và quốc gia của mình.
Tuy ngày nay theo bánh xe văn minh của nhân loại, những công trình của
các bậc tiền nhân đã bị lỗi thời với thời gian nhưng tên tuổi của ông
vẫn còn nguyên vẹn. Thật vậy, đối với lịch sử Hoa Kỳ, chính Noah Webster
đã có công tạo nên Ngôn Ngữ riêng cho người Mỹ, dù nó có nguồn gốc từ
tiếng Anh màthật sự không phải là tiếng Anh nguyên thủy. Trường hợp này
cũng tương tự như Ngôn ngữ Việt Nam, có nguồn gốc từ Hán Tự và La Tinh
nhưng không phải là chữ Hán hay La Tinh gốc.
Cùng với chiều hướng
Độc Lập trên, Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ là Washington đã phát biểu
‘Hiệp Chủng Quốc bắt nguồn từ 13 thuộc địa của Anh nhưng Nay Là Quốc
Gia Độc Lập. Vậy tai sao chúng ta cần gìphải quay về với Châu Âu hay
LuânĐôn để bắt chước họ ? qua đợi chờ xin xõ phê chuẩn. Trong đó, sự học
hỏi trên, xét cho cùng, cũng chỉ làsự quê mùa, lỗi thời ‘. Hởi ôi nếu
các nhà lãnh đạo VN bao đời, cóđược một phần tư tưởng độc lập như TT Mỹ,
thì chắc chắn đất nước chúng ta ngày nay đâu phải đắm chìm trong vũng
bùn ô nhục tồi tệ vàthua kém nhân loại.
Để đổi lấy nền Độc
lập cho đất nước Hoa Kỳ ngày nay, nhiều đại biểu của 13 Tiểu Bang ly
khai đã gục ngả trước súng đạn của thực dân Anh. Thomas Jefferson được
đề cử soạn thảo Bảng Tuyên Ngôn Nhân Quyền cho Hiệp Chũng Quốc, trong
lúc cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn giữa Anh-Mỹ. Thế rồi sau ba ngày tranh
luận gay gắt, giữa các đại biểu trong phòng họp, cuối cùng hội nghị
cũng đã bỏ phiếu, thông qua vàchấp thuận Bảng Tuyên NgônĐộc Lập trên,
vào ngày 2-7-1776.
Điều bi thảm mà tới
nay con cháu ít ai biết tới. Đó là vào ngày 4-7-1776 công bố nền độc lập
của Hoa Kỳ, được diễn ra trong thầm lặng, chết chóc, máu lệ khổ đau.
Bởi thực dân Anh đâu có để yên cho những người chủ xướng, nên ra tay
triệt hạ tất cả ai lúc đó dám nói tói Độc Lập cho Hoa Kỳ. Theo sử liệu,
có 56 người đã ký vào Bảng Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Độc Lập Mỹ. Tất cả
đều là sĩ phu trí thứcđương thời, biết trước hậu quả về hành động của
mình nhưng bất chấp mạng sống cá nhân8 và gia đình, chấp nhận hy sinh
cho đại nghĩa dân tộc, đất nước.. Trong số này có Francis Hopkinson quê
New Jersey là một tài hoa hiếm có. Ông chính là tác giả của Lá Quốc Kỳ
Mỹ được lưu hành và tồn tại tới ngày nay. Tóm lại tất cả những người
trong cuộc đều có gia đình, lớn tuổi nhất là Benjamin Franklin (70 tuổi)
và ba người chỉ mới 20 tuổi.
Ngay khi phát giác
được Bảng Tuyên Ngôn Độc Lập, Thực dân Anh lồng lộn điên cuồng, ra lệnh
truy tìm và hạ sát những người có tên trong đó. Ngoài ra còn treo giá
500 Bảng Anh cho ai chỉ điểm, phát giác họ. Cuối cùng Anh tuyên bố Treo
Cổ Tất Cả. Do sự khủng bố trên, nên hầu hết những người liên quan tới
Bảng Tuyên Ngôn, lớp chết, lớp ở tù. Nhiều người bị thương tật khốn khổ
vì sự tra tấn đánh đập dã man của kẻ thù, khiến cho nhà tan cửa nát, gia
đình ly tán. Trong số ít ỏi sống sót sau này, hai người đã trở thành
Tổng Thống Mỹ là John Adams và Thomas Jefferson.
Cái giá độc lập của
Hoa Kỳ là thế đó, mà những người khai sinh ra nó, phải đổi bằng mạng
sống, máu lệ đem về. Cho nên các thế hệ sau ai nấy đều vô cùng cảm kích
và trang trọng noi theo truyền thống yêu nước của tổ tiên mọi thời. Đó
là kết quả của quốc gia Hoa Kỳ ngày nay, một miền đất tạp chũng nhất
trên thế giới,lại là đệ nhất siêu cường, một xứ sở tự do cá nhân nhưng
ai cũng biết dừng lại trước giới hạn của mình, đối với quyền lợi chung
của Tổ Quốc. Cho nên đừng phân biệt Dân Chủ hay Cộng Hoà, Tất cả tuy hai
mà một vì ai cũng chỉ biết có quyền lợi của dân tộc và đất nước Hoa Kỳ
mà thôi.
- CÁM ƠN NHỮNG NGƯỜI ĐÀU TIÊN ĐÃ KHAI SINH RA NƯỚC MỸ
Hoa Kỳ là một vùng
đất liên lục địa (chưa kể Alaska và Hawaii), trải rộng từ bờ Thái Bình
Dương đến tận Đại Tây Dương, với một diện tích hình chữ nhật là
7.812.000 km2. Để đến được miền đất hứa, các nhà thám hiểm Tây Ban
Nha,Bồ Đào Nha, Ý, Anh, Pháp, Hà Lan đã mất hơn một thế kỷ tìm kiếm. Họ
cũng như Kha Luân Bố đều hướng về con đường tới Ấn Độ. Thậm chí khi đã
đặt chân lên vùng đất Châu Mỹ La Tinh cũng vẫn tưởng đó là lục địa Ấn
Độ.
Nhưng cuối cùng sự
lầm lẫn phần nào được sáng tỏ khi nhũng người Tây Ban Nha đầu tiên đặt
chân lên mãnh đất Hiệp Chủng Quốc sau này vào năm 1513, kế tiếp là nhóm
người Anh đổ bộ vào bờ biển Virginia năm 1607. Từ đó danh từ Tân Thế
Giới và người bản địa Da Đỏ chính thức ra đời. Hiện các nhà nghiên cứu
đều xác nhận người Da Đỏ thật sự không phải là chủ nhân ông của Châu Mỹ.
Họ đến từ Đông Á hơn 25.000 năm về trước bằng cách lội qua eo biển
Behring, tới Bắc Mỹ rồi lần hồi thiên cư xuống Trung và Nam Mỹ. Giống
dân này có chung nguồn gốc với người Mông Cổ và Tây Bá Lợi Á. Người Da
Đỏ tại Hoa Kỳ phân thành nhiều nhóm khác biệt theo nghề nghiệp như làm
nông, săn bắn, làm biển..
Khoảng năm 1600,
tính chung người Da Đỏ khắp Hiệp Chũng Quốc chùng 200.000, thuộc 100 bộ
lạc, nói những ngôn ngữ có nguồn gốc Algonquine. Riêng tại 13 tiểu bang
đầu tiên, người Da Đỏ dộ 110.000 người. Nguyên nhân sự thưa thớt trên vì
các bộ lạc thường đánh nhau khốc liệt, lại chết vì bệnh tật, dịch,
truyền nhiễm gây tử vong cho trẻ con rất cao. Sự chung đụng càng lúc
càng làm cho người Âu thêm cãm kích trước những phong tục, tập quán và
nghi lễ của người Da Đỏ. Đối với những người Hoa Kỳ đầu tiên trên vùng
đất mới, chính họ cũng đã nhiều lần bị đói, cho nên đã hiểu rõ vũ điệu
“Busk “ mà bộ lạc Creek và nhiều bộ lạc trình diễn, để mừng ngày “Bắp
Non Đã Ăn Được“. Điều này đối với người Da Đỏ lúc đó hay bây giờ, vừa là
một kinh nghiệm cũng là “mõt nghi thức tạ ơn“ thần linh đã giúp cho họ
có sự sống. Đây cũng là khởi đầu cho sự phát sinh lễ Thanksgiving, tại
nơi sinh sống của kiều dân vùng Tân Anh Cát Lợi vào năm 1621. Cũng từ đó
lễ này trở thành một nghi thức mang tính chất tôn giáo, chính trị, đạo
đức và xã hội..trong đời sống của Hiệp Chủng Quốc.
Liên quan tới ngày
lễ trên, còn có Gà Tây hay Gà Lôi (Turkey hay Dinde),được các nhà thám
hiểm từ tân thế giới (Châu Mỹ) mang vào Âu Châu từ thế kỷ XVI. Năm 1521
Hernan Cortes chiếm Mễ tây Cơ và lấy giống gà này mang về Tây ban Nha.
Người Pháp gọi gà mái tây là Poule d’Inde hay là Dinde, còn gà trống là
Dindon vì lúc đó Âu Châu lầm tưởng Tân thếgiới là Ấn Độ. Tại Pháp, gà
mái tây lần đầu được đưa vào bàn tiệc cưới của vua Charles XIX vào năm
1570. Từ đó, gà tây được coi như món ăn của Hoàng gia và giới thượng
lưu, trong các ngày lễ, yến tiệc và đặc biệt là bửa ăn tối đêm Noel.
Ngày nay gà tây là
món ăn thông dụng, nhất là tại Hoa Kỳ. Gà tây còn được dùng trong lễ Tạ
ơn theo truyền thuyết vào năm 1621 khi linh mục Pilgrim, đi tàu
Mayflower tới vùng Tân Anh Cát Lợi. Trong đêm tổ chức Lễ tạ ơn, thổ dân
tại đây đã tặng ông một con gà tây. Tập tục này được giữ tói ngày nay và
trở thành món ăn truyền thống, không thể thiếu được trong bữa tiệc đêm
Noel.
Theo các nguồn sử
liệu, thì chính nhà thám hiểm Martin Frobished khi đặt chân tới được Tân
Thế Giới (Hoa Kỳ) vào năm 1578, đã tổ chức lễThanksgiving để “Tạ Ơn“
các đấng thần linh, giúp đỡ, bảo vệ chính ông và đoàn thám hiểm trong
suốc cuộc hành trình đầy nguy hiểm trên biển sóng.
Tiếp đó vào ngày
26/11/1620, một nhóm người Âu di dân chừng 102 người,đã đáp thuyền buồm
Mayflower tới được vùng bờ biển Playmouth Rock (Massachusetts). Đúng ra
thì cuộc hành trình trên được dành cho nhóm Hành Hương Thanh Giáo
Pilgrims, từ Âu Châu sang Hoa Kỳ. Họ là những tín đồ sùng đạo Tin Lành,
bị hoàng đế Anh Jacques đệ I đuổi ra khỏi quê hương mình. Đó là nhóm
Pilgrim Father hay Pères Pèlerins. Đầu tiên nhóm này tới Leyde (Hà Lan)
nhưng không may Âu Châu lẫn Anh Quôc lúc đó đang có chiến tranh tôn
giáo, làm lung lay nền quân chủ của cả Pháp lẫn Anh. Nghe theo lời
khuyến khích của nữ hoàng Anh Virginia, nhóm trên quyết tâm tìm đường
tới Mỹ với hoài bão được sống trọn vẹn bằng niềm tin của mình.
Theo các tài liệu
lưu trữ, thì chiếc thuyền buồm Mayflower có trọng tải 180 tấn. Ngày rời
Hà Lan là tháng 9-1620, lúc đó con tàu đang trong tình trạng hư hỏng và
rất nguy hiễm vì nước đá lạnh phủ ngập sàn tàu, sau đó lại thêm một trận
hỏa hoạn, nên hành khách trên tàu bị cấm nấu nướng, chỉ được ăn các
thức ăn lạnh, khiến nhiều người mắc bệnh. Nhưng cuối cùng sau 65 ngày
vượt biển gian khổ, con tàu trên cũng cặp bến tại Cap Cod là một vùng
đất lúc đó chưa có người Âu nào đặt chân tới. Họ đã vượt qua 2750 hải
lý, tuy biết lạc địa điểm nhưng nhóm người trên quyết địng rời tàu vào
ngày 11-12-1620 lên bờ và tới tạm cư tại Plymouth Rock, sống chung hòa
bình với bộ tộc Da Đỏ láng giềng Narrangganset và Wampanoag.
Thời tiết khắc
nghiệt, dói lạnh và bệnh tật đã cướp mất 46 sinh mạng trong số 102 người
di dân, chỉ trong 6 tháng đầu tiên. Những người sống sót nhờ gà rừng,
chim cút, trĩ, vịt nước săn bắn được và bắp của người Da Đỏ giúp, tiếp
theo là sự trúng mùa vào năm 1621. Đó là lý do người đại diện nhóm
William Bradford đã tổ chức lễ Thanksgiving đầu tiên để “Tạ Ơn Trời“ vào
tháng 11-1621. Dịp này gần 100 người Da Đỏ đã giúp Họ sống còn,..được
mời tham dự với tư cách là những ân nhân.
Người Việt tị nạn CS
chúng ta may mắn được sống hạnh phúc trên đất Mỹ, với đầy đủ các quyền
lợi đã qui định từ Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Nhân Quyền, mà đâu mấy ai
hiểu rõ là Tiền Nhân đã đổi lấy nó bằng máu và mạng sống trước bạo lực.
Bởi vậy để đền đáp phần nào tấm lòng nhân đạo mà Hoa Kỳ đã rộng mở,
chúng ta phải biết ‘ nhập gia tuỳ tục ‘, làm tốt bổn phận công dân và cố
gắng phát huy truyền thống tinh hoa của Dân Tộc Việt, để không hổ danh
là con Hồng Cháu Lạc dù đã có quốc tịch Mỹ hay đang sống tạm nơi xứ
người.
Cũng đừng quên cám
ơn mọi người đã cho chúng ta cuộc sống an bình và hạnh phúc hôm nay,
trong đó có những Người Lính VNCH, những Người Còn Sống Sót, Những TPB
& CNQP và Những Tử Sĩ đang nằm :không yên giấc trên quê Mẹ VN, trong
đó có Nghĩa Trang Quân Đội VNCH tại Biên Hòa
Người Mỹ,
dù thuộc thành phần hay thế hệ nào, trong thâm tâm ai cũng ao ước được
một lần tới chiêm ngưỡng Nghĩa Trang Quốc Gia Hoa Kỳ tại Arlington, để
cảm ơn sự hy sinh cáo quý của những anh hùng đã xả thân vì Tổ Quốc..
Trước
tháng 4-1975, miền Nam VN cũng có một nghĩa trang Quốc Gia tại Biên Hòa,
là chốn an giấc nghìn thu của hằng vạn chiến sĩ QLVNCH, đã hy sinh bản
thân, gia đình mình, để ngăn chống lại cuộc xâm lăng của cọng sản đệ tam
quốc tế. Tất cả muôn đời sống mãi trong dòng lịch sử Việt. Đó là những
chiến binh ' vi quốc vong thân ', còn ai xứng đáng hơn họ ?
Được
thành lập vào năm 1965, trên một khu đất rộng của một ngọn đồi thấp ,
khỏang giữa xa lộ Biên Hòa-Sài Gòn. Khi VNCH bị cưởng chiếm, trong nghĩa
trang có hơn 30.000 mộ phần, gồm đủ tướng lãnh (Đại tướng Dỗ Cao
Trí..). sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ..đủ các quân binh chủng.
Nghĩa
trang được thiết kế theo mô hình con ong. Trước cổng ngay lối vào có
thiết kế pho tượng hình một người lính trận cao 5m, ngồi trên một bệ cao
3 m, tất cả bằng đồng đen. Pho tượng mang tên ' tiếc thương ', với ngụ ý
là chỉ có người lính, mới biết thương cho thân phận của chính mình và
các chiến hữu đồng đội, giữa một cái thế giới bạc đen của người miền Nam
lúc đó.
Trước
khi vào khu vực nghĩa trang, mọi người phải qua một cổng tam quan trước
Đền Thờ Liệt Sĩ được dựng trên một ngọn đồi thấp. Từ đó con đường chính,
được chia thành hai lối và chạy vòng khắp khu vực, gặp nhau ở phần lô
cuối cùng. Cũng trên ngọn đồi này, còn có Nghĩa Dũng Đài, bên trên được
xây một bia ký có hình lưỡi lê. Ngoài các tướng lãnh khi qua phần với
bất cứ lý do gì, được an giấc trong một khu vực riêng kế Đài. Còn tất cả
đều dành chôn chiến sĩ QLVNCH, không phân biệt quân binh chủng, cấp
bậc.
Nghĩa
trang QĐ Biên Hòa được hoàn thành qua sự phối họp của nhiều đơn vị gồm
có : Bộ Công Chánh, Trường Kỹ Thuật Phú Thọ, Cục Công Binh, Liên Đoàn 5
Công Binh Kiến Tạo..Riêng DD541 thuộc TD54CBKT là đơn vị trực tiếp thực
hiện xây dựng. Khởi công từ tháng 11-1967 và dự trù hoàn tất vào ngày
Quân Lực 19-6-1975. chưa kịp làm lễ khánh thành thì mất nước.
Theo tài
liệu, thì Nghĩa Trang QD. Biên Hòa chiếm một diện tích 125 ha, có thể
chôn được 30.000 phần mộ, chia thành nhửng vòng cung, với những mộ phần
mang danh hiệu như A1, A2..B1, B2..Tính đến tháng 4-1975 đã có hơn
16.000 chiến sĩ QLVNCH các cấp an giấc tại đây, trong số này hơn 8.000
ngôi mộ, đủ cấp bậc, đã xây cất hoàn toàn rất đẹp và trang trọng. Công
trình xây cất nghĩa trang được dự trù sẽ khởi công tiếp giai đoạn 2, với
ngân khoản lên tới 100 triệu tiền VNCH năm 1973, do Điệu Khắc Sư Lê Văn
Mậu phụ trách trong 6 năm, để thực hiện một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại,
trên chiếc vành khăn tang, trên Nghĩa Dũng Đài. Tác phẩm nghệ thuật
này, sẽ ghi lại những trang lịch sử huy hoàng nhất trong dòng Việt Sử,
gồm 16 giai đoạn quan trọng nhất, từ buổi bình minh các Tổ Hùng dựng
nước Văn Lang..cho tới các thành quả ngăn chống xâm lăng cọng sản, của
QLVNCH.
Một công
trình lịch sử vĩ đại, tiếc thay đã chìm theo giấc mơ quang phục và thống
nhất đất nước, khi giặc Hồ tràn vào. Sau ngày mất nước, VC thẳng tay
trả thù người sống lẫn kẽ chết. Hầu hết các nghĩa trang quân đội tại
miền Nam từ Quảng Trị vào Hà Tiên, trong đó có Nghĩa Trang Quốc Gia Biên
Hòa, đều bì dầy mồ, tàn phá đồng thời ngăn cấm gia đình thân nhân lính
đến thăm viếng sửa sang mộ phần.
Người xưa đã nói :'
nghĩa tử là nghĩa tận ', chết coi như hết thù hận và xí xóa tất cả nợ
nần mà người đó lúc sống đã gây ra. Nhưng cọng sản thì chết vẫn chưa
hết, vẫn phải trả thù, trả nợ. Nên nói đông tây vẫn có thể gặp nhau là
một chân lý. Còn cọng sản và quốc dân VN, thì vĩnh viễn không bao giơ có
thể hòa hợp, hòa giải hay ' nối vòng tay lớn ' với kẻ thù của dân tộc
được. Bởi một đàng có tim óc tình người, còn một phía thì không tim óc
và đã mất đi nhân tính, khi trót bị chủ thuyết vô thần Lê-Mác-Mao-Hồ đầu
độc, không còn thuốc thang gì cứu được, ngoại trừ từ bỏ hẳn độc tài,
độc đảng, độc trị và sự thù hận đồng loại, đồng bào, để trở về với
truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt.
' Mai, nếu có cuộc đổi đời lần nữa
ta xin dành phần : đăng báo, phân ưu
đồng đội xưa đã chết trận, chết tù
thảm thiết quá những hồn ma vất vưởng ..'
Viết tại Xóm Cồn Hạ uy Di
Tháng 11-2017
Mường Giang